banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Để hòa giải dân tộc

Nga không kỷ niệm 100 năm

cách mạng tháng 10

Nguyễn văn Trần

Trong vòng 200 năm nay, có 2 cuộc cách mạng làm thay đổi sâu xa thế giới, có ơn ích nhưng thảm hại cũng lắm kinh hoàng. Nhứt là cuộc cách mạng nga tháng 10/2017. Cách mạng lúc nào cũng đẩm máu và nước mắt. Phải chăng không có bạo lực là không có cách mạng? Hay có thể đây mới là điều quan trọng ở cách mạng : mức độ và sự nhanh chóng kết thúc tốt đẹp những thay đổi?
Nhơn nói cách mạng, thử nhắc lại vài cuộc cách mạng chánh trong lịch sử thế giới. Cuộc cách mạng lâu đời là cuộc cách mạng ở Anh 1642-1649, bạo lực và đổ máu. Cuộc cách mạng Huê kỳ 1776 đem lại độc lập thật sự cho Huê kỳ và đưa nước Huê kỳ trở thành nước dân chủ mẫu mực của thế giới. Tiếp theo là cuộc cách mạng nhơn quyền và dân quyền 1789 của Pháp… Cách mạng Nga năm 1905, cách mạng Tàu năm 1911, cách mạng tháng 10 ở Nga năm 1917… cách mạng văn hóa ở Tàu năm 1964… cách mạng nhung ở Tiệp- khắc năm 1989… rồi cách mạng bông lài ở Tunisie năm 2011… Nhắc lại những cuộc cách mạng trên thế giới nhưng, rất tiếc người ta lại không nhắc tới «cách mạng mùa thu tháng 8/1945» ở Hà nội!

Lê-nin và cách mạng 1789
Cách mạng nhơn quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đươc Lê-nin thường nhắc tới như những giá trị qui chiếu. Lê-nin dùng cách mạng 1789 như một mẫu mực để làm sáng tỏ lý thuyết cách mạng mà ông tuyên truyền với quốc dân của nga hoàng. Lê-nin khai thác tính nhứt quán giữa lý thuyết và thực hành của giai đoạn tiền cách mạng pháp để chuẩn bị cướp chánh quyền dân chủ do cuộc cách mạng 1905 thiết lập sau khi Nga hoàng chấp nhận thoái vị. Trong cách mạng pháp, có hai yếu tố làm cho Lê-nin đặc biệt quan tâm là sức mạnh của giai cấp trưởng giả tự do và sự thắng lợi của nhơn dân. Tình hình ở Nga cũng tương tợ. Lê-nin so sánh cách mạng Pháp 1789 và cách mạng Đức 1848, nhận thấy cách mạng pPáp do nhơn dân đứng lên lật đổ chế độ quân chủ, mở ra chế độ cộng hòa, đem lại tự do cho dân chúng thợ thuyền và nông dân. Còn cách mạng Đức 1848 không kết thúc để dẫn đến một chế độ dân chủ. Lê-nin thấy phải nổ lực vận động quần chúng Nga đi theo con đường của cách mạng Pháp. Sự chọn lựa của Lê-nin làm cho giới trưởng giả Nga cho là vô cùng nguy hiểm. Họ muốn đi theo con đường của cách mạng Đức, đem lại ổn định mau chóng, vì sẽ nhờ có cảnh sát và quân đội. Họ thật sự không lo sợ sự nổi loạn mà sợ nhơn dân thắng lợi, chánh quyền thuộc trọn vẹn về tay nhơn dân.

Cách mạng tháng 10/1917
Ở Thụy sĩ, nghe tin ở Nga cách mạng đã bùng nổ, Nga hoàng đã thoái vị, một chánh quyền dân chủ đã ra đời, Lê-nin sốt ruột tìm cách về xứ. Cho rằng thời cơ đã tới. Về Nga không phải để hợp tác với phe cách mạng vừa giành được chánh quyền mà tìm cách xoay sở đoạt lấy chánh quyền về tay mình trọn vẹn để thực hiện giấc mơ mác-xít của ông từ bấy lâu nay.
Lê-nin tính toán đã có cách mạng Pháp, cách mạng Đức, thì nay phải là cách mạng Nga. Cách mạng Nga sẽ triệt để hơn hết. Nhưng ông phải có lý thuyết. Tchemychevskhi là người đầu tiên đem chủ nghĩa cộng sản vào Nga qua cuốn tiểu thuyết «Làm gì?» (1864) mà Lê-nin mê say và sau này, ông lấy nguyên tựa sách làm tựa cho tập sách của ông, cũng «Làm gì?». Tiếp theo, Lê-nin bắt được quyển «Gìáo lý của người cách mạng» (1871) của Serge Netchaïev. Ông đắm mình trong quyển thánh kinh của người làm cách mạng nhà nghề giúp ông nhuần nhuyễn những nguyên tắc căn bản như người làm cách mạng là phải «sẵn sàng giết và chết» và «những người lãnh đạo cách mạng Nga phải là những tướng cướp». Lê-nin và Staline là hai người kế tiếp nhau lãnh đạo nước Nga đều được đào tạo bởi tư tưởng của Tchemychevski và Netchaiev. Lê-nin là người suy nghĩ ra những phương pháp thiết lập một chế độ độc tài toàn trị. Ông là người lập thuyết của chế độ cộng sản Nga còn Staline vốn xuất thân trong giới lục lâm, nhờ có thành tích thổ phỉ, được Lê-nin tuyển chọn. Staline thực thi lý thuyết cai trị của Lê-nin. Và hai người trở thành một cặp «Lê-nin-Staline» lập ra chế độ cộng sản đầu tìên và lần lượt cộng sản hóa gần phân nửa thế giới.

Tìến hành cướp chánh quyền dân chủ xã hội của chánh phủ Alexandre Kerensky, Lê-nin quả quyết «giai cấp tư sản chấm dứt chu kỳ của nó, bây giờ phải là lúc giai cấp vô sản bắt đầu. Cũng rất hợp lý». Bắt được Karl Marx, Engels, Lê-nin nhin thấy viển ảnh thế giới theo bước đi của Marx phác họa bằng óc tưởng tượng phong phú của ông, một người chưa từng tiếp cận thực tế. Theo đó khi giai cấp vô sản tìến lên thay thế giai cấp tư sản thì không có gì hơn phải làm là tiến hành giai cấp đấu tranh. Lý thuyết này đã làm mê hoặc Lê-nin vì nó đáp ứng hoàn toàn bộ óc tôn thờ lý luận của ông. Nhưng thực hiện đấu tranh giai cấp, để lực lượng dân chủ còn sót lại không phá hỏng được, thì cách mạng phải có chánh nghĩa. Vậy Lê-nin phải trở lại với Marx, học lý thuyết, tuy không đạo đức, nhưng nó lại rất «khoa học», nó sẽ giúp bảo vệ tính chính thống cách mạng bằng cách «thanh toán trước nhứt tất cả lực lượng chống đối, sau đó những người phản cách mạng».

Năm 2017, Nga không tổ chức kỷ niêm 100 năm Cách mạng tháng 10 nhưng Hà nội, kẻ phụ thuộc, lại tổ chức rầm rộ. Phải chăng chỉ vì muốn nhắc nhở mọi ngưòi rằng «ta còn đây»? Mà cái gọi là «Cách mạng tháng 10/1917» có phải là cách mạng hay không?
Theo sử gia Pháp chuyên về cộng sản, ông Stéphane Courtois, (Le livre noir du communisme, Robert Laffont, Paris, 1997- Sách đen của cộng sản), thì đó thật sự hoàn toàn không phải là «cách mạng» đúng nghĩa của nó hoặc cuộc nổi dậy của «quần chúng», như người cộng sản rêu rao. «Cách mạng tháng 10» chỉ là một vụ «binh biến» do khoảng ngàn quân nhơn nổi loạn và Hồng vệ binh chống lại chánh quyền dân chủ lâm thời đang trên đà suy thoái, gây tổn thất không tới năm người thiệt mạng ỏ Pétrograd. Lại cũng không thể nói đó là một cuộc đảo chánh.
Và đây là vụ biến động thứ ba. Vụ thứ nhứt xảy ra ngày 15/3 dẫn đền việc nhà vua thoái vị. Vụ thứ hai nghiêm trọng, mang tính sanh tử. Đưa quân đội đánh Đức, thất bại, làm cho hàng ngàn binh sĩ đào ngũ với cả võ khí. Alexandre Kerenski, lãnh đạo chánh phủ lâm thời, giải nhiệm Tướng Kornilov vì thấy Kornilov đang tính ổn định lại tình hình. Hạ Kornilov vì Kerenski bị ám ảnh bởi Napoléon của cách mạng pháp nên sợ sẽ phải đối đầu với Kornilov. Nhưng khi hạ được Tướng Kornilov, Kerenski đã vô tình tách rời chánh phủ khỏi quân đội. Thấy mình bổng ở thế cô đơn, ông vội ngã theo bolchevick tìm chổ dựa, nhiều đảng viên vừa được ông mở cửa nhà tù thả ra, trang bị 40000 khẩu súng và cả cho phép nhà in tái hoạt động. Ông không biết làm như vậy là mình đang dấn thân vào con đường tự sát.
Xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng, lương thực thiếu do vận chuyển bế tắc, cải cách nông nghiệp thất bại. Lợi dụng tình hình khủng hoảng, lực lượng bolchevick bắt đầu tấn công. Lê-nin ra lệnh chiếm mau các cơ cấu chánh quyền, tuy bolchevick thiểu số. Thế là Quốc hội Lập hiến vừa mới bầu, nền dân xã hôi non nớt thành hình sau bảy thập niên quân chủ chuyên chế kết thúc, nhường chổ cho một chế độ độc tài.
Nắm được chánh quyền, Lê-nin rất hài lòng «Thật không ngờ còn dễ dàng hơn trở bàn tay!».

Di sản cách mạng
Những tên đồ tể tên tuổi lẫy lừng như Staline, Hitler, Mussolini, Mao Trạch-đông, Hồ chí Minh, Castro, Pol Pot… đều là truyền nhân của Lê-nin, có cùng tổ là Karl Marx. Họ học được tư tưởng vĩ đại của tổ sư là «lật đổ chế độ tư bản phải dùng bạo lực, quét sạch tàn dư của chủ nghĩa tư bản, phải xây dựng chế độ chuyên chính vô sản ».
Lê-nin đã tiến hành quét sạch tàn dư của chế độ cũ ở nước Nga, giết hại không biết bao nhiêu người vô tội, để xây dựng chế độ độc tài toàn trị đầu tiên sau cách mạng tháng 10/1917. Kế tiếp sự nghiệp của Lê-nin, những đại đệ tử từ Hitler đền Pol Pot đều lập thành tích chém giết dân, phá hoại xã hội không thua sư phụ.

Di sản của những tên đồ tể này để lại, theo Giáo sư người Huê kỳ, Rudolph Rummer (1932-2014), Đại học Hawaï, chuyên về những vụ «giết người hàng loạt trong thế kỷ XX của những nhà cầm quyền cộng sản», thì Liên-xô giết 61 triệu người, Trung cộng giết 78 triệu, phần còn lại trên thế giới, có 200 tiệu người bị cộng sản các nơi khác giết. Nạn nhơn chết vì nạn đói do nhà nuớc xã hội chủ nghĩa tổ chức, chết do cải cách ruộng đất, những chiến dịch đánh tư sản, những vụ thanh trừng, và những vụ cải tạo xã hội …
Nhưng đây chỉ là những khai phá bước đầu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn kế tiếp, đối tượng kiên cố là gia đình, tôn giáo, xã hội dân sự. Nó kiên cố vì nó là nền tảng của xã hội nhân bản, mà là trở lực lớn và kiên cố của việc thiết lãp chế độ độc tài toàn trị và xây dựng xã hội theo cộng sản. Dĩ nhiên, khi nắm quyền, người cộng sản phải thanh toán triệt để những trở ngại này.

Sau cách mạng tháng 10/1917, Lê-nin ra lệnh giết hết gia đình Nga hoàng, cả trẻ con. Ông ta cho đày đi hàng triệu dân Nga, cả trẻ con, tới những vùng hoang vắng của Sibérie và Kazakhstan. Hàng trăm ngàn trẻ con đã chết vì đói và bênh tật trên đường đi.
Kế nghiệp Lê-nin, năm 1953, Staline áp dụng luật Hình sự Liên xô tử hình hoặc giam giữ, như đối với người lớn, trẻ con từ 12 tuổi trở lên. Staline còn tập trung giam giữ trẻ con mồ côi, cha mẹ bị chế độ giết hại, vì cho rằng chúng sẽ là mầm bạo loạn nguy hiểm cho chế độ sau này.
Về Staline, có một chi tiết lịch sử mà Hà nội,cuối năm 1990 biết được, kinh ngạc vô cùng và phản ứng lúc đầu là không tin vì một con «người không bao giờ sai lầm» có thể làm như vậy sao?. Ngày 23/8/1939, Staline chấp thuận ký thỏa ước không tấn công nhau với Hitler, với bản phụ đính phân chia vùng ảnh hưởng với Đức. Tài liệu này được giữ bí mật. Qua tháng 9, thỏa ước ban hành, Staline bắt đầu thôn tính các nước nhỏ chung quanh, thành lập Liên-xô. Nhưng khi bị Hitler tấn công, Staline mới gia nhập Đồng minh để giữ thân.
Lê-nin đưa ra chánh sách cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu xóa bỏ tôn giáo, thanh trừng những người có đạo, tịch thu nhà thờ, tài sản, đất đai của nhà thờ, cả những vật thờ cúng, trang trí nhà thờ.
Toàn trị, chế độ không cho phép ai nghĩ khác hơn nên những tu sĩ bị đi cải tạo tập trung hoặc tử hình. Và cũng bắt đầu chiến dịch thanh trừng. Trí thức Nga tìm đường trốn ra ngoại quốc. Chánh quyền giữ lại những người làm việc trong ngành vật lý cho nhu cầu phát triển võ khí. Tổ chức giáo dục theo « hồng hơn chuyên», không cần học, chỉ cần ngoan ngoãn với chế độ.
Tất cả những điều này đều được đem áp dụng ở Việt nam từ năm 1954 khi Hồ chí Minh về Hà nội. Nên Hồ Chí Minh được báo chí Anh và Ba-lan đưa vào danh sách 10 tên đồ tể tội lớn nhứt chống nhơn loại.

Nga không tổ chức kỷ niệm 100 năm cách mạng tháng Mười
Trước đây, tới ngày kỷ niệm cách mạng 10/1917, nhiều ấn phẩm mới tràn ngập tiệm sách. Triển lãm, hội thảo nhắc nhở và đề cao sự nghiệp Lê-nin nhưng từ những năm sau này, trang sử đó được khép lại. Sau khi cộng sản sụp đổ, không do bị thua giặc, mà vì bị dân chúng phủ nhận, không có khả năng mở ra tương lai, Mạc-tư-khoa không tổ chức kỷ niệm cách mạng nữa. Sử gia người Anh Eric Hobswan cho rằng thế kỷ XX là thời đại đầy những «quá khích». Điện Cẩm linh cũng không thấy có lý do tổ chức kỷ niệm cách mạng 1917 để nhằm vinh danh Hoàng đế Nga Poutine nữa!
Vả lại, biến cố tháng 10/1917, theo sử gia, quan hệ đến vai trò quân đội hơn là quần chúng nổi dậy làm cách mạng và nên được xếp vào bên lề Đệ I Thế chiến.
Ngày nay, cách mạng 1917 bị xóa khỏi ký ức tập thể, bị xóa luôn khỏi sách giáo khoa cấp trung học, cả ở Pháp cũng vậy. Xóa để xóa luôn hinh ảnh hằng trăm triệu người chết do cách mạng tháng 10/1917 là nguồn gốc gây ra, đảng cộng sản là thủ phạm. Mác-xít chỉ đươc coi như một chủ thuyết thuần tư tưởng, chớ không còn là ý thức hệ nền tảng cách mạng «xóa bỏ chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa khoa học ».
Hơn nữa, ngày nay, thế hệ trẻ ở Nga chỉ biết say mê những mới mẻ của điện tử và chạy theo thời trang, tiện nghi vật chất. Về chánh trị, họ chỉ cần biết nước Nga hiện nay có một nhà lãnh đạo là ông Poutine. Về đời sống, họ xác tín đời sống được tự do là điều quan trọng hơn hết. Thế hệ trẻ này mở ra với thế giới Tây phương, họ sống không định kiến, không chấp nhận mọi thứ giáo điều, mọi khuôn mẫu gò ép. Họ chọn cho mình sự tự do nội tâm. Lớp tuổi sanh ra vào lúc chế độ cộng sản sụp đổ, ngày nay, quả quyết nước Nga và cả thế giới sẽ phải được xây dựng bởi những con người có văn hóa, có đạo đức, mang hoài bảo tốt đẹp.
Năm 2017, Nga chẳng những không tổ chức kỷ niệm 100 năm cách mạng tháng 10/1917 mà còn xây đài tưởng niệm nạn nhơn cộng sản thời Liên-xô. Ngày 30/10/2017, Nga khánh thành một đài tưởng niệm các nạn nhân những vụ đàn áp chính trị thời Liên Xô, với sự hiện diện của Tổng thống Vladimir Poutine.
Đài tưởng niệm, dưới dạng một bức tường, được khánh thành trong khuôn khổ Ngày tưởng niệm các nạn nhân đàn áp chính trị, được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1991, năm mà Liên Xô tan rã. Theo điện Cẩm-linh, Tổng thống Poutine dự lễ khánh thành đài tưởng niệm sau khi họp với Hội đồng Xã hội Dân sự và Nhơn quyền, bàn về chánh sách của Nhà nước về tưởng niệm các nạn nhân đàn áp chính trị.
Trong khi đó, ngày 29/10, nhiều người dân Nga đã tập trung tại thủ đô Mạc-tư-khoa để tưởng niệm hàng triệu nạn nhân trong loạt thanh trừng dưới thời Staline. Theo tổ chức nhơn quyền Memorial ở Nga, chỉ riêng tại Mạc-tư-khoa, có hơn 40.000 người bị hành quyết trong giai đoạn đó. Lễ tưởng niệm được tổ chức gần tảng đá Solovetski, được chuyển từ đảo Solovki, trại cải tạo lao động Xô Viết đầu tiên, về Mạc-tư-khoa, và đặt tại công trường Loubianka, trước trụ sở của cơ quan tình báo FSB, trước kia là KGB.
Các nhà đấu tranh bảo vệ nhơn quyền vẫn lên án Tổng thống Vladimir Poutine tìm cách xóa bỏ ký ức về tội ác của Staline bằng cách đề cao tinh thần yêu nước trên TV, báo chí nhà nước.

Vẫn còn ảo tưởng
Sau khi Christophe Colomb tìm được Mỹ châu, người dân Tây-ban-nha (đại đa số Công giáo) vẫn còn tin trái đất vuông nên ngày nay cũng chẳng nên lấy làm lạ vẫn còn lắm người tin chủ nghĩa cộng sản là ưu việt, tội ác là do những người hung ác gây ra, sai trái với cộng sản. Staline giết người, Lê-nin là người tốt nhưng cả hai đều là người yêu nước. Họ không thấy Staline là đồ tể gốc tướng cướp chuyên nghiệp, Lê-nin là người nghĩ ra chánh sách cai trị đẩm máu.
Nhà văn Thierry Wolton, tác giả lối 20 cuốn sách về cộng sản, đặc biệt là quyển “Lịch sử chủ nghĩa cộng sản thế giới”, nhận xét sự kiện Lê-nin cướp chánh quyền, lập chế độ cộng sản đầu tiên chỉ là một cuộc “đảo chánh”.
Ông nói lại rõ hơn tất cả nhân chứng vào thời đó đều nói về «cuộc đảo chính». Báo L’Humanité của cộng sản Pháp ngày 09/10/1917 chạy tựa «Cuộc đảo chánh tại Nga». Nhơn kỷ niệm một năm, tháng10/1918, báo Pravda (Sự Thật), cơ quan ngôn luận của bôn-sê-vích, cũng nói rõ rằng đây là một cuộc “đảo chánh”. Mãi đến tháng 10/1920, tức là ba năm sau đó, chánh quyền cộng sản mới biến “đảo chánh” thành “cách mạng”, dàn dựng cảnh một đám đông Hồng quân tấn công vào Cung điện Mùa Đông ở Saint Petersbourg. Nhưng cho tới ngày nay, người ta vẫn tin. Nhứt là cộng sản ở Hà nội. Tổ chức cả lễ tưởng niệm rình rang. Mới thấy ảo tưởng lúc nào cũng mạnh hơn sự thật!
Chủ nghĩa cộng sản được tuyên truyền là giai đoạn tiến bộ cuối cùng của nhân loại gợi lại mơ ước của con người về thiên đàng mà tôn giáo hứa hẹn cho những người biết tín ngưỡng. Cộng sản còn quả quyết họ không phải hứa hẹn như tôn gìáo, mà thực hiện ngay thiên đường tại đây, trước mắt đây thôi, chủ nghĩa xã hội là bước đầu.
Vẫn theo ông Thierry Wolton, những người ảo tưởng về cộng sản, tôn thờ Lê-nin, Staline, Mao, Hồ Chí Minh… phủ nhận tội giết người hàng loạt của nhà cầm quyền cộng sản (Démocide, tiếng của Gs Rudolph Rummer) cũng giống như những người theo phát-xít Đức (fachosphère), phủ nhận tội diệt chủng của Đức Quốc xã. Họ muốn cứu vớt danh dự tín ngưỡng của họ cho rằng chỉ có cộng sản mới có khả năng đem lại tương lai rạng rỡ, rằng cộng sản thật sự không phải như quá khứ địa ngục đã xảy ra ở khắp nơi. Khi không phủ nhận được thì họ tìm cách làm nhẹ đi tội ác cộng sản.
Nhưng Tàu, Việt nam giống như vài nước cộng sản ở Phi châu cương quyết theo lê-nin-stalinít và ca ngợi sự chọn lựa của mình là đúng.

Việt nam năm 2017 tổ chức kỷ niệm 100 năm cách mạng tháng 10 của Nga. Vượt lên cả Nga. Thì chắc chưa bao giờ họ nghĩ tới việc tổ chức Đài tưởng niệm nạn nhơn của cộng sản như ở Mạc-tư-khoa. Nga không làm kỷ niệm cách mạng tháng 10 là để thực hiện hòa giải dân tộc. Cộng sản ở Việt nam chỉ kêu gọi hòa hợp, tức mọi người về với họ vì đã được họ khoan hồng. Họ tự cho họ có chánh nghĩa, họ có vai trò lịch sử đem lại cộng sản cho Việt nam.
Triết gia Vladimir Jankélévitch (L’Imprescriptible. Pardonner, Paris, 1983) mới tự hỏi “Làm thế nào có thể tha thứ tội chống nhơn loại của cộng sản khi mà không có một tên cộng sản đao phủ thủ nào, một tên lãnh đạo nào, một bí thư nào đã xin lỗi nhơn dân, nạn nhơn của họ, xin lỗi chung nhơn loại?”.
Người cộng sản, người thân cộng sản, chánh trị thiên tả, cả ở Pháp ngày nay, vẫn tìm cách phủ nhận tội ác diệt chủng của cộng sản.
Phủ nhận để sống còn!

Nguyễn văn Trần



Cộng sản: nói và làm

Nguyễn Hoàng Dân (Danlambao) - Mọi đảng cộng sản và mọi đảng viên cộng sản đều có cái đặc tính, nói đúng hơn là một thứ thuộc tính (Inherent) bất di dịch, nói và làm luôn luôn mâu thuẫn với nhau, hoàn toàn ngược nhau, như đen với trắng, nhưng được che đậy dưới những chiêu bài lý tưởng, hay ngụy biện chơi chữ theo lối làm xiếc với chữ nghĩa, nhằm đánh tráo bản chất vấn đề, sự kiện, với dụng ý quỷ quyệt làm xóa nhòa gian manh, dối trá giữa các luận điệu tuyên truyền đầy lôi cuốn và sự thật trần trụi đến ghê tởm mà họ đã và đang thực hiện.
Cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã có câu nói để đời với lịch sử "Đừng nghe những gì cộng sản nói. Hãy nhìn những gì cộng sản làm". Đây là chân lý bất biến, rất dễ làm các đảng viên cộng sản tức tối vì đã bị chọc đúng vào gót chân Achilles của họ, khiến các tập thể cuồng cộng đã bị tẩy não (Brainwashing) tới độ mù lòa, cứ giãy nảy như đỉa phải vôi, nhưng đã là chân lý và trước những sự thật hiển nhiên, thì không thể nào dùng các thứ lý lẽ cãi chầy, cãi cối, để mong có chút phần thắng khi tranh luận được.
Từ việc lớn quốc gia đại sự, như giải phóng tổ quốc giành độc lập (nay bị lệ thuộc Tàu cộng 100%), xây dựng nền kinh tế chỉ huy chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (nay là thứ quái thai dị dạng kinh tế thị trường, định hướng XHCN), hay xóa bỏ giai cấp bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng (nay có giai cấp tư sản đỏ là thiểu số đảng viên cộng sản gộc và bọn đại gia cơ hội chủ nghĩa, cấu kết mãi quốc cầu vinh trên thân phận khốn khổ của gần 90 triệu con dân Việt Nam), đến việc nhỏ như phân phối cái ăn, cái mặc, cái trị bệnh lúc ốm đau (khi còn đói khổ), tới giành phần, phân loại, định chổ chôn cất (lúc đã hoàn tất vinh (?) thân phì gia, xuôi tay về với Mao, với Hồ)… đều rặt một kiểu khốn nạn, nói đằng đông, làm đằng tây, của một tổ chức lưu manh là đảng cộng sản và với một bọn ngược ngạo, gian ác là các đảng viên đảng cộng sản.
Ôn cố tri tân, thử điểm qua một vài chính sách và việc thực hiện thực tế của đảng cộng sản Việt Nam, đối với dân đen xã hội chủ nghĩa và cán bộ đỉnh cao trí tuệ của đảng, về ít chuyện nhỏ nêu trên, tức chuyện ăn, chuyện mặc khi còn sống và chuyện chôn cất khi đã hết thở, để thấy được sự tham lam hèn mạt của người cộng sản, sự lưu manh của câu thiệu "mình vì mọi người, mọi người vì mình" và sự bất hạnh của đất nước Việt Nam, khi bị cai trị bởi một bè lũ mang danh là chính quyền của nhân dân, mà những chuyện nhỏ ăn, mặc hàng ngày, cũng phân loại hơn, thua với nhân dân, khi chết cũng trâng tráo chia chác cuộc đất vùi thây cho cá nhân và đồng đảng. Các chuyện nhỏ còn không có đủ liêm sỉ tối thiểu để làm coi cho được, thì mong gì tới các đòi hỏi nghiêm túc, chính trực, công bằng cần có khi làm những chuyện lớn là việc trị quốc, an dân.

1. Cái ăn, cái mặc ở miền Bắc Việt Nam trước năm 1975: Khác hẳn với các cuộc cách mạng của nhân loại trong quá khứ, cách mạng cộng sản đã nhân danh việc tiêu diệt và xóa bỏ giai cấp, để lập ra sự thống trị của một giai cấp mới, một thứ "the new class", được George Orwell súc vật hóa khi ví von mặt thật trần trụi của cuộc cách mạng vô sản do các con heo khởi xướng là hứa hẹn sẽ đem lại cho tất cả mọi con vật sự bình đẳng, nhưng có các con vật bình đẳng hơn các con khác, được Michael Voslensky hoán vị song trùng với cuộc cách mạng tháng 10 Nga, gọi là thành phần Nomenklatura, tức tầng lớp cán bộ đảng viên cộng sản Lienxo đang nắm trọn quyền lực trong đảng và tự định ra sự thụ hưởng cao vượt bậc, so với cuộc sống đói rét của người dân ngoài xã hội.

Miền Bắc Việt Nam trước năm 1975 là một phó bản thu nhặt những sản phẩm què quặt, phi nhân do cuộc cách mạng vô sản quốc tế mang lại, nên cũng cũng rập khuôn y hệt và chỉ có một khác biệt duy nhất là về quy mô nhỏ hơn.
Với chủ trương lấy hận thù, đấu tranh giai cấp làm động lực, đồng thời xử dụng tiêu chuẩn…. ác hóa con người làm thước đo cho sự trung thành, đảng cộng sản Việt Nam đã ra sức tàn phá mọi cơ cấu truyền thống lâu đời của nền văn minh Việt Nam, hủy hoại nền văn hóa nhân hòa tương thân, tình làng nghĩa xóm, nhằm trói buộc con người trong toàn xã hội, từ nông thôn ra thành thị phải tuân phục và lệ thuộc hoàn toàn vào đảng và nhà nước cộng sản.
Chỉ riêng trong vùng các đô thị miền bắc, sau các chiến dịch tiêu diệt tư sản trong ba năm 1958 – 1960, về căn bản chỉ còn giành cho thành phần các đảng viên lãnh đạo và giai cấp công nhân vô sản.... Từ năm 1961 kết cấu xã hội trong cộng đồng dân cư đã thay đổi tận gốc rễ. Một xã hội đa tầng bị thu gọn thành một kết cấu đóng, hai mặt, hoặc là quốc doanh, hoặc là tập thể. Số hộ còn lén lút làm ăn cá thể trong các vùng đô thị chỉ còn ước độ 17%... (Vũ Ngọc Tiến, Điều tra đời sống cư dân đô thị miền bắc Việt Nam giai đoạn 1954 đến 1975, 2005). Con người trong toàn xã hội được chia thành 7 bậc. Nhân dân gồm 3 bậc là dân thường, sinh viên, học sinh và trẻ em. Cán bộ có 4 bậc là cơ sở, sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Chế độ hộ khẩu - một đặc trưng bất biến của chủ nghĩa cộng sản và xã hội công an trị cũng được thiết lập xong, triệt để và toàn diện, khống chế và kiểm soát cộng đồng xã hội tại miền bắc Việt Nam tuyệt đối về mọi mặt.

Người dân hoàn toàn sống ký sinh, những nhu cầu ăn, mặc, phải dựa theo chế độ tiêu chuẩn định lượng, định phẩm, do nhà nước quy định cụ thể cho từng thành phần. Mọi loại vật dụng cần thiết trong đời sống bình thường, từ lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, đến các nhu yếu phẩm gia dụng tối thiểu trong sinh hoạt, nhất nhất đều phải thông qua sổ gạo và dưới hình thức các loại tem, phiếu (gọi là bìa), được nhà nước phân phối theo từng quý 3 tháng, đến mua tại cửa hàng quốc doanh được chỉ định riêng cho mỗi mặt hàng và tùy theo từng thành phần thuộc vào 11 thứ hạng xếp loại cao, thấp trong xã hội cộng sản.

Tổng quát, mức sống của hơn 80% cư dân được cào bằng như nhau trong sự gia ơn, ban phát được chăng hay chớ của nhà nước. Sự chênh lệch còn lại là mức thụ hưởng của một đẳng cấp mới hình thành trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vốn được chế độ mệnh danh là thể chế ưu việt, không còn giai cấp và kẻ bóc lột.
Nhân dân làm chủ nhân ông đất nước, hưởng tiêu chuẩn thấp nhất là tiêu chuẩn N. Mỗi tháng một người lớn được mua 12 kg gạo, 0,3kg thịt heo, 0,5kg cá, 0,1kg đường. Trẻ em dưới 15 tuổi được mua 10kg gạo, 0,2kg thịt, 0,3kg cá, 0,2kg đường. Ngoài việc ăn độn, mua như cướp, phải tranh giành xếp hàng từ rạng sáng, bán như cho, phải quỵ lụy, cầu cạnh các mậu dịch viên vênh váo, mặc sức quát tháo, thi ân, ban phát (?), gạo bán cho nhân dân thường đã mốc, hôi và đen, nhưng gặp thức gì thì phải lấy thức đó. Trong phiếu thịt lại có kèm ô bán đậu phụ (tàu hũ miếng) để cửa hàng du di bán thay thế thịt, gọi là bảo đảm cho tiêu chuẩn chất đạm.
Công nhân lao động nặng, hay công việc độc hại hưởng tiêu chuẩn I, hoặc II. Mỗi tháng tối đa một người được mua 15 kg gạo (phẩm chất gạo nhân dân), 1,5 kg thịt, 1,5 kg cá và 0,75 kg đường.
Cán bộ cơ sở có bậc lương cán sự 1 đến cán sự 4, trong quân đội từ hàng binh sĩ đến Trung úy, hưởng tiêu chuẩn E, thay đổi chút ít từ E1 đến E2, nhưng tối đa mỗi tháng được mua 13 kg gạo (phẩm chất nhân dân), 1 kg thịt, 2 kg cá và 1 kg đường.
Cán bộ sơ cấp từ bậc lương cán sự 5 đến chuyên viên 2, trong quân đội là sĩ quan cấp Thượng úy đến Trung tá, hưởng tiêu chuẩn D. Mỗi tháng một người được mua 13 kg gạo ngon, 2 kg thịt, 3 kg cá và 2 kg đường.
Cán bộ trung cấp hàng vụ trưởng, cục trưởng, giám đốc, hưởng tiêu chuẩn C. Mỗi tháng một người được mua 13 kg gạo ngon, 3 kg thịt, 5 kg cá, 3 kg đường, 1 hộp bơ và 2 gói thuốc lá ngoại nhập.
Cán bộ cao cấp từ hạng chủ tịch tỉnh, hàng thứ trưởng, trong quân đội là sĩ quan cấp Thượng tá tới Đại tá, hưởng tiêu chuẩn B. Mỗi tháng một người được mua 15 kg gạo thơm, 5 kg thịt, 10 kg cá, 5 kg đường, 2 hộp bơ, 1 chai rượu và 1 cây thuốc lá ngoại.
Cán bộ cao cấp về đảng là ủy viên trung ương, bí thư tỉnh ủy, về nhà nước là hàng bộ trưởng, trong quân đội là sĩ quan cấp tướng, được hưởng tiêu chuẩn A. Mỗi tháng một người được mua 15 kg gạo thơm, 7 kg thịt, 12 kg cá, 5 kg đường, 3 hộp bơ, 2 chai rượu và 2 cây thuốc lá ngoại nhập.
Toàn bộ các ủy viên bộ chính trị, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội và đại tướng tổng tư lệnh quân đội, đều hưởng tiêu chuẩn ĐB đặc biệt), với mức cung cấp số lượng và chất lượng cũng đặc chuẩn theo nhu cầu.

Từ sau năm 1954 tại Hà Nội đã có các cửa hàng quốc doanh đặc biệt, giành riêng cho từng loại cán bộ, đảng viên.
Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn A, B có cửa hàng gạo ở phố Ngô Quyền, chuyên bán các loại gạo thơm, đóng bao riêng, cân đủ và không ăn độn. Thân nhân, gia đình ăn theo, tuy nguyên tắc vẫn ăn độn (nên số lượng được mua ít hơn) nhưng vẫn là loại gạo hảo hạng... Thành ủy đảng bộ cộng sản của Hà Nội, giao cho hai hợp tác xã nông nghiệp Quốc Oai và Từ Liêm, phải giành riêng ra 100 ha ruộng, để chuyên canh các giống lúa Dự, lúa Tám thơm, theo một chế độ quản lý và chăm sóc đặc biệt, như phải với giống thuần chủng và không xử dụng thuốc trừ sâu để giao nộp lên trên... ( Bùi Tín, Mặt thật, 1993 ). Cửa hàng số 17 phố Tôn Đản, phụ trách bán thực phẩm thịt, cá, rau, quả có phẩm chất cao, vì cũng sản xuất riêng và phải tuân thủ nguyên tắc thịt tươi, rau không bao giờ úa, héo, lịch sự và giá rẻ. Cửa hàng giao tế tại phố Lý thái Tổ thì bán cung cấp 42 loại hàng “ đặc chủng “, không có ngoài thị trường, như đường kính, bánh quy tây, kẹo tây, bơ, chocolate, vải vóc, thuốc lá ngoại, rượu ngoại và cả sâm Cao Ly, với đặc điểm cũng ngoại hạng là giá rẻ như cho và với số cán bộ tiêu chuẩn A, hay ĐB thì được mua tự do.
Tại bốn quận nội thành Hà Nội, các phố Nhà Thờ ở quận Hoàn Kiếm, phố Vân Hồ ở quận Hai Bà Trưng, phố Đặng Dung thuộc quận Ba Đình và phố Kim Liên ở quận Đống Đa đều có cửa hàng giành riêng cho giới cán bộ, đảng viên trung cấp hưởng tiêu chuẩn C.

Quảng đại đa số dân chúng mua tại các cửa hàng quốc doanh xã, phường do nhà nước quy định cho từng khu dân cư, vừa ít ỏi về chủng loại, số lượng, lại vừa nghèo nàn, kém cỏi về phẩm chất, tới nỗi niềm ao ước lớn nhất mỗi khi tết đến của người dân chỉ là có được một nồi cơm trắng và vài miếng thịt kho. Tất cả mọi sự trao đổi, mua bán ngoài hệ thống thương nghiệp quốc doanh đều bị cấm ngặt, chỉ có vài nhóm mua bán cá thể lén lút hoạt động ở chợ Bắc Qua, nhưng do thường xuyên bị công an truy đuổi gắt gao, nên cũng chỉ hạn chế và giá cả cũng rất cao.
Gia dụng phẩm thiết yếu nhất là cái mặc, mỗi năm một cán bộ nhà nước hạng sơ, trung cấp được mua 4m vải nội hóa, trong khi dân thường chỉ có 2m vải, 2 quần đùi và 2 áo thung ba lổ, đã thế còn thất thường, có năm phiếu vải của người dân chỉ được mua ít kim, chỉ?!!. Hạng cán bộ cao cấp thì mua tự do ở cửa hàng giao tế, từng có trường hợp vợ một cán bộ gộc mua trong một lúc đến 180m vải tweed ngoại nhập.

Sự phân phối cách biệt giữa giới lãnh đạo cộng sản cao cấp, với thành phần các đảng viên trung cấp, cơ sở và tầng lớp bần dân, đồng thời với sự ra đời của các cửa hàng đặc biệt, thời gian đầu được đảng cộng sản giải thích là do xuất phát từ đề nghị của phía công an, chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho cán bộ, tránh mọi sự đầu độc (?). Sau năm 1965, các loa tuyên truyền của đảng lại ra rả bào chữa cho rằng để bảo đảm cho đời sống cán bộ, trong điều kiện vật giá tăng, lương không tăng (?), nên phải cần có chế độ phân phối như vậy, vừa hợp lý với nguyên tắc làm theo năng lực và hưởng theo lao động của chủ nghĩa xã hội, tức cán bộ đảng phải ngày đêm lao tâm, khổ trí tìm đường đưa cả dân tộc lên đỉnh vinh quang chủ nghĩa cộng sản được ăn nhiều hơn, ngon hơn người lao động cơ bắp một chút là việc thỏa đáng, vừa hợp tình với điều kiện đất nước còn nghèo, bởi tỷ lệ chênh lệch giữa các thành phần cũng chỉ có 1/7 (?). Khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, thì mọi người tha hồ ăn ngon, mặc đẹp, như Karl Marx khẳng định thời hoàng kim sẽ đến với người cộng sản và xã hội cộng sản, do mọi công dân nước thiên đàng chỉ cần làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu!!!
Trên thực tế, từ sau năm 1954 ở miền Bắc và kéo dài mãi đến đầu năm 1989 trên toàn cõi Việt Nam, việc phân phối miếng ăn, cái mặt trong toàn xã hội theo chiều hướng lưu manh, bần tiện nói trên của đảng cộng sản, đã tạo ra sự chênh lệch phẩm chất cuộc sống giữa bọn Nomenklatura và giới bần dân bị trị và bị lợi dụng, không thể tính với tỉ lệ dối trá 1/7, mà là phải là 1/50, 1/100 và hơn nữa trên 1/1.000. Sự lừa bịp của đảng cộng sản khi chiếm đoạt mọi đặc quyền, đặc lợi cho thiểu số đảng viên cai trị, trong chuyện tranh giành với dân chúng việc nhỏ nhất là miếng ăn, dù đảng đã trí trá ngụy biện, giấu giếm che đậy còn hơn cả mèo giấu cứt, nhưng cũng bị người dân "thủ đô anh hùng" soi mói, dè bỉu qua câu đồng dao... Tôn Đản là chợ vua quan, Vân Hồ là chợ trung gian nịnh thần, Bắc Qua là chợ thương nhân, Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.... và với câu đố dí dỏm, nhưng không kém phần cay độc... Bụng to, trán hói, hay nói ba hoa, đi xe Volga, ăn gà Tôn Đản... là con gì?. Đối với bọn mặt dày, vô liêm sỉ cộng sản Việt Nam, thì những phản ứng tiêu cực, kiểu chiến tranh nước bọt loại này là vô nghĩa.

2. Cái chết và chuyện chôn cất: Sau khi ăn đã đầy túi tham, hưởng lạc thú đã tới lúc không còn thứ linh đơn, loại diệu dược nào có thể giúp kéo dài thêm cuộc sống được nữa, cũng như đã củng cố đời con, đời cháu no cơm, ấm cật xong đâu ra đó… thì rõ ràng việc phải xuôi tay theo Mao, hay Hồ là chuyện không thể cưỡng lại được, nên đảng cũng chu toàn lo hậu sự cho đồng đảng được mồ yên, mả đẹp, theo tinh thần ơn đền, nghĩa trả cho hợp đạo lý cán bộ cấp cao (?), vì người thường dân khi chết nhà nước đã có chủ trương đem đi hỏa táng trong những "đài hóa thân" vừa thuận tiện, văn minh và không kém phần hiện đại, nhất là trong điều kiện quỹ đất đai ngày càng eo hẹp của một nước nhỏ, đông dân và phải không ngừng cắt xén bớt cho anh bạn bốn tốt.
Cũng như quy định về cái ăn, cái mặc, thì cái chết và chuyện chôn cất các cán bộ của đảng cũng được phân hạng rất rõ ràng và cụ thể. Nghị định 105 năm 2012 của chính phủ cộng sản Hà Nội quy định khi có cán bộ cao cấp nào chết, nếu được tổ chức lễ quốc tang, lễ tang cấp nhà nước, hay lễ tang cấp cao, sẽ được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch tại Hà Nội, hay nghĩa trang thành phố Lạc Cảnh ở Thủ Đức – Sài Gòn.
Các chức danh trong đảng và về mặt nhà nước (gồm cựu và đương nhiệm) được tổ chức lễ quốc tang có tổng bí thư đảng, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ và chủ tịch quốc hội.
Các chức danh trong đảng và về mặt nhà nước (gồm cựu và đương nhiệm) được tổ chức lễ tang cấp nhà nước có ủy viên bộ chính trị, bí thư ban chấp hành trung ương đảng, phó chủ tịch nước, phó thủ tướng chính phủ, phó chủ tịch quốc hội, chủ tịch ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc, chánh án tòa tối cao, viện trưởng kiểm sát tối cao, đại tướng lực lượng võ trang và thượng tướng là cán bộ hoạt động trước tháng 8/1945.
Nghĩa trang Mai Dịch xây dựng năm 1956, nằm trong phạm vi phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy – Hà Nội, có tổng diện tích hơn 5,9 ha, vốn là nghĩa trang liệt sĩ chống Pháp của các quận nội thành Hà Nội. Năm 1982 nghĩa trang được được tân trang, tu bổ để làm nơi chôn cất thêm các cán bộ cao cấp của đảng và hiện nay đã có 394 mộ cán bộ cao cấp như Lê Duẩn, Trường Chinh, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu… cùng 1.228 mộ liệt sĩ.
Nghĩa trang thành phố Sài Gòn ở trong phạm vi phường Linh Trung, quận Thủ Đức, cũng là nghĩa trang liệt sĩ, người có công với đảng và khu A, tức đồi Lạc Cảnh, do thành ủy quản lý, giành riêng để chôn cất các cán bộ thành phố cao cấp như Nguyễn văn Linh, Võ văn Kiệt, Mai chí Thọ, Võ trần Chí.
Tháng 2/2018 Hà Nội chính thức công bố quy hoạch chi tiết xây dựng nghĩa trang mới giành để chôn cất các quan chức cao cấp, vốn đã được phó thủ tướng Hoàng Trung Hải ký quyết định số 546/QĐ-TTg theo lệnh của ban bí thư đảng từ tháng 4/2014. Theo đó, vị trí được chọn ở tại xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, nằm dưới chân núi Ba Vì, rộng tổng cộng 120 ha và cách phía tây Hà Nội hơn 40km. Tổng kinh phí xây dựng dự trù lên tới 1.400 tỷ VNĐ, quy mô chôn được 2.200 đến 2.500 cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, theo tiêu chuẩn mỗi người được 25 đến 35m2 đất.

Trong hoàn cảnh ngân khố quốc gia đang cạn kiệt, xã hội thì bi đát khắp nơi, mọi chổ. Nhà thương đầy người bệnh lê lết ngoài hành lang, dưới gầm giường vì quá tải, trẻ con vào trường học vách đất, mái lá, phải chịu cảnh mưa tạt, gió lùa và dân chúng nhiều nơi phải vượt sông bằng cách chui vào bao nylon như người nhái, hay đeo ròng rọc như binh sĩ học đu dây tử thần… mà đảng vẫn bình chân như vại, táng tận lương tâm móc túi ngân sách để lo chổ ấm ngàn thu cho đồng đảng! Ngàn thu hay không thì gương tày liếp của Lenin, Stalin, Saddam Hussein còn sờ sờ ra đó. Gần hơn và cũng là đồng chí cật ruột hơn là Lê đức Thọ chôn trong nghĩa trang Mai Dịch, chịu không xiết cảnh bị ném phân, phóng uế, thân nhân phải cải táng đem về quê Nam Định, hay Võ nguyên Giáp phải trốn ra Vũng Chùa – Đảo Yến, chịu vùi lấp thân xác kẻ nướng quân như xài bạc giả dưới hàng tấn cement cốt sắt, mong tránh tương lai không xa "Thương dân, dân lập đền thờ. Hại dân, dân đái ngập mồ, thối thây" thì Yên Trung sẽ yên được bao lâu cho đảng.


03/2018

Nguyễn Hoàng Dân

 

Chú thích:
Milovan Djilas, The New Class : An Analysis of the Communist System, 1957.
George Orwell, Animal Farm, 08/1945.
Michael Voslensky, La Nomenklatura : Les Privilégiés en URSS, 1980.
Vũ ngọc Tiến, Điều tra đời sống cư dân đô thị miền bắc Việt Nam giai đoạn 1954 đến 1975, 06/2005.
Lê tùng Minh, tức Tô minh Trung, Dân chủ hóa Việt Nam : Hiện thực và khả năng, 2004.
Nguyễn ngọc Tiến, Đi xuyên Hà Nội, 7/2015.

 

Đăng ngày 10 tháng 03.2018