banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Món nợ 54 năm

Yên Tánh (Danlambao) - Đất nước càng lầm than, thê lương thì hàng năm vào đầu tháng 11, người dân Việt ở bất cứ đâu lại càng nhớ đến một cơ hội tốt lành cho dân tộc và đất nước đã bị tước đoạt. Miền Nam dân chủ và văn minh không còn là niềm hy vọng cho sự hồi sinh toàn bộ đất nước Việt Nam nữa. Và họ cũng không thể nào quên được người đã tạo ra cơ hội bị tước đoạt đó. Nhân vật ấy không ai khác hơn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Một nửa đất nước Việt Nam đang sống trong an lành, thịnh vượng và nhìn về tương lai đầy tin tưởng thì bỗng đâu giông tố giăng đầy trời, ánh sáng mặt trời phụt tắt, cuồng phong nổi lên khắp chốn, cuốn phăng mọi vật trên đường đi của nó. Không còn ánh sáng, không còn mặt trời, không cả loài người và vạn vật. Chỉ còn bóng tối của địa ngục, nơi bọn quỷ dữ nhảy muá trong tiếng hú man rợ, chết chóc.
Thế mà đã 54 năm kể từ ngày vận nước bắt đầu rơi vào tăm tối.
Trên dãi đất hình chữ S, nằm bên bờ Thái Bình Dương ngàn năm sóng vỗ, biết bao xáo động chính trị liên tiếp xảy ra hàng ngày, hàng giờ chỉ để làm cho tình hình ngày thêm rối ren, chiến tranh dần leo thang và mở rộng. Tương lai đất nước mù mịt.
Ở miền Nam, cuộc sống không còn như trước và hiểm nguy có thể xuất hiện nơi đầu hẻm, cuối phố. Đời sống dân lành giờ đây thêm nhiều khó khăn trong việc mưu sinh, đã thế họ lại phải đối mặt với cái chết vô lý bất cứ lúc nào, ở đâu. Đã đành người chiến sĩ có thể chết trong trận mạc, nay người dân thường cũng có thể chết trên bờ đê, dưới ruộng, ở ven xóm làng hay cả khi xem phim ở rạp chiếu bóng, cùng gia đình thưởng thức món ăn trong nhà hàng một ngày cuối tuần, đang ngồi trên một chuyến xe đò liên tỉnh mong gặp người thân hay đang say sưa theo dõi bài giảng của thầy.
Ở miền Bắc, tình hình càng tồi tệ hơn bởi chủ nghĩa xã hội đã bị phá sản ngay từ đầu bởi một lũ lãnh đạo cuồng tín, ngu dốt, theo lệnh ngoại bang áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai, không hợp thời, không hợp hoàn cảnh và bất khả thi. Hậu quả về mặt kinh tế là nền sản xuất bị đình trệ và phá sản, phải lệ thuộc toàn diện vào Nga, Tàu và lẽ tất nhiên về mặt chính trị là phải chịu làm lính đánh thuê để biến vùng Đông Nam Á thành vùng chịu ảnh hưởng bởi những ông chủ cuả chúng. Thanh niên nam nữ chưa xong bậc phổ thông đã phải bị tống vào Nam làm bia đỡ đạn để rồi chịu cảnh sinh Bắc tử Nam.
Đất nước Việt Nam rơi vào cảnh nồi da xáo thịt chỉ có lợi cho ngoại bang mà nguyên nhân chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rước voi về dầy mả tổ, bôi mặt đánh chiếm miền Nam hiền hoà, thịnh vượng và văn minh để dâng lên cho quan thầy của chúng. Tội lỗi tày trời này cho đến ngàn năm trời không thể dung mà đất cũng chẳng thể tha!
Trước đó,Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã thấy được mâu thuẫn giữa các cường quốc trên thế giới thuộc hai khối Tự Do và Cộng Sản. Các ông thấy rằng dù thuộc khối nào, các cường quốc luôn đặt quyền lợi của họ lên trên hết, nên sẵn sàng mua bán, thoả hiệp với nhau trên số phận các nước nhược tiểu.
Nga đã bao đời bị nền văn minh Tây Phương đánh bại nên dùng chủ nghĩa Cộng Sản như một công cụ để tập họp các kẻ thù trong lòng các nước Tây Phương và các nước thuộc điạ để đánh bại khối Tây Phương tự do, cùng lúc phát triển khoa học, kỹ thuật rồi bước lên ngôi vị bá chủ thế giới.
Hoa Kỳ có mặt ở vùng Đông Nam Á nhằm ngăn chận sự bành trướng của Cộng Sản quốc tế tại đây sẽ gây nguy hại cho khối Tây Phương tự do, không cộng sản, đứng đầu là Mỹ.
Đối với Trung Cộng, đất nước Trung Hoa từng chịu nỗi nhục bị các nước Tây Phương biến thành bán thuộc địa nên họ có quyết tâm phục hưng đất nước bằng cách liên kết với khối Cộng Sản to lớn dẫn đầu bởi Nga Sô. Với sức mạnh to lớn cuả khối Cộng Sản quốc tế, nay họ dễ dàng tránh những khó khăn gây ra bởi thế giới Tây Phương, thực hiện những việc cải cách đất nước cuả mình toàn tâm, toàn ý. Song song với công việc lâu dài là thôn tính toàn thề vùng Đông Nam Á, giờ đây họ có cơ hội may mắn ngàn năm một thuở là nắm đầu được tên Cộng Sản Việt Nam đàn em cắc ké, xúi dục và hậu thuẫn chúng đánh Pháp, rồi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam cuả hy vọng và tương lai cuả đất nước Việt Nam, dưới danh hiệu trâng tráo và bỉ ổi là cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam! Họ tính toán cẩn thận rằng khi chiến tranh làm toàn thể Việt Nam suy tàn về hai mặt vật chất lẫn tinh thần: đất nước bị tàn phá tang thương, lòng chia rẽ và hận thù giữa người Việt với người Việt sâu hơn biển Thái Bình, thì nhanh hay chậm tùy theo tình hình thế giới, việc Việt Nam bị Trung Quốc thôn tính là một điều đương nhiên và chắc chắn.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã có viễn kiến về những điều kể trên nên có sách lược rất rõ ràng trong công cuộc xây dựng và phát triển dân tộc và đất nước cũng như cách thức ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản vào miền Nam.

Hai ông biết rõ ràng rằng Nga, Tàu dùng chủ nghĩa Cộng Sản để đánh các nước Tây phương và thôn tính các nước nhược tiểu trên toàn thế giới chứ không phải là làm nghĩa vụ cao cả giải phóng loài người như từng rêu rao. Hai ông cũng rõ tận tường mục đích tối hậu cuả sự có mặt cuả Mỹ ở vùng Đông Nam Á mà điểm nóng là Việt Nam là ngăn chận sự xích hoá toàn thế giới sẽ gây phương hại cho Mỹ nói riêng và khối tự do nói chung.
Sau những phân tích về tình hình thế giới và Việt Nam, các ông thấy ra rằng lối thoát cho các nước nhược tiểu chịu cùng một lúc ảnh hưởng của nhiều nước lớn là lợi dụng các mâu thuẫn giữa các nước này để bảo vệ sự độc lập của nước nhà. Tranh thủ thời gian và nguồn vốn nước ngoài để đầu tư vào việc học hỏi khoa học, thâu thập kỹ thuật, hình thành và phát triển cách tổ chức minh bạch, ngăn nắp và lối suy nghĩ chính xác của nền văn minh Tây Phương trên mọi lãnh vực hoạt động của quốc gia, để từ đó bắt kịp trình độ khoa học, kỹ thuật của Tây Phương, rồi tiến đến một trình độ cao hơn nữa là tạo ra khả năng sáng tạo khoa học, kỹ thuật để có đóng góp xứng đáng vào nền văn minh thế giới đồng thời tạo lập cho đất nước Việt Nam một vị thế vững chãi trên trường quốc tế tương tự cách thức mà Nhật Bản đã thực hiện được.
Đối với vấn đề ngăn chận sự xâm nhập của cộng sản Bắc Việt vào miền Nam, hai ông thấy rằng muốn thắng cộng sản, thắng lợi quân sự là chưa đủ. Miền Nam phải thắng cả trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và chính trị. Và sự chiến đấu đó muốn đạt được thắng lợi bắt buộc phải được tiến hành bằng chính sự đóng góp và tham gia của người dân, đặc biệt là chính những người dân sống trong vùng bị bọn cộng sản quấy nhiễu.
So sánh cách thức tổ chức làng xã ở miền Bắc và miền Bắc Trung phần với các tỉnh miền Nam hình thành từ cuộc Nam tiến của Chúa Nguyễn cho thấy miền Nam mặc dầu có đất đai rộng lớn và trù phú hơn nhiều, nhưng dân chúng sống rải rác và không tập hợp thành các đơn vi dân cư, hành chánh với sự gắn bó về mặt truyền thống, tập tục, tình cảm và ý thức cộng đồng.Thế mà vùng đất mới này lại có tiềm năng rất to lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển dân tộc và đất nước sau này và phải là nơi khởi thủy cho việc đánh bại chiến lược cuả cộng sản là dùng nông thôn để bao vây thành thị.
Dựa trên các tính chất đặc thù về tự nhiên và xã hội của các vùng điạ lý khác nhau của miền Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã khởi xướng quốc sách Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật nhằm thiết kế miền Nam thành những đơn vị hành chánh mạnh cả về năng lực sản xuất lẫn khả năng chiền đấu tự vệ hữu hiệu khi có sự xâm nhập của cộng sản vào các đơn vị hành chánh đặc biệt này. Chính sách khôn ngoan và hợp lý đó có khả năng ngăn chận sự xâm nhập cuả cộng sản một cách hữu hiệu và đáp trả các vụ xung đột quân sự một cách nhanh chóng, kịp thời mà không phải trông đợi nhiều vào sự tiếp ứng cuả các cơ quan hữu trách trung ương.
Kế hoạch minh bạch, rõ ràng, hợp lý cho việc xây dựng và phát triền miền Nam của đất nước đã được thực hiện và mang lại những kết quả khởi đầu thật tốt đẹp và đầy hứa hẹn thì thù trong giặc ngoài của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cấu kết với nhau bằng cách này hoặc cách khác nhằm âm mưu lật đỗ một chính quyền dân cử hợp pháp, hơp hiến được đa số dân chúng miền Nam tin tưởng, ủng hộ và yêu mến.
Sau những thất bại thuyết phục lẫn tạo áp lực với chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép Mỹ đem quân đội vào chiến trưởng miền Nam, dùng hoả lực mạnh để đánh nhanh rút gọn, nhằm sớm chấm dứt chiến tranh, chính quyền Kennedy đã âm thầm mua chuộc các tướng lãnh phản trắc làm cuộc đảo chánh. Trước đó, Mỹ đã cố gắng tạo cớ cho rằng chính quyền cuả Ngô Đình Diệm không được lòng dân, đàn áp Phật giáo bằng cách dùng truyền thông đặt điều bôi xấu chế độ cuả ông, cấu kết với bọn cộng sản nằm vùng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản và bọn đội lốt thầy tu mưu đồ chính trị để dàn những cảnh thầy tu xuống đường tự thiêu để phản đối cái gọi là “đàn áp Phật giáo”. Kịch bản hay, đạo diễn tài ba, diễn viên xuất sắc đã cho Việt Nam thưởng thức một vở bi hài kịch mà cái giá phải trả là sự mất đi độc lập cuả đất nước, tự do và hạnh phúc cuả toàn dân sau này!
Trong những ngày cuối cùng còn lại cuả nền đệ nhất Cộng Hoà, tình hình Sài Gòn rối ren, Đại sứ Nolting gợi ý đưa anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm rời khỏi Việt Nam, Tổng Thống Diệm đã tức giận từ chối thẳng thừng và cho ông ta biết là mình đang làm mọi cách để thiết lập lại trật tự ở thủ đô. Trước khi từ giã cõi đời, di vật mang theo bên mình ông chỉ là một gói thuốc lá sử dụng dang dở và một xâu chuỗi đọc kinh hằng ngày. Thế mà ông đã và sẽ mang theo mình mãi mãi sự luyến thương và tiếc nuối cuả muôn đời con dân nước Việt!
Nếu so sánh với các nguyên thủ quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á bao gồm các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Singapore từ thập kỷ 50 đến tận ngày nay, chưa thấy ai qua được ông về tấm lòng yêu nước, đức liêm khiết và tài lãnh đạo đất nước vượt nguy biến. Nhìn xa hơn một chút là Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn, cũng chưa thấy ai hơn ông được.
Bây giờ hãy nhìn đến Mỹ. Từ đời Tổng Thống Kennedy đến đời Tổng Thống Obama, có biết bao chuyện nhơ nhớp về đời sống riêng tư, các trò mị dân, khai gian, luồn lách pháp luật, sử dụng thủ đoạn chính trị tồi bại, phản bội đồng minh và ngay cả bán nước! Kennedy ra lệnh giết đồng minh thì quá dễ dàng cho Nixon dâng miền Nam cho cộng sản Bắc Việt, để rồi sau này các tổng thống của Đảng Dân Chủ tay bắt mặt mừng, làm ăn với Trung Cộng, kẻ thù tiềm tàng của Mỹ và cả thế giới, thêm nữa, họ không có chính sách cứng rắn, rạch ròi ở Trung Đông, tự trói tay mình mà nhìn kẻ thù khủng bố Hồi giáo tác yêu tác quái. Qua trung gian Hilary Clinton, chính quyền Mỹ bán uranium cho Nga để được dùng vào mục đích chế tạo vũ khí hạt nhân thì có xứng đáng cấu thành tội phản quốc không? Và còn gì nhục nhã hơn việc đường đường là một tổng thống cuả một đại cường quốc, Obama phải đến thăm Việt Nam vào ban đêm như một kẻ trộm mà không được đón tiếp theo nghi thức quốc khách! Có phải một loại tội tổ tông đã được truyền lại từ đời Tổng Thống Kennedy đến các thế hệ tổng thống Mỹ sau này để hình ảnh cuả nước Mỹ luôn là phản bội, lừa lọc, xảo trá và nay lại thêm hèn hạ, xấu xa? Và phải chăng với đồng tiền, bất cứ ai cũng có thể mua đứt lương tâm và đạo đức Mỹ?
Phàm khi trong cuộc sống, con người không thể tránh được việc phạm lỗi lầm dù có hay không cố ý, và cho dù hậu quả lớn nhỏ thế nào, người làm lỗi phải biết nhận ra lỗi lầm cuả mình, ra sức chuộc lại lỗi lầm trước tiên bằng một lời xin lỗi chân thành và sau đó là khắc phục hậu quả cả về mặt vật chất lẫn tinh thần cho nạn nhân. Đó là qui luật cuả sự sống! Cuộc sống sẽ không còn bình thưởng và trôi chảy như nó phải như thế nưã cho cả hai phiá nếu như những vướng mắc do lỗi lầm gây ra không được không được giải quyết một cách thấu đáo và nhanh chóng. Trong một lỗi lầm không được giải quyết hợp lý, bao giờ cũng có đau khổ kéo dài vô lý cho nạn nhân và nghiệp chướng theo mãi kẻ phạm tội.

Hoa Kỳ là kẻ bội phản đồng minh đến mức độ có thể giết người. Họ đã cướp đi cứu tinh duy nhất cuả dân tộc Việt Nam, vì thế họ đã phạm một tội ác to lớn đối với gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cả dân tộc và đất nước Việt Nam. Mặc dầu sau sự sụp đổ cuả miền Nam vào năm 1975, chính quyền Mỹ đã có những cố gắng giúp đỡ cho người Việt tị nạn cộng sản được tái định cư và sinh sống ở vùng đất mới nhưng đã quá nửa thế kỷ đã qua, Hoa Kỳ chưa bao giờ chính thức xin lỗi dân tộc và đất nước Việt Nam và có hành động cổ súy cho những hoạt động tiến đến xây dựng một nước Việt Nam độc lập, phát triển và văn minh. Trái lại, để lấp liếm và che đậy lỗi lầm và tội ác cuả mình, họ đã viết sách, làm phim để đặt điều, bôi bẩn, vu khống Việt Nam Cộng Hoà. Hoa Kỳ nên có những hành động thiết thực và chân thành cho cân xứng với vị thế cuả mình trên thế giới.

Với những kẻ phản trắc, tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963 và những cá nhân đã tạo nên con ngựa thành Troie ở miền Nam, góp phần tạo khủng hoảng chính trị vào giai đoạn này, họ cần phải sám hối về tội lội đã làm mất miền Nam, là một tiền đề cho sự mất nước vào tay Tàu cộng ngày hôm nay. Hãy trả món nợ bằng cách nói lên những sự thật lịch sử bị dấu diếm từ bao lâu nay vì chỉ có sự thật mới cứu rỗi con người.
Đối với những kẻ cam tâm làm tôi mọi cho Cộng Sản quốc tế để phá tan hoang đất nước Việt Nam như ngày hôm nay, các người có còn chút lương tâm còn sót lại cuả con người? Có bao giờ các người cảm thấy mình nợ dân tộc và đất nước Việt Nam một lời xin lỗi? Nếu câu trả lời là có, thì các người đã biết mình phải làm gì vì dầu sao, hiện nay các người là những người duy nhất có phương tiện cải biến tình hình cuả đất nước.

Không ai có thể sống thanh thản mãi trong tội ác. Và nợ nần nếu không trả bằng cách này thì sẽ phải trả bằng cách khác mà thôi!


Yên Tánh

danlambaovn.blogspot.com

 


Cái nhìn của người trong cuộc

54 năm không nguôi thương tiếc!

Huỳnh văn Lang

54 năm không nguôi thương tiếc!

“…Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em nầy, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô đình Diệm và tiếc cho ông Ngô đình Nhu
Hôm nay tôi xin lập lại! Thương ở đây là Thương khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mãnh liệt, cả đời tranh đấu, kiên trì tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tôc, cho Hạnh phúc Đồng bào, đúng là một vị Anh hùng dân tôc, một vĩ nhân của đất nước
Tiếc là Thương tiếc, Thương tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hòai bảo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong dòng lịch sử, dân tộc VN đã sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?…” HVL

ĐỆ NHỨT CỘNG HÒA của Miền Nam (1955-1963)

Huỳnh văn Lang
Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan trọng nhứt đã đưa đến sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết của bài nầy.
Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô đình Diệm (NĐD) về giúp nước, từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài gòn ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó vì thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đã đặt để tôi vào những địa vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây.
Những sự kiện tôi trình bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau đó.

1.- Cương vị thứ nhứt. (Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD)
Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Võ văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để anh tạm thời giữ chức Chánh văn phòng, thình lình bỏ trống. Ba ngày đầu tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày nầy đã xảy ra biến cố Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo chánh.
Để dễ hiểu rõ biến cố nầy thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16, tháng 6, ông Ngô đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng, lập nội các VN thay thế chánh phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao Mỹ và cũng có thể với chánh phủ Pháp nữa, vì Pháp dù có thua trận ở Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn còn nắm quyền Ngoại giao và Quốc phòng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đã thua trận nhưng vẫn còn hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.
Cũng chắc chắn là chánh phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp gì đến chuyện bổ nhiệm nầy, vì dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gấn 3 năm đi nữa, ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chánh trường Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.
Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô đình Luyện ở Pháp và ông Ngô đình Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài gòn ngày 26, cùng tháng 6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi trường TSN chưa đến 500. Bốn ngày sau Thù tướng bay ra Hà nội để xem xét tình hình và tiếp xúc chánh khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài gòn thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ Quôc phòng và Nội vụ. Chánh phủ chưa kịp làm gì thì ngày 20 cùng tháng Hiệp định Genève ký kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở khóc dở cười, có hòa bình hay đúng hơn chì là đình chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)
(1) Ngày 21-07-54, đang khi Tồng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, thì ngoài đường có một nhóm sinh viên VN biểu tình lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu tình, đông hơn. Cả hai cuộc biểu tình đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, hình HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nhìn lại…
Bao nhiêu vấn đề chánh trị xã hội cả văn hóa…đổ dồn về miền Nam với 36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu, người Pháp dự đóan là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100, 000… không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong vòng 300 ngày do Hiệp định Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu thì càng lo nhiều hơn nữa…
Khi về đến VN, tôi cảm thấy rõ ràng tình trạng quá yếu kém của chánh phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chánh phủ Bửu Lộc bàn giao lại cái gì, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quôc phòng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong lúc đô thành Sài gòn – Chợ lớn là Bình xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là Hòa hảo, miền Đông là Cao đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai.
Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang Hội quyền thế, Hội cả tài sản như buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chánh trường VN chưa có một chủ trương rõ ràng… Tắt một lời, xã hội miền Nam đang ở trong một tình trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu vãn. Dư luận Quốc tế cho chánh phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.
Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm Quốc phòng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội.
Tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09-09-54 chỉ trích Thủ tướng trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của người viết) quản lý và đòi cải tổ chánh phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo ngay, ngày 11-09-54 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong vòng 24 tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong vòng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và vận dụng quân đội trong tay mình để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely giao trả tuần trước) vửa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát thanh quân đội ra rả tố cáo chánh phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng v,.v. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng xử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chánh phủ NĐD ổn định tính hình). Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, vì ngày 20-09-54, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ý là cuộc khủng hỏang nầy xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu…vẫn không be nổi.
Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và tòa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn văn Hinh gây ra, nhưng không phải là không đổ mồ Hội hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có đảo chánh trong tình thế nầy thì Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang khi đại tá Lansdale tìm cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta là 2 nhơn viên phòng nhì của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan nầy hai vé máy bay đi Manila du hí năm ngày.
Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rõ ràng.)
Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối. Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không có khả năng dung hợp… cần phải thay đổi.
Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lãnh đạo mặt trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ Heath và Tông thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins, bạn thân tin của ông. Đặc sứ Collins đến Sài Gòn mang theo bức thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một mình Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với Thủ tướng một chương trình viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.
Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go’’ mà thực dân Pháp đã dàn dựng từ 4, 5 tháng nay.
Ngày 08-12-1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan huy Quát làm bộ trưởng Quốc phòng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải từ chối, vì nếu ông chấp nhận thì chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần hết quyền hành – Quốc phòng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhứt của chánh phủ nên ông đã kiêm nhiệm – để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.
Thế là lại khủng hoảng! Collins còn cực đoan hơn nữa. là đề nghị với Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan huy Quát lên làm thủ tướng thay thế NĐD và ban hành tình trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia để thống nhứt hành động. Nếu không thực hiện giải pháp nầy được, thì tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.
Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rõ lắm nên không nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng nầy tôi biết rõ một việc, ai là người đã giúp chánh phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ Mansfield.
Nhận được phúc trình và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đống An ninh Quôc gia và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tóa hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ý kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhứt là Thương nghị sĩ Mansfield:
TNS Mansfield đến tòa Bạch ốc góp ý: Ông Diệm là một tích sản mình vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa thì cũng là một tích sản, tại sao mình phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà mình mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may gì hết.
Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chánh phủ Mỹ đều chấp nhận ý kiến của TNS Mansfield vì là khôn ngoan nhứt và ngày 14-12-54 chánh phủ Hoa kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong tình thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp còn quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhứt là bảy Viễn, Bình Xuyên.

2.- Cương vị thứ hai. (Công cán ủy viên bộ Tài chánh)
Cuộc khủng hoảng Nguyễn văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong (10-10-54) thì thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng Trần hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi còn ở Paris, làm Công cán ủy viên, để hằng ngày theo dõi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những ký kết của Hiệp ước nầy.
Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở Hội nghị Genève (20-07-1954), trong một thời gian kỷ lục Hội nghị Paris kết thúc, ký kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nhìn nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho thi hành việc bàn giao ngay trong vòng 3 ngày, tức là ngày 02-01-1955.
Từ rày viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dõi diễn tiến của hội nghị Paris rất sát– ngày 23 hay 24 tháng 12-54, bộ Tài chánh nhận được điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong vòng 7 ngày’’, và ông bộ trưởng Tài chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín nầy vào trình Thủ tướng, cùng giải thích cho Thủ tướng biết rõ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) – nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đã giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu đô của bộ Ngọai giao Mỹ viện trợ chuơng trình di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như trước kia. Độc lập tài chánh và nhứt là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chánh phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lý tài chánh và tiền tệ của mình.
Trước đây Pháp đã viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới tHội mà còn có một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa.
Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chánh phủ NĐD. Chính yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhứt, nhưng là yếu tố quan trọng nhứt đã định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chánh phủ NĐD và giúp chánh phủ NĐD thống nhứt quân đội quốc gia VN, chấm dứt tình trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.
(2) Ngày 14-01, đại tá Nguyễn văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần văn Sóai, Hòa hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13-02-55 tuớng Trinh minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao đài dẫn 5,000 quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10-03-55 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Hòa hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao đài đem toàn quân lực của mình về theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lưc lượng Dân xã Hòa hảo, từ 23 tháng 2 đã hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua tháng 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.
Tiền
Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam.
Để rồi qua ngày 01-01-55, Thủ tướng ký nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và Bình khang (đĩ điếm) của Bình xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhứt của lực lượng Bình xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng Bảo Đại ngày một ngày hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng Bảo Đại đúng 1 triệu đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đã có một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe sport hiệu Ý.)
Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho bảy Viễn lên thay, thử hỏi?
(Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi hình thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn – do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhựt cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia như VNQD đảng, Đại việt Cách mạng… để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước, độc quyền kháng Pháp).

3.- Cương vị thứ ba. (Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng)
Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhứt là vinh dự được Thủ tướng đich thân chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó còn cho riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đã nghĩ đến chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó ?
Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để thì giờ và tâm trí vào công trình văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa Bình dân, khai giảng ngày 15, tháng 11,1954. Vửa điều hành một trường sở có trên 1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9,00 giờ, tôi không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dõi luôn và đuợc biết rõ những chuyện sau đây.
– Ngày 12-01-55 Thương cảng Sài Gòn được giao trả cho chánh phủ NĐD.
– Cùng ngày 12-01-55, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lý quân đội VN cho tướng Lê văn Tỵ.
Đến đây thì Thủ tướng NĐD xuất hiện rõ ràng như là một nhận vật có đủ khả năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lõa với chúng. Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03-03-1955: ngòai Cao đài, Hòa hảo, Bình xuyên còn có Bs Nguyên tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ hữu Tường… Hộ pháp Phạm công Tắc được BĐ mời lãnh đạo Mặt trận..
Phản ứng của Hoa thịnh đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN, nên ngày 08-03-55 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đòi hỏi của Mặt trận và bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trân. Nhưng bị áp lực của Bình xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.
Ngày 21-03-55 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong vòng 5 ngày, phải cải tổ nội các theo mô hình nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.
Mà sáu ngày sau (27-03-55) ông còn cho lệnh đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.
Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có Pháp hậu thuẫn đã khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.
Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa Bình dân) và cái nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quôc gia) tôi mang thêm cái nợ chánh trị nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô đình Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng (CLNVCM) đã giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần lao) trong Nam và tôi đã nhận lãnh, một cách tự nguyện, nhưng hết lòng theo truyền thống của gia đình “là làm cái gì phải làm đến nơi đến chốn, không làm thì tHội’’ và tôi đã khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí Nguyện,
Đến lúc cuộc khủng hỏang Bình xuyên đến hồi gây cấn nhứt, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu… là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu não, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đã tích cực ủng hộ chiến dịch đánh Bình xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đã đi rải khắp các nẻo đừơng Sài Gòn/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ ‘’hịch’’ tố cáo tội ác của Bình xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).
Và như chúng ta biết, biến cố Bình Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhúng tay vào chánh trị, là giúp củng cố chánh quyền NĐD và giúp công xây dựng nền móng cho tòa nhà Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN, luôn luôn không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (Vì thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài Gòn/Cholon để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).
Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù không cũng đã trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời gian đó.
Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực Bình xuyên, sau khi cải tổ Nội các (24-04-1955) có sự tham gia của Hòa hảo (Trung tướng Trấn văn Soái và ông Lương trọng Tường) và Cao đài (Thiếu tướng Nguyền thành Phương), ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai văn Sang, Tổng giam đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn Bình xuyên vào vách tường. Cũng là lúc đặc sứ Collins vì quá bất mãn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để ráo riết vận động cho cả Chánh phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là ‘’Diệm must go’’ cho kỳ được, và lần nầy ông thành công. Rõ ràng tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn…hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.
Ba ngày sau là ngày 28-04-55, Bình Xuyên:
a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín
b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp để tường trình về tình hình trong nuớc và
c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đalat làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Nguyễn văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái.
Lưu ý: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Wahington, "Diệm must go".
Đặc biệt lưu ý đến chi tiết nầy: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ như "ne pas". Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi còn gì nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quôc gia VN. Đúng là một tiểu xảo chánh trị bất xứng.
Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đã khôn ngoan, tìm được một lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không còn là Quốc truởng của một nuớc, của Quôc dân nữa mà là đại diện cho một tâp đoàn Thưc dân rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.
Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi tìm một lực lượng vô song đó không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô đình Nhu, là Trần quốc Bữu, Trần trung Dung, Trần chánh Thành, có cả BS Bùi kiện Tín và ai ai nữa…cả nhóm Tinh thần, trong đó có Bs Huỳnh kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật nầy không một ai gia nhập Cần lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô đình Nhu và do ông Nhu chi phối theo đường hướng Cần lao của ông.
Vì đó mà Thủ tướng NĐD cấp tốc triệu tập các Chánh đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29-04-1955, để xin ý kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt Hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô đình Diệm ?
Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hội nghị, chưa bao giờ miền Nam có một Hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ tên tuổi.
(3) 18 chánh đảng là: – Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quôc dân Xã VN –VN Dân chủ Xã hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xã VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xã hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Ký giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh /Bình.
Rất tiếc là không còn đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.
Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù biết rằng có những đảng chánh trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng được cả năm bảy đoàn thể chánh trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN Dân xã đảng Hòa hảo do bí thư Nguyễn bảo Toàn (Nguyễn giác Ngộ) đại diện, VN Phục quốc hội Cao đài do đại tá Hồ hán Sơn (Nguyễn thành Phưong) đại diện và Mặt trân Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Trình minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn trung Còn đại diện.
Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chánh thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ vì khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư. .
Ngày 29-04-1955, đúng 10 giờ hội nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái và 34 nhân sĩ khai mạc tại phòng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD từ trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lý do mời đến hội, để rồi xin rút lui để tất cả hội viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế nầy hay thế nọ.
Hội nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:
Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân xã đảng, Hòa hảo.
Thư ký: ông Phạm việt Tuyền, nhà báo.
Và họ đã nghiêm chỉnh làm việc.
(Sáng ngày hôm đó còn có 3 trái pháo kích BX bắn vào dinh Đôc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc Hội nghị bắt đầu làm việc)
Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương trình nghị sự, thì ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố:
“Thưa quí vị, tôi được chỉ thị đòan thể chúng tôi là Mặt trận Quôc gia Kháng chiến VN đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ tuớng NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà là trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đã đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là vì ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lãnh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài Gòn đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông BĐ lại chọn ngay lúc nầy để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên Pháp xa xôi kia, để "tham khảo ý kiến?" Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ nầy? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ,thì tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi phòng hội nầy ngay!".
Lúc bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo của Nhi Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:
“Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ý với mặt trận Quốc gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lý của Bảo đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai trò của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ý kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!"
Đến đây thì tòan thể cử tọa không còn rụt rè nữa, nhứt là khi chủ tọa đoàn Nguyễn bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của hai ông Nhị Lang và Hồ hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một, có người còn la lên đã đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức hình BĐ treo cao giữa phòng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với một nhân sĩ nữa chạy lại công kênh Nhị lang lên vai và bảo đứng lên gỡ bức ảnh đi. Ông Nhị lang cực khổ lắm mới hạ đuợc bức ảnh đồ sộ của Quốc trưởng và ném xuống đất.
Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào… Hội nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban Cách mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu não là Nguyễn bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tich, Nhị lang làm Tổng thư ký.
Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đã thảo xong một bản Kiến nghị.
Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn bảo Toàn đọc hai lần, tât cả hội viên là 52 người đều chấp nhận và ký tên.
Xong rồi thì các Hội viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD xuống để nghe kết quả của nghị hội.
Thủ tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước cử tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng chốc trở nên yên lặng lạ thường…
Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:
Thay mặt cho toàn thể Hội nghị, tôi xin trình Thủ tướng kết quả của Hội nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm nầy:
Kiến nghị:
1.- Truất phế Quôc trưởng Bảo đại
2.- Giải tán Chánh phủ Ngô đình Diệm
3.- Ủy nhiệm chí sĩ Ngô đình Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn Bình xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.
Làm ngày 29, tháng 04, 1955
Đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ ký tên.
Vừa nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại bình tỉnh, hết sức chẫm rãi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi… được có thì giờ… suy nghĩ kỹ… về vấn đề trọng đại nầy! Xin cám ơn quí ngài
Sau đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giã Thủ tướng, thấy vẻ mặt ông âu lo rõ ràng… lúc đó là 5 giờ chiều. Hội nghị đã kết thúc và giải tán.
Đến đây thì cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước một sự đã rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mã để nhờ giúp qua suối, không dè nhìn lại là một con bạch hổ, ông không cỡi thì nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, thì chỉ một cái nhảy vọt nó đưa ông lên tới đỉnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai đoạn nầy Thủ tướng NĐD vẫn còn nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến, chưa nghĩ đến một chế độ Cộng hòa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết chuyện Truất phế là sự đã rồi, ông không tái mặt làm sao được
Chiều tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài Gòn đưa tin cho toàn quốc và Thế giới biết ở miền Nam VN đã xẩy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân sĩ và đồng bào ngày hôm sau đến hội tại tòa Đô chánh Sài Gòn để nghe Ủy ban thuyết trình về biến cố lịch sử vừa xảy ra.
Và ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các chánh đảng, thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí.. phấn khởi tụ tập đầy nghẹt phòng khánh tiết tòa Đô chánh Sài Gòn. Ông Nguyễn bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị lang thuyết trình về Cuôc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trươc, tất cả cử tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ. Và thêm một màn hạ bệ Bảo Đại một lần nữa, có người bắt thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng hình Quốc trưởng BĐ treo trước cửa tòa nhà và ném xuống đất, rồi có những thanh niên nhảy lên dậm đạp cho nát bét (Tôi đã chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC điều khiển). Đang khi đó ba tướng Nguyễn giác Ngộ (Hòa hảo), Nguyển thành Phuơng (Cao đài) và Trịnh minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy ban Cách mạng giới thiệu, đứng ra trình diện để công chúng hoan hô, như là những anh hùng đã tạo ra thời thế. Và chúng tôi đã nghĩ vậy, vì sau lưng của Ủy ban Cách mạng đã có ba tướng nầy cho ý kiến, nếu không nói là cho chỉ thị, nên ba ông đại diện Nguyển bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị Lang đã hành động, đã lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ vậy mà lôi kéo tất cả Hội nghị một cách dễ dàng, nhứt là khi các thành phần Hội nghị đã sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.
(4) Vốn cái ý phức phản hoàng nầy có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là gần cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tình miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến khi phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ khoa Huân, của Trương công Định, của Thiện hộ Dương, của Cố quản Trần văn Thành… lại bị triều đình nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Đề rồi qua đầu thế kỷ 20, phong trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn an Ninh, Nguyễn văn Nguyễn, Tạ thu Thâu, Hồ hữu Tường và nhứt là Phan chu Trinh đã gieo rắc trong Nam nhứt là trong giới trí thức ý thức phản hoàng hay Cộng hòa. Ngoài ra chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng hòa hơn là quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III.…
Đến đây thì cuộc Cách mạng đã được chánh thức hóa bằng một văn kiện có rất nhiều chữ ký rất nặng giá vì đại diện cho nhiều đoàn thể chánh trị hay quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước công chúng của thủ đô Sài Gòn/ Chợ lớn. Như thế phải nhìn nhận là cuộc Cach mạng nầy đã thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point final). Và theo tôi cuộc Cách mạng nầy là biến cố lịch sử quan trọng nhứt từ ngày Việt Minh cướp chánh quyền trên tay Chánh phủ Bảo đại/ Trần trọng Kim tại Sài Gòn ngày 23-08-45 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945) 10 năm truớc, vì nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn xây dựng cái gì thì phải đập đổ và san bằng trước cái đã. Đó là một lẽ tất nhiên. Còn chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.
Cuôc Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại nầy là tác động của dân miền Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của họ đã đóng một vai trò chủ động, không ai có thể chối cải điều đó. Dù là tiêu cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đã dọn đường cho sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa, vì ngay lúc đó chính Thủ tướng NĐD còn nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ năm năm sau cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm) qua Mặt trận Giải phóng Miền nam đã đóng một vai trò qua ư quan trọng, dù không phải là chủ động đã khởi sự tàn phá, không phải chì Đệ nhứt CH mà cả Đệ nhị CH nữa.
Sau 15 năm dọn đường, đúng hơn là làm cổ sẵn cho CS Miền Bắc thôn tính hoàn toàn, đúng hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ? Truất phế BĐ là một tác động Cách mạng sáng suốt hợp tình hợp lý bao nhiêu, thì tác động gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm, nếu không nói là ngu xuẫn tày đình bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đã chứng minh quá hùng hồn, vì hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả quyền làm người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, tôi còn hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền Nam nói chung và Nam ky lục tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuốc Cách mạng nữa. Và lần nầy là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống còn của cả một dân tộc VN, không riêng gì cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng gì người trong nước hay ở hải ngoại.
Ở đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan trọng sau đây, nhưng tôi kể là bên lề vì nó không có tính cách quyệt định, nó như là mấy màn của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diển viên, từ những tên lưu manh hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những chánh trị gia lổi lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can trường… mà vai nào cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai trò nào cũng tốt đẹp đáng vỗ tay.
Đầu tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lênh Ngự lâm quân, Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 – cùng một lúc triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham mưu quân đội Quôc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động. Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chánh phủ NĐD.
Lúc đó là 6 giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi trình diện ở tòa Đô chánh đã đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau vào dinh Độc lập và một lần nữa Nhị lang lại là người táo bạo nhứt dám dùng một khẩu súng tay (chưa chắc đã lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên đầu hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh cùa tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra mây khói. Đến đây đúng là trò hề, vì mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực Thủ tuớng NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông khỏi mất mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, ký cả hai tay giấy cam kết trở lại hợp tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật ngược lại thế cờ. Song đến chừng đó thì không còn một ma nào coi ông có chút gì nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải cuốn gói rút quân chạy về Đà lat, lúc đó đã 3 giờ sáng.
Chuyên thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ chánh phủ của mình, ông tự cho mình bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè chi binh, biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy vào…ông vội bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông về Mỹ ráo riết vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An ninh Quồc gia và triệt để khai thác tình tự bạn chi binh với chính TT Eisewhower. Sau 5 ngày vận động không ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu thư tuyên bố “Diệm must go" để ông Đặc sứ mang về Sài Gòn, phổ biến cho các đảng phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá triệu đô cho bạn chi binh của ông là tướng Ely và nhứt là cho Bảy Viễn.
Nhưng không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NDD đã ký sắc lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng văn Minh làm tư lệnh, để phản công Bình Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đã đánh bật hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài Gòn/Chợ lớn, tàn quân BX rút chạy vào Rừng Sát, hoàn toàn tan rã và chiến dịch đã kết thúc trong vòng mươi ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương văn Minh kéo quân khải hoàn về.
Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại mất một tướng tài, cũng là một nhà chánh trị đầy hứa hẹn. Sáng ngày 02-05-1955 tướng Trinh minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để truy kich quân binh BX, một người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ bên kia cầu, tướng Thế chết ngay trên “command car". (Sau nầy người Pháp có bắn tin là đã trả được thù cho tướng Chanson và Thái lập Thành, tay chơn của Pháp, vì hai nhân vật nầy đã bị quân của tuớng Thế ám sát chết ở Sadec năm bảy năm trước.)
Sau khi thành công xoay chuyển Wahington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở bay về VN. Trên con đường bay về Sài Gòn thì Washington được tin thủ tướng NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như bão phản công BX mà chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rõ ràng. Đánh BX để chứng minh Thủ tướng có đủ bản lãnh và tài ba để ổn định tình thế, bất chấp những mưu mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng Collins. Cho nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD còn hơn trước (statu quo ante) và đã vội vả đánh một diện văn khác để thủ tiêu bức thơ của Collins đang cầm tay. Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường TSN thì cũng vừa lúc một nhân viên tòa đại sứ chạy đến trình cho ông một diện văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của ông đặc sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ Hội hột, dù trời Sài Gòn tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng là đã tới tháng 8 rồi! Tôi nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái), làm mất sáng suốt!)
Đến đây thì phải nhìn nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đã thật sự cáo chung, sau một thời gian 9 năm (1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhựt ban cho (09-03-1045), không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất nhiên không giá trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một cách vô ý thức là phải.Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09-03 đến 24-08-1945), chánh phủ Trần trọng Kim cũng làm được một việc cho quốc dân là Cải tổ hệ thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân tộc. Nhưng cùng một lúc làm một việc vô cùng tai hại cho quốc dân nhứt là ở miền Nam kỳ lục tỉnh.
Vốn ngày 02-05-1945, Hoàng đế Bảo đại đã ký sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị, mà trong đó 90% là cán bộ CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đão từ phong trào Soviết-Nghệ tỉnh (1929-30) và cuộc nổi dậy trong Nam (1939-1940) của Đệ tam Quôc tế, mà tổng số lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7, 1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong đó có Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương…toàn là cán bộ cao cấp), sau nhiều năm tôi luyện vừa lý thuyết vừa kỹ thuật hành động được đón tiếp nhiệt liệt trở về Cấn thơ, Sóc trăng, Trà vinh…để rồi làm ung thúi chánh trường miến Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng phong, đàn áp các Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp lấy chánh nghĩa quốc gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên phủ, tháng 5, 1954.

4.– Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.
Khi tôi vừa điều khiển VHD, các trường BKBD và Hội Văn hóa Bình dân, với chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đã trở thành một cố vấn đa dạng (tiện tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ơ đây tôi không nói tôi đã làm những gì, tôi chỉ nói đến những gì tôi thấy tôi nghe, cũng là chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.
Thật ra từ đây vai trò của CLNVCM (Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng ) đảng càng ngày càng trở nên quan trọng và rõ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan nầy, ngoài lý thuyết Nhân vị, không phải chỉ là những thành viên đầu não của nó là Ngô đình Nhu, Trần quôc Bửu, Trấn chánh Thành, Trần trung Dung… , và trong chừng mực hạn hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và giải tán đầu năm 1958), mà còn phải kể những đoàn thế do Cần lao lãnh đạo, như Tập đòan Công dân, Phong trào Cách mạng Quốc gia… Tất cả đều nhìn nhận Thủ tướng sau là Tổng thống NĐD làm lãnh tụ tối cao, biểu tượng cho chính nghĩa Quốc gia hay Dân tộc, chống lại Hồ Chí Minh, biểu tượng cho chủ nghĩa Quôc tế Mac-lêninit.(5)
(5) (Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận kề bên ông Diệm nhứt toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một mình tôi là người Nam, mà cuôc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác động của người miền Nam. Có phải vì thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ cả 2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)
Và thành tích cụ thể và rực rỡ nhứt cùa CL, là cuộc Trưng cầu Dân ý, kéo theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID (lai lịch) của Đệ nhứt Công hòa của miền Nam (1956-1963).
a) Trưng cầu dân ý.
Ngày 22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đã kêu gọi quốc dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của mình, cũng là nhiệm vụ của người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lưa giữa Quốc trưởng BĐ và ông, tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng hòa.
Và ngày 23 tháng 10, 1955 quốc dân miền Nam đã nhiệt liệt huởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết sức tốt đẹp cho thủ tướng NĐD: 5,838,907 cử tri đi bầu với 5.721.735 lá phiếu truất phế Quôc trưởng BĐ và bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.
Như thế Thủ tướng NĐD thu về cho mình gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra thì Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. Vì ai ai cũng đinh ninh ông thắng và thắng lớn.
(Ai nói gì thì nói theo tôi kết quả hay những con số nầy hoàn toàn trung thực với ý người dân, nếu có một hai thùng phiếu không hợp lệ vì nhân viên chánh quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, thì chỉ là một con số quá nhỏ, không đáng kể.)
Như thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiệm cho ông NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Công hòa dân chủ. Cho nên cách nầy hay cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế tiếp, như là một quá trình tiến hóa chánh trị bất di bất dịch của lịch sử.

Ngày 26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyến bố Hiến chương tạm thời, theo đó từ rày VN là một nước Cộng hòa, người lãnh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt Nam Cộng hòa.
Đến đây thì uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nuớc cũng như trên thế giới, vì tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ộng giải quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoàn thành độc lập Quốc gia trọn vẹn: a) Pháp phải giao trả lại cho VN hoàn toàn chủ quyền tiền tệ tài chánh (VN không còn phải ở trong khu vực đồng quan Pháp nữa), b) chủ quyền Ngoại giao (Cao ủy Pháp được giải tán, từ rày tướng Ely chi là một đại sứ, bộ Ngoai giao VN giao thiệp thẳng với bộ Ngoại giao Pháp) và c)chủ quyền Quốc phòng, quân đội Pháp lục tục rút quân cho hết trong vòng 6 tháng-
b) Xây dựng chế độ Công hòa.
Ngày 23-01-56 Thủ tướng ký nghị định tổ chức bầu Quôc hội lập hiến.
Ngày 04-03-56, Quốc dân miền Nam nhiệt liệt hứng khởi đi đầu phiếu, bầu 123 dân biểu cho Quốc hội Lập hiến.
Ngày 26-10-56 tân Hiến pháp được công bố.
Nước Việt nam Cộng hòa ra đời, Thủ tướng NĐD được xác nhận là Nguyên thủ Quốc gia, dưới danh xưng là Tổng thống, kiêm chức vụ Thủ tướng, với 2 nhiệm kỳ là tối đa, mỗi nhiệm kỳ là năm năm.

Kết luận.
Hiến pháp 1956 hay là ID của Đệ nhứt Cộng hòa ở miền Nam.
Thử tìm hiểu cái ID nầy xem. Như trên đã nói, từ ngày Hội nghị các chính đảng và các nhân sĩ miền Nam đã làm Cách mạng Truất phế Quốc trưởng BĐ (ngày 29-04-1954), vai trò của CLNVCM đảng càng ngày trở nên hết sức quan trọng, với chủ thuyết Nhân vị cũng như với tổ chức nhân sự của nó. Ảnh hưởng của nó trên những biến cố chánh trị đưa đến kết quả là Hiến pháp VN Cộng hòa 1956 đều luôn luôn có tính cánh quyệt định nếu không nói là chủ động. Và cây nào sanh ra trái nấy là một lẽ tất nhiên.
Ngay trong trang đầu của Hiến pháp có hai từ ngữ Duy linh và Nhân vị. Thiết nghĩ hai từ ngữ nầy cũng đủ để giái thích tất cả bản chất của một Hiến pháp như là bản luật tối cao của một nước, của một Quốc gia hoàn toàn độc lập. Nhưng nội dung với những điều khoản của nó không khác mấy với những Hiến pháp các nước khác, kể cả nước CS, như là định đoạt chủ quyền thuộc về toàn dân, định đọat nhiệm vụ và bảo đảm quyền lợi của nguời dân với đầy đủ những quyền tự do của nó, tự do đi lại, cư ngụ, tự do tư tưởng, tư do ngôn luận, tư do tín nguỡng, đủ thứ tự do…
Nhưng lại khác với các hiến pháp khác và hoàn toàn trái ngược với hiến pháp của CHXHCN ở chỗ thi hành hay áp dụng, mà phương châm hành động là Chủ thuyết của Hiến pháp.
Muốn hiểu lập luận nói trên thì nên so sánh Hiến pháp của nước Việt nam Cộng hòa của miền Nam dân chủ và Hiến pháp của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa của miền Bắc CS. Nếu hai chữ Duy linh và Nhân vị đã đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp VN Công hòa, thì hai từ ngữ Duy vật (Xã hội Chũ nghĩa) và Đảng ngay trang đầu Hiến Pháp CHXHCN cũng quá đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp nầy.
Vốn chủ thuyết Duy linh Nhân vị là một lý thuyết lấy Chân lý lịch sử, lấy Sự thật khoa học làm căn bản để giải thích mọi diễn tiến của xã hội con người, cũng như nhận định con nguời (Nhân vị) như là một giá trị tuyệt đối, ngang hàng với trời đất, tức nhiên Nhân vị của con người thành ra mực thước đo lường các giá trị khác. Tuy nhiên Nhân vị còn phải có trách nhiệm với cộng đồng, để đưa cộng đồng cùng đồng tiến. (Ba ngôi sao biểu hiệu của CLNVCM đảng có nghĩa là nhân vị, cộng đồng và đồng tiến).
Hiến pháp Đê nhứt CH đã bảo đảm cho Quốc dân miền Nam được nhiều năm hết sức an lạc: Kinh tế phát triển tốt đẹp dù phải nhận thêm gần 1 triệu di cư chạy giặc CS từ miền Bắc, Xã hội được an bình, an sinh xã hội được bảo đảm, Giáo dục được tổ chức có qui củ theo định hướng duy linh truyền thống dân tộc, vừa tiến bộ theo trào lưu khoa học của nhân loại, Văn học được nẩy nở tưng bừng…
Đang khi đó thì thuyết duy vật sử quan của CS lại lấy ảo tưởng (thiên đàng XHCN) tức là sai lầm, cũng là gian dối , làm cứu cánh tối hậu cho xã hội, để rồi lấy Đảng làm con đuờng hay Đạo để đưa tới cứu cánh. Tức nhiên Đảng hay Đạo thành ra mực thuớc đo lường Đạo đức của con người, mà người CS gọi là Đạo đức Cách mạng. Cho nên tất cả những hành vi, nhửng hoạt đông của con nguời, từ tiêu thụ đến sản xuất, từ giết nguời cướp của, từ đánh đĩ hảm hiếp, tham nhủng gian lận…đến cả tố khổ cha mẹ, phản bội bạn bè anh em….đến cả bán trăm ngàn đàn bà con gái trẻ con, bán nước, bán biển, miển sao có lợi cho Đảng, miển sao củng cố được quyền lực của Đảng, tất cả, tất cả đều là Đạo đức Cách mạng, đúng theo tư tường của HCM..
Cho nên Hiến pháp của CHXHCN, một bản luật tối cao của một nước hóa ra một dụng cụ để phụng sự Đảng hơn là quốc dân, nếu có sự đối chọi giữa quyền lợi của Quốc dân và quyền lực của Đáng thì bắt buộc Hiến pháp phải luôn luôn đứng về phía của Đảng, bất chấp đến tất cả những tiêu chuẩn công lý, công bằng, phong hóa cao thấp lớn nhỏ hết. Kinh nghiệm điển hình là những vi phạm hiến pháp trắng trợn của Nhà nước như đàn áp tự do ngôn luận, tư do tư tuởng, tự do tin nguỡng…luôn luôn được Tòa án chấp nhận một cách dứt khoát như là hợp Hiến, hợp pháp, như là lẽ phải. Như thế việc chống án là một việc illogic, một việc vô lý, không phải lẽ.
Kết quả tối hậu là một xã hội, một nước chỉ gồm có hai thành phần: Đảng thành là Thiên chúa tối cao và Quốc dân thành ra tín hữu hèn hạ bất đắc dĩ, cũng gọi là nô lệ. Tất cả tài sản hữu hình (đất đai, nhà cửa, cơ xưởng…) và vô hình (trí thức nếu có, dư luận, cả tôn giáo…) lần lần trở thành sở hữu của Đảng.
Hiến pháp của Việt nam Cộng hòa đã trở thành một thế lực bảo đảm sự phát triển xã hội của miền Nam trong cả hai thập niên (1955-1975), dù Hiến pháp của Đệ nhứt Cộng hòa sau 02-11-63 có bị thay đổi đi nữa thì tinh thần của nó vẫn còn tồn tại, chẳng những trong Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa, mà còn dan díu bỏ chạy theo cả triệu thuyền nhân, để rồi thấm nhuần vào tâm hồn của Công đồng người Việt hải ngoại tản mát năm châu bốn bể.

TT Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu.
Trên kia tôi có nói đến những biến cố lịch sử đã dọn đường cho sự xuất hiện và thành hình VN Đệ nhứt Cộng hòa, với một ID có bản chất nhân bản rõ ràng. Đó là một diễn tiến chánh trị, đầy gian truân, đầy nghiệt ngã, đúng là một trường hợp mang nặng, rất nặng, đẻ đau và rất đau.
Qua diễn tiến của lịch sử, không cần dài dòng, sau những sự kiện hết sức phức tạp ghi trên, quí vị cũng nhận thấy ngay hình ảnh khi ẩn khi hiện, nhưng luôn luôn bất khuất của một người Anh và của một người Em. Và Anh Em Họ phải tài ba thế nào, phải dũng cảm kiên trì làm sao, mới khắc phục bao nhiêu trở ngại khó khăn tày đình,mới phá vở bao nhiêu mưu đồ bát quái, để sau cùng sản sinh ra được một đứa con tinh thần ưu tú, khỏe mạnh, đến thế nào mà xã hội VN của chúng ta mới có được những năm tháng (1956-1963) độc lập, tự đo và hạnh phúc. Tất nhiên không hoàn hảo vì giặc ngoài và nhứt là giặc trong… nhưng vẫn còn để lại được cho dân tộc, không riêng gì ở miền Nam mà còn cho cả nước, một legacy, một di sản chánh tri (độc lập & tư do), văn hóa ( chân lý & phóng khoáng), kinh tế (nhân bàn & công binh). Cái legacy nầy đã nảy sinh ra một cái tinh thần với bản chất quốc gia hay dân tộc, mà người viết có kỳ vọng sẽ là động lực bất khuất để đoàn kết và làm Cách mạng lật đổ một chế độ có bản chất hoàn toàn gian dối và sắt máu Mác-lêninit.
Hôm nay là ngày mùng 8, tháng 11. mới tuần trước đây, hội "Ái hữu người Việt Quôc gia Hải ngoại" đã tổ chức Lễ giỗ cho hai người Anh Em, TT Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô đình Nhu và quan trọng hơn nữa: Trên 30 Hội đoàn, Đoàn thể đã tập hợp hành lễ Truy điệu hai người Anh Em tại công viên Tự do, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster. Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em nầy, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô đình Diệm và tiếc cho ông Ngô đình Nhu
Hôm nay tôi xin lập lại! Thương ở đây là Thương khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mãnh liệt, cả đời tranh đấu, kiên trì tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tôc, cho Hạnh phúc Đồng bào., đúng là một vị Anh hùng dân tôc, một vĩ nhân của đất nước! Tiếc là Thương tiếc, Thương tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hòai bảo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong dòng lịch sử, dân tộc VN đã sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?
Tôi được may mắn và danh dự gần gũi với hai người Anh Em nhiều tháng nhiều năm, từ những lúc gian truân trầy trật. Trước tòa án xét xử của lịch sử, là nhân chứng trong nhiều nhân chứng cho hai người Anh Em, tôi tự cho mình luôn luôn trung thực.
Thành thật cám ơn tất cả quí vị.
Huỳnh văn Lang

http://thoibao.com


Mạn đàm với Vĩnh Phúc:

Huyền thoại & Sự thật

về chế độ Ngô Đình Diệm

Nguyễn Văn Lục

Đúng hơn là cựu nhà báo BBC, Vĩnh Phúc. Ông đã về hưu từ năm 1996, cũng hơn 10 năm rồi. Gần 20 năm làm biên tập viên cho chương trình Việt ngữ đài BBC, ông tích lũy cả khối chuyện trên trời dưới đất, chuyện thật, chuyện giả và nhất là những chuyện lắt léo hậu trường, chuyện người, chuyện đời… Có chuyện đã nói ra, có chuyện chưa. Chưa nói vì thời lượng phát thanh, vì chính sách của BBC, vì tế nhị, vì chưa có cơ hội nói… Hôm rồi đến Canada, trong suốt hai ngày mạn đàm, phần lớn ông là người nói, tôi, Nguyễn Văn Lục (NVL), người nghe. Ông nói đủ đề tài, từ Duyên Anh, Ngô Đình Diệm, Trần Kim Tuyến. Ông đã nói liên miên, nói không ngưng nghỉ, không một tờ giấy trước mặt.
Đến nay nghe rồi thì tôi có thể sờ thấy Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm. Chỉ rất tiếc không có bà Nhu.

Nhân dịp Vĩnh Phúc cho tái bản cuốn: "Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm" (NXB Tam Vĩnh, 2006 London), tôi ghi lại một phần nội dung cuộc mạn đàm liên quan đến quyển sách mới tái bản của ông. Mặc dầu có cảm tưởng ông biện giải cho những sự thật về ông Diệm, tôi không tìm thấy nơi ông về một cảm tình quá độ, một parti–pris, ông vẫn gây cho tôi một cảm tưởng, biện hộ hẳn là có, nhưng vẫn thong dong thoải mái, vẫn có một thái độ khách quan chừng mực, trí thức và cẩn trọng. Điều quan trọng nhất, ông bằng mọi cách mọi giá tôn trọng sự thật như thái độ chọn lựa cân bằng các người được phỏng vấn. Chọn người được phỏng vấn ở nhiều góc độ khác nhau khiến cho sự kiện được nêu ra đạt được độ khả tín cao. Ông không có thói quen cường điệu hóa một sự việc, một biến cố hay nói huỵch tẹt ra là ông không nói phét, chủ quan cho mình nắm được sự thật. Có những điều tôi đặt ra cho ông mà ông không nắm rõ, ông thẳng thắn thú nhận là điều này ông không biết rõ…
Cuộc mạn đàm được diễn ra như thế nào?
Ông là người diễn xuất, tôi chỉ là chân kéo màn.

 NVL: Trước hết, xin ông cho biết cơ duyên nào đưa ông đến làm việc cho đài BBC, rồi từ đó mở đường dẫn lối đến việc ông viết cuốn sách này?
VP: Tôi chỉ xin nói sơ lược thôi.
NVL: Xin ông 15 dòng.
VP: Đến Pulau Bidong là để chờ đi Mỹ. Vậy mà không ngờ, đã làm cho BBC gần 20 năm. Nghĩa là từ 1979 đến 1996. Khoảng năm 1988, mình giữ chức vụ Editor. Trong ban Việt ngữ hồi đó có ba người editor. Nếu cần thì Editor sẽ thay thế trưởng ban để điều khiển chương trình.
NVL: Tôi được biết BBC đã nhận ông ngay từ khi còn trên Pulau Bidong. Nhiều người biết không khỏi ngạc nhiên và nể phục. Thật ra câu chuyện đó đã xảy ra như thế nào?
VP: Ở đời, có những chuyện xảy ra không tính toán trước được. Nó như một khúc ngoặt cuộc đời. Chẳng bao giờ có ý nghĩ mình sẽ sang Anh. Ai cũng chờ đi Mỹ cả. Lúc đó chờ đợi đi Mỹ tính ra cũng 6, 7 tháng rồi. Bởi vì ở Mỹ có nhiều bạn bè, anh em bà con.
Câu chuyện nó như thế này. Có một đại diện BBC là Michael Butler sang đảo để tuyển nhân viên. Đúng ra là để test ông nhà báo người Việt gốc Hoa là ông Trần Quốc. Ông M. Butler mới nhờ mình — lúc đó là cố vấn cho Ban thông dịch – tìm kiếm Trần Quốc. Trần Quốc đã bỏ đi Mỹ. Tôi nói với M. Butler:
- “Sorry, ông ta đi Mỹ rồi”.
M. Butler tỏ vẻ thất vọng nói:
- “Tiếc quá, vừa mất công, vừa tốn tiền”.
Rồi nhìn mình dọ hỏi:
- “Anh có muốn làm cho BBC không?”
Mình trả lời là:
- “Tôi đã chuẩn bị đi Mỹ rồi. Nhưng anh cứ thử xem sao? Chắc gì tôi có đủ khả năng?
- “Nói chuyện với anh từ nãy đến giờ tôi tin chắc anh có khả năng. Chỉ cần test anh về khả năng viết cho đúng thủ tục thôi. Anh bằng lòng thì để tôi test nhé ?”
-“ OK, bây giờ là trưa, để cho tôi về ăn cơm trưa xong cái đã.”
NVL: Có vẻ như Butler đi xin ông nhận vào làm cho BBC thay vì ông xin sang BBC làm việc.
VP: Không dám nghĩ thế đâu, chỉ vì Butler đặt mình vào một tình trạng mà trước đó mấy phút mình không bao giờ nghĩ tới. Mình bèn kiếm ông cha Phó trại, tạm mượn cái lều của ông ấy, mình “đuổi” ông ra khỏi lều. Lúc đó trời nắng chang chang, tiếng loa phóng thanh ồn ào gọi dân đi lãnh lương thực. Michael Butler đưa bài test. Phần mình thì ngoáy cho xong. Phải dịch những bài bình luận, despatch, bản tin tường thuật của phóng viên từ các nơi gửi về, dịch ngược, dịch xuôi, rồi một bài phóng bút, viết theo một trong ba đề tài cho sẵn.
NVL: Có thử giọng không? Cái này ông có phần ăn chắc rồi?
VP: Mình cũng hy vọng như vậy. Thử xong thì thu không rõ vì ồn quá. Ông Butler đòi thử lại. Mình “cóc” chịu thử lại lần thứ hai. Được thì được, không được thì thôi. Hai tuần sau nhận thư Luân Đôn: chưa có kết quả. Mình tống một thư sang “Sorry, tôi không đi Anh, chờ đi Mỹ”. Trưởng Phòng nhân viên đài BBC lại gửi một thư nói “Ráng chờ vì thủ tục hành chánh! Nhưng rất có hy vọng!”
NVL: Cứ như những điều ông vừa trình bày, có vẻ như ông không thích thú gì với công việc ở BBC mà nhiều người mơ cũng không được?
VP: Không phải là không muốn. Nhưng vì chẳng quen ai ở Luân Đôn, bà con, anh em, bạn bè đều ở Mỹ. Trời thì lúc nào cũng u ám, lạnh lẽo, đời sống lại quá đắt đỏ. Khi mới sang, cô thư ký Ăng lê dẫn đi tìm thuê một chỗ ở hai phòng ngủ, trên lầu. Tiền thuê nhà, nó ngốn gần hết lương. Mình lại lên xin với xếp cho nghỉ việc và cho trở về Pulau Bidong. Bạn bè bảo khùng mới bỏ BBC. Xếp lớn khuyên ở lại.
NVL: Thế rồi ở lại luôn một lèo 17 năm đến khi về hưu? Một câu hỏi chót về chuyện này: Có gặp khó khăn trong công việc hay với đồng nghiệp không?
VP: Công việc thì từ từ cũng quen, không có gì khó khăn lắm. Nhưng với đồng nghiệp thì không dễ. Ờ mà câu hỏi này hơi riêng tư và dễ đụng chạm lắm. Ông làm khó tôi đấy.
Nên biết mình là người tỵ nạn đầu tiên được nhận vào BBC. Những anh em khác thì đều vào đó từ trước 1975. Có những người từ 1952. Dĩ nhiên, chưa hiểu nhau nên mình bị nhìn bằng một con mắt khác. Cứ như thể mình là một người thiểu số đến từ Ban Mê Thuột, mặc dầu thời trước 1975, mình cũng đã học ở Tân Tây Lan. Nhưng dần dần thì qua khả năng văn hóa Việt, vốn văn hoá Anh, kiến thức viết lách, mình đã vượt qua được những trở ngại đó. Và chỉ hơn 2 năm sau mình nhập chính ngạch ngay, một trường hợp hãn hữu.
NVL: Thôi tạm dừng ở đây. Cả ông vào tôi đều bậy rồi.
VP: Bậy điều gì?
NVL: Quá 15 dòng rồi. Cùng cười. Tôi muốn biết trước khi viết cuốn sách, ông có vẻ xu hướng cho chế độ ông Diệm. Ngay tựa đề đã cho người đọc nghĩ như thế: Những huyền thoại và sự thật… Ông có thể nói thật, trước khi viết cuốn sách này, thời còn trẻ, với tư cách một người Phật tử, thực sự ông đã nghĩ gì về chế độ ấy và khi viết cuốn sách, mức độ ảnh hưởng của ông Trần Kim Tuyến đến đâu?
VP: Dù là gì, tôi cũng viết với tư cách nhà báo mà thôi. Lúc còn trẻ, thời sinh viên, như bất cứ người dân nào, mình nhìn chế độ ông Diệm là một chế độc tài, gia đình trị, ảnh hưởng công giáo, tổng thống là người công giáo, cần lao thì có mặt khắp nơi, chỗ nào cũng có cần lao. Mình còn nhớ có lần đi xe buýt về Thị Nghè. Gặp anh tài xế hách dịch gắt ỏm tỏi. Hành khách không ai dám hé răng, vì họ thì thầm bảo nhau ông này là người của bà Nhu. Tin đồn cho thấy cái gì cũng của bà Nhu. Dĩ nhiên mình không tin hẳn. Nhưng ai cũng ngán và sợ.
Chẳng hạn có đám cháy ở khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà nhu, hãng Taxi bà Nhu cây xăng bà Nhu, bất động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao… Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra. Chưa kể, mấy ông Thiên Chúa giáo di cư, thái độ vênh váo cũng làm người dân khó chịu lắm.
Vì thế mình cũng mong muốn thay đổi chế độ. Nhưng bảo rằng mình chịu ảnh hưởng của ông Tuyến thì không đúng. Sau này, trưởng thành hơn, có nhiều cơ hội tìm hiểu, mình cũng biết phán đoán, biết sự thật nằm ở chỗ nào?
Cho nên, không cần gặp ông Tuyến, tôi mới thay đổi. Từ khi chế độ ông Diệm rơi vào tay các tướng lãnh cầm quyền. Mình nhận ra ngay thực chất của họ và bắt đầu chán. Họ tồi tệ hơn thời ông Diệm. Mình có ăn học, mình thấy rõ ai hay, ai dở.
NVL: Ông cho biết trong trường hợp nào, ông gặp ông Tuyến?
VP: Thật ra mình biết về ông Tuyến từ lâu. Ông sang Anh từ năm 1975. Ông ở Luân Đôn một năm khá chật vật, rồi bạn bè người Anh giúp đổi lên Cambridge, tìm kế sinh sống.
Mới đầu nghe đến tên ông mình tránh né. Với thành tích trùm Mật Vụ tạo nên một hình ảnh không đẹp về ông như đi bắt người, thủ tiêu, tra tấn…
NVL: Nhưng gặp rồi thì thay đổi? Không thấy có tra tấn, thủ tiêu? Nhưng dư luận bên ngoài thường cho rằng Trần Kim Tuyến như một thứ hùm xám, ác ôn, trùm mật vụ với nhiều tai tiếng nhất đã được lưu truyền trong công chúng khá lâu. Đó là phản ảnh qua bài viết của Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Giao Điểm với bài: "Đọc: Những huyền thoại của chế độ Ngô Đình Diệm…"
VP: Tôi chẳng biết ông Nguyễn Văn Tuấn này có biết gì về Trần Kim Tuyến không mà viết như vậy. Thực sự tôi cũng chẳng đọc ông Tuấn nên không biết ông ta viết những gì. Nhưng gặp ông Tuyến rồi thì tôi chỉ thấy một người hiền lành, đạo đức. Tôi chưa hề nghe ông ta nói xấu một ai. Xin lỗi, vì ông ấy chết rồi mà tôi lại nói câu này: Mình thấy ông ấy như một anh nhà quê, nói ngọng L, N, cử chỉ tự nhiên, bình dị, có sao nói vậy, hút thuốc lào long sòng sọc. Từ lần gặp lần đầu đến mấy năm sau mới trở thành thân, vì tôi muốn có thời gian dài tìm hiểu. Thì thấy các bạn bè người chung quanh xa gần, ai cũng nói tốt về ông ấy. Họ cho rằng ông làm mật vụ mà cứu người nhiều hơn là bắt người bỏ tù.
NVL: Trong hồi ký “Việt Nam máu lửa Quê hương tôi” của ông Đỗ Mậu có viết, ông Tuyến khi trốn ra nước ngoài đã mang theo một cặp đựng đầy hột xoàn? Việc đó có không?
VP: Tôi có đọc và tôi buồn cười. Theo cụ Võ Như Nguyện nói với tôi nguyên văn thì “thằng Đỗ Mậu nó viết bố láo bố lếu ví dụ tôi mặc đồ tang, tay chống gậy trong đám tang ông Ngô Đình Khôi. Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm bạ”.
NVL: Ông có thể kể tên một vài người thường nói tốt về Trần Kim Tuyến.
VP: Cái này thì tôi dám nói mà không ngại. Phải nói nhiều lắm. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, chị Bích Thuận và chồng là Émile Ngô Trọng Hiếu, Cụ Đoàn Thêm, Cụ Cao Xuân Vỹ. Cả Duyên Anh nữa. Duyên Anh có tha ai đâu, mà đối với ông Tuyến thì nói: Ôi thằng cha đó lo cứu người không à! Duyên Anh bảo rằng ông Tuyến làm trùm mật vụ mà đạo đức, hiền lành như vậy thì chọn lầm nghề rồi. Cụ Quách Tòng Đức, cựu đổng lý văn phòng Phủ Tổng Thống nói: “Ông Diệm nóng lắm, nhưng không ác độc. Ông Trần Kim Tuyến đàng hoàng, có tư cách”.
Còn cụ Cao Xuân Vỹ thì: “Tuyến chỉ đọc tài liệu, viết phúc trình cho ông Tổng Thống, ông Nhu. Trần Kim Tuyến chỉ cứu người chứ không hại người bao giờ cả. Ngoài ra, phải công nhận đám nhân viên ngoại vi của Trần Kim Tuyến có làm tầm bậy. Tụi này không thuộc Sở Nghiên cứu Chính trị. Anh nào cũng muốn lợi dụng Sở NCCT. Tuyến có la rầy nhân viên, nhưng như anh cả la em, không trừng phạt nặng. Nói mật vụ ác ôn là oan cho Tuyến”.
NVL: Ông có thể cho biết một vài người mà ông Tuyến đã “tha” đã giúp?
VP: Ờ, nhiều lắm chứ. Như bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Nhất Linh, cụ Hà Thúc Ký. Hồi ông Tuyến còn tại chức, nhiều nhà văn nhà báo nhờ ông nên không bị bên công an, mật vụ làm phiền. Đến nay nhiều người còn nhắc.
Chỉ trừ cái huyền thoại Trần Kim Tuyến cứu mạng Ngô Đình Nhu vào tháng 2/1947 là hoàn toàn bịa đặt.
Về cụ Hà Thúc Ký thì xin kể lại như thế này. Ông Tuyến vào trình ông Diệm về vụ bắt được Hà Thúc Ký, lúc đó đang lẩn trốn và âm mưu ám sát ông Diệm. Ông Diệm nổi nóng quát: Đem thủ tiêu nó đi. Ông Tuyến nhận lệnh ra về và băn khoăn khó xử. Và thay vì thi hành lệnh thủ tiêu, ông Tuyến trì hoãn không làm gì cả. Hôm sau vào gặp ông Diệm. Ông Diệm đã quên béng cái lệnh miệng đem thủ tiêu HTK, rồi hỏi:
- “Hà Thúc Ký ra sao?”
-“Dạ thưa cụ, vẫn còn giữ đó, để tôi liên lạc với bên Công an”.
Ông Diệm nói:
-“Mình nóng mình nói như vậy, thôi liệu giúp gia đình nó. Nói bên Công An đối xử tử tế với nó”.
Chút xíu nữa cái mạng của ông Hà Thúc Ký không còn nữa, nếu ông Tuyến thi hành lệnh miệng ngay đêm hôm đó. Ông Diệm lúc tức thì nói thế chứ đâu có ý định thủ tiêu Hà Thúc Ký.
Lại có trường hợp giúp người mà mắc oan. Ông Tuyến đã có lần giúp cho Trần Quang Thuận – về Nha chiến tranh Tâm lý, sau khi tốt nghiệp quân trường Thủ Đức – rồi mang vạ vì Thuận lái chiếc xe Austin hai mầu xanh/trắng, mang số DBA 599 của anh ta chở Hòa Thượng Thích Quảng Đức đến chỗ tự thiêu ở Ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng. Ông Nhu “ghim” ông Tuyến vì vụ này.
NVL: Bốn câu hỏi chót về ông Tuyến. Tại sao ông ấy không tự mình viết lại hồi ký?
VP: Ai cũng thúc dục ông ấy viết đấy chứ. Nhất là Cao Xuân Vỹ. Tôi cũng thúc dục ông ấy viết nhiều lần. Nhưng sau này, ổng có nói:“Moa (lúc này đã thân, ông gọi toa, moa) không viết vì sợ đụng chạm rất nhiều người. Viết ra sự thật thì sẽ làm nhiều người mất mặt, trong đó có nhiều người còn sống. Nếu họ chết rồi thì vợ con họ cũng đau lòng”. Sau đó có lần, chính ông đề nghị tôi viết.
NVL: Xin hỏi lại cho chắc, tôi vẫn tưởng chính ông đến đề nghị ông Tuyến cho phỏng vấn?
VP: Không, không có chuyện đó. Chính ông Tuyến đề nghị là “Thôi Phúc toa viết đi, toa đến đây, toa đặt sẵn những câu hỏi gợi ý, rồi moa theo đó trả lời”.
NVL: Về điểm này, về nhân cách, cũng xin trân trọng ông.
VP: Không dám!
NVL: Thế còn về những lời đồn “Sở Nghiên cứu Chính trị như một CIA Việt Nam, buôn bán thuốc phiện lậu và kinh tài khai thác gỗ, xuất cảng lông vịt, vụ vé số kiến thiết”?
VP: Về điểm thành lập Sở Nghiên cứu CT, mình đã trình bầy đầy đủ trong sách. Chỉ tóm tắt là khi đó, ông Tuyến không biết một tý gì về vai trò của mình: từ ý thức chính trị đến tổ chức. Chẳng ông nào có kinh nghiệm chống Cộng sản cả. Hoàn toàn tay mơ. Nhân viên trên dưới 30 người, thử hỏi với số nhân viên như thế, làm được gì? Mỗi khi cần nhân sự thì phải điều động bên Công an, Bảo an.
Về những đồn đãi buôn thuốc phiện lậu, xuất cảng lông vịt là do hiểu lầm. Chỉ có khai thác gỗ là có nhưng có lý do và đã được hai ông Diệm – Nhu cho phép. Xin xem chi tiết trong sách.
Nói thêm là ngay cuốn sách: Làm thế nào để giết một Tổng Thống, cái tựa do Sức Mấy đặt ra cho loạt bài đăng trên báo Hoà Bình. Tác giả Cao Thế Dung chỉ được gặp Trần Kim Tuyến có một buổi để hỏi chi tiết, về viết. Nhưng sau đó lại làm như ông Tuyến là đồng tác giả, và viết quá sai sự thật. Ông Tuyến đã phản đối và Hoà Bình đã cải chính ngay. Nhưng khi in thành sách, vẫn để tên ông Tuyến, khiến ông rất bực mình.
NVL: Và câu hỏi chót về ông Tuyến, ông có nhận thấy có sự trùng hợp về những điều thị phi, những tiếng đồn xấu chung quanh ông Tuyến cũng là những điều thị phi về ông Diệm và chế độ ấy? Phải chăng nó cùng nguồn gốc? Cùng bản chất? Và phải chăng khi ông bênh vực ông Trần Kim Tuyến là một cách gián tiếp giải trừ những huyền thoại về ông Diệm?
VP: Thưa ông, câu trả lời của tôi đã nằm ngay trong câu hỏi của ông rồi.
NVL: Nay thì xin đi vào chính nội dung cuốn sách của ông. So ra với lần xuất bản trước, 1998, lần này dày hơn đến 100 trang. Điều gì đã thêm vào như thế?
VP: Thêm vào vì mình không hài lòng với lần xuất bản đầu tiên, thấy cần tìm kiếm thêm nhân chứng. Chẳng hạn tìm hiểu thêm con người của ông Ngô Đình Cẩn. Ông có cướp đoạt tài sản của người ta không, có cho bộ hạ khủng bố đối lập không? Những nhân chứng mới như Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Tường Thiết, cháu và con trai Nhất Linh giúp soi sáng thêm về chủ tâm quyên sinh của ông Nhất Linh để phản đối chế độ? Ngoài ra còn những nhận xét, đánh giá quý báu của cụ Võ Như Nguyện, một nhân vật theo rất sát với ông Ngô Đình Khôi rồi ông Diệm. Cuộc phỏng vấn cụ Võ Như Nguyện quả thực hữu ích, vì nó củng cố thêm cho những điều tôi đã trình bày trong lần xuất bản đầu tiên.
Nhưng thích thú không kém là những lời của nhân chứng cựu đại úy tùy viên Lê Châu Lộc. Nhờ Lê Châu Lộc ta hiểu thêm “con người” Ngô Đình Diệm như thế nào trong những hoàn cảnh cay nghiệt của vai trò một tổng thống, thấu hiểu được những cá tính con người ông ấy và nhất là cái cõi riêng tư, những nỗi niềm trăn trở và cô đơn của ông ấy.
Nhà văn, nhà viết sử làm sao đạt được cái cõi riêng ấy để hiểu được một con người?
NVL: Tôi cũng nhìn ra được điều ấy, khi đọc những phần nhận xét của Lê Châu Lộc. Đó là những thứ tư liệu ròng mà không dễ có được. Đỗ Thọ cũng viết về ông Diệm, nhưng để tình cảm lấn lướt nhiều quá. Người đọc bị ngộp. Cảm thấy không tự nhiên.
Nhưng đâu là huyền thoại và sự thật về con người Ngô Đình Diệm?
VP: Theo tôi thì giá đọc được chính bài viết thì vẫn hơn là những điều tôi nói ra đây. Nhưng về cá nhân ông ấy, tôi nghĩ ông là người có đạo đức và về phương diện chính trị, ông là người có lòng với đất nước, với dân tộc, trước ông và sau ông, thật cũng khó có người sánh bì.
NVL: Ông có nghĩ rằng, những ý kiến của ông về ông Diệm sẽ có một số người phản đối, thậm chí coi ông Diệm là thứ độc tài ác ôn, gia đình trị, ba đời Gia tô bán nước, làm tay sai cho giặc?
VP: Chính vì còn có những người nghĩ như thế nên mới có vấn đề cần giải trừ những huyền thoại và những sự thật về con người ấy. Với lại không ai cấm họ nói viết ra như thế, với điều kiện họ đưa ra được bằng cớ khả tín. Vâng, vấn đề là nói sao cũng được, miễn là có bằng cớ khả tín.
NVL: Nói chuyện bằng cớ, thưa ông, đã có lần ông chủ bút báo ĐT gửi cho tôi một bức hình gia đình ông Diệm và hỏi xem tôi nghĩ gì? Hình ảnh một gia đình quan lại thuộc hàng Thượng thư triều đình ba đời làm tay sai cho Pháp mà như thế sao?


Gia đình ông quan Triều Nguyễn (từ trái):
Con gái lớn Ngô Thị Giao, bà Ngô Đình Khả bế con gái nhỏ Ngô Thị Hiệp, ông Ngô đình Khả, các con trai: Ngô Đinh Thục, Ngô Đình Diệm (4 tuổi), và Ngô Đình Khôi (Ảnh circa 1905)
Nguồn: Vĩnh Phúc

VP: Vâng, bức hình mà ông nói chính là bức hình thứ nhất ở trang 305 trong sách của tôi, do cựu trung úy Nguyễn Minh Bảo lấy được trong phòng ông Diệm trong cuộc đảo chính 1/11/63. Theo tôi, bức hình nói lên tất cả. Trông rõ cái cảnh nghèo khó, thanh bạch của gia đình ông ấy. Ông Diệm, ông Thục đi chân đất, quần áo nhếch nhác lôi thôi như bất cứ một gia đình nông dân nghèo túng nào.
Nhưng ông nói thật hay nói đùa đấy? Lấy đâu ra ba đời làm tay sai cho Pháp, mà ông Diệm làm tay sai cho Pháp hồi nào?
NVL: Có thể là tại vì ông Diệm có lý tưởng và nhờ ông sống độc thân, không bị ràng buộc vào gia đình nên ông mới hết lòng với dân, với nước?
VP: Có thể lắm và chắc cũng không thể không nghĩ tới điều đó. Có vợ con thì nó khác.
NVL: Ông có nghĩ rằng khi đọc sách của ông, sẽ có người nghĩ rằng, ôi cha Vĩnh Phúc này là tên Bắc kỳ, công giáo di cư, Hố Nai?
VP: (Cười)  Cứ để họ hiểu lầm. Người như ông Diệm còn không thiếu kẻ hiểu lầm, thì phần tôi có nghĩa lý gì.
NVL: Phần tôi, tôi đặc biệt chú trọng đoạn Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể buổi sáng hôm ấy ông Diệm phải tiếp kiến đô đốc Felt tại Đàlạt. Ông có nhận xét gì về buổi gặp gỡ lịch sử này?
VP: Ông tinh ý lắm, nêu dẫn đoạn ông Diệm gặp đô đốc Felt là điểm thắt nút mối bang giao hợp tác giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm trong suốt 9 năm. Buổi sáng hôm ấy, ông Diệm nôn nóng khác thường, tức giận đạp đổ ghế vì sĩ quan tùy viên tới chậm. Cái tức giận tùy viên chỉ là cái cớ thôi. Cái chính là lá bài sắp lật ngửa. Và tôi nghĩ rằng: Ván bài lương tâm và trả giá giữa người Mỹ và ông Diệm nằm ở buổi tiếp kiến hôm đó trước khi ông Diệm bị thảm sát. Đó là bản chúc thư giã từ sau 9 năm cầm quyền, một lần chót nói lên cái quan điểm khác biệt giữa người Mỹ và ông Diệm. Những kẻ viết sử sau này thường bác bỏ luận cứ này để biện hộ cho việc lật đổ ông ấy.
Không có người Mỹ, cuộc đảo chánh đó không có cơ thành tựu.
VP: Vừa rồi, ông đang hỏi tôi về con người ông Diệm. Tôi chưa nói hết, thì đấy, con người ấy có thể khoan dung ngay cả đối với kẻ thù. Nhưng cũng con người đó có thể nóng như lửa, mặt đỏ gay, hầm hầm, giộng ba toong thình thình trên sàn máy bay vì thấy treo cờ Vatican, vứt hồ sơ vào mặt ông Nhu mà không cho tùy viên lượm lại. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông tổng thống nguôi giận.
Nhưng ngược lại, ông lại tỏ ra rất bình tĩnh khi dinh độc lập bị ném bom. Lê Châu Lộc nhận thấy ông Diệm vẫn ngồi đọc sách một cách bình thản hỏi:
- “Cái chi đó?”
- “Dạ người ta bỏ bom mình”.
- “Thế à, mà ai bỏ bom vậy?”
Theo Lê Châu Lộc, làm tùy viên cho ông Diệm là khổ lắm. Theo ông đi kinh lý tối ngày, bất kể thì giờ, bất kể ngày đêm. Bằng máy bay, bằng trực thăng, bằng xe, bằng xuồng, “thăm dân cho biết sự tình”. Có lần phải kê ghế bố mà ngủ trong khi bên dưới lỏng bỏng nước. Những chuyến đi vất vả và nguy hiểm như thế cũng không làm ông Tổng Thống nản lòng, vì ông muốn đến tận nơi hẻo lánh nhất, hoàn cảnh khó khăn nhất để đem lại nguồn an ủi cho binh sĩ.
Thử hỏi sau này có anh lãnh đạo nào làm được như thế không?
NVL: Tôi cũng nghĩ như vậy. Có ông lãnh đạo nào bỏ ra vài lần thăm dân, thăm trường học trong suốt những năm về sau này? Chữ kinh lý, tôi nghĩ là chữ đặc quyền dùng cho ông Diệm. Sau này chữ đó không còn có trong tự điển nữa. Vậy mà thời ông Diệm, ciné chỉ chiếu những chuyện gì đâu.
VP: Ông nhắc tôi mới nhớ. Tôi còn nhớ hồi đó, ciné hát xong bài chào cờ là hát bài suy tôn Ngô Thổng thống. Đáng nhẽ phải bỏ tù cái thằng cha nào đã nghĩ ra cái bài hát thối tha: Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống.(1) Bài đó giết ông Diệm từng ngày, từng giờ không cần gươm giáo đấy. Vứt bài hát đó vào sọt rác và chiếu lên hình ảnh ông Tổng Thống đi bốt, lội bùn, sắn quần lên tới đầu gối thì còn gì đẹp bằng nữa?(2)
NVL: Vâng, quả đúng như vậy.
VP: Nay thì đến lúc tôi hỏi ngược lại ông: Đọc lần tái bản này ông thấy thế nào ?
NVL: Phải nói bản cũ, tôi đọc nhiều lần, mỗi lần muốn viết điều gì về chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi đều dở ra tham khảo. Nhưng chê trước đã. Thật ra, không phải chê mà ấm ức.
Thứ nhất, cuốn sách không có cái nhìn tổng thể lớp lang về chế độ ấy. Nó thiếu văn mạch của những chuỗi sự kiện nối tiếp nhau. Nó nêu ra đó rồi để cho độc giả tùy ý chọn lựa thái độ. Quả là có rộng lượng và tôn trọng độc giả. Sự kiện từng mảnh của chế độ ấy như chính ông nói với tôi, như đống gạch. Có viên lành lặn, viên vỡ. Rồi ông bày hàng ra, ông đẩy cái trách nhiệm đánh giá cho các nhà sử học, cho người đọc. Mà như chúng ta biết đấy. Nhà sử học nào đã làm được công việc ấy? Trong khi đó, đáng nhẽ là trách nhiệm của ông phải làm?
Thứ hai, về phương pháp làm việc, ông đã chọn cách viết chỉ dựa trên nhân chứng, một thứ Oral History, rất khả tín, thời thượng. Phải chăng, đó là lối làm việc theo thói quen từ BBC của ông? Nhưng lối viết nêu dẫn nhân chứng lại rất áp đảo, trấn áp người đọc. Chẳng hạn khi chính Lê Châu Lộc nói rằng, ông Diệm nghe tin phi công Phạm Phú Quốc ở trong tù bị bọn công an hành hạ đến nơi đến chốn. Ông Diệm không an tâm sai Lê Châu Lộc đến nhà giam xem thử. Lê Châu Lộc bắt Phạm Phú Quốc dơ tay cho xem có bị thương tích không. Không có. Chỉ nêu sự việc: Một người đã ném bom tính giết mình, đã không bị đưa ra tòa, không bị cho đi mò tôm là may, lại còn thăm hỏi. Chuỗi sự kiện đó dẫn đưa tới việc phải thừa nhận: Ông Diệm là người tốt. Không lạ gì, sau đó, Phạm Phú Quốc đã viết thư xin lỗi ông Diệm.
Tôi chỉ nói, lối viết đó có tác dụng thuyết phục, vì nó vượt lý luận, bịt miệng những ai muốn nói khác, muốn bôi nhọ.
Ở trên, tôi nói ấm ức, vì ông không sử dụng tài liệu. Ông cũng đã nêu ra những lý do khi ông cho rằng những hồi ký, những sách viết về chế độ ấy do các nhà văn, nhà chính trị, nhà báo viết bố láo, bố lếu, bóp méo lịch sử cho dù dùng tài liệu ngoại quốc viết cũng tào lao, rất là bôi bác. Nói chung là như thế.
Nhưng này, ông chê người ta viết bố láo, bố lếu. Vậy có thể nào ông cho biết đích danh một tác giả hay một cuốn sách viết bôi bác?

VP: Cái này thì xin ông tha cho. Tôi chỉ nói được là nhiều lắm, tôi tránh nói ra. Độc giả đọc họ là biết rồi. Sau khi anh em ông Diệm bị giết, nhiều người đã viết quá sai sự thật chỉ nhằm mục đích câu độc giả. Sau 1975, cũng thế. Ngay cả những bầy tôi, sau này viết về chủ mình, cũng phản bội, viết bôi bác, nói trắng ra đen. Theo tôi, viết như thế không xứng đáng một người cầm bút.
Chính vì vậy, tôi chọn lựa không sử dụng tài liệu của bất cứ ai.
NVL: Chọn lựa như thế, đúng ra là chọn lựa tư cách là một nhà báo hay nhà sử?
VP: Nhà báo thì cung cấp thông tin, dữ kiện. Còn nhà sử cung cấp kiến thức. Nói như thế thì ông biết tôi là nhà gì rồi?
NVL: Cũng đúng, nhưng tôi xin bổ túc, Trần Trọng Kim kiến thức sử đâu có bao nhiêu, nhưng sự trung thực thì lồng lộng mà kẻ hậu bối chỉ biết cúi đầu khâm phục.
VP: Tôi cũng không nghĩ gi khác ông. Chúng ta cùng nói chung một thứ ngôn ngữ: Sự can đảm và lòng trung thực. Đó là những đức tính cần có của một người cầm bút.
NVL: Khi ông dùng chữ bày tôi viết về chủ mình thì gián tiếp người đọc như tôi cũng hiểu bầy tôi là ai rồi ?
VP: Ấy chớ, xin ông đừng diễn dịch xa quá.
NVL: Trong biến cố Phật giáo, mặc dầu ông đã cố gắng phỏng vấn một số người như cụ Quách Tòng Đức, TT Thích Tâm Châu và ngay cả ông Đặng Sỹ v.v... Phần trả lời của TT Tâm Châu chưa đầy đủ lắm. Phải nói về vai trò của TT ấy như thế nào, vai trò của TT Trí Quang có tính cách quyết định về đường lối đâu tranh chống chính quyền? Nguyên đo đưa đến sự đổ vỡ đến tách ra thành hai khối Phật giáo? Phần ông Đặng Sỹ thì tránh né trả lời. Chính tôi cũng liên lạc với ông được hai lần, nhưng ông cứ khất lần. Rất tiếc nay người nhà ông báo cho tôi biết ông mới qua đời. Thế là một dấu mốc lịch sử bị đứt quãng. Nhưng tôi vẫn thấy còn cần đào sâu thêm nữa để có thể khai thông một số vấn đề chưa sáng tỏ như vụ nổ đài phát thanh Huế v.v... Những người như đại úy Minh, văn phòng cố vấn chỉ đạo của ông Cẩn có thể đóng góp cho rõ thêm vai trò ông Cẩn và đặc biệt TT Trí Quang, sau 1975, ông rút vào bóng tối một cách khó hiểu như có điều gì không tiện nói. Im lặng ở đây là vàng. Ông cần lên tiếng và nên lên tiếng. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?
VP: Thật ra những người như ông Ngô Đình Nhu đáng nhẽ phải để lại những Mémoires thì đỡ cho chúng ta biết bao nhiêu. Hình như các người làm chính trị ở Việt Nam không có thói quen viết nhật ký. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp TT Thích Trí Quang nhưng quá khó gặp. Cả TT Hộ Giác một khuôn mặt đấu tranh nổi bật thời đó hiện còn sống ở Mỹ, tôi cũng cố tìm cách tiếp xúc nhiều lần mà không được. Tôi sẽ đặc biệt lưu tâm đến trường hợp này trong lần tái bản sau.
NVL: Tôi xin góp ý thêm về vấn đề tài liệu. Tôi được biết là TT Trí Quang có viết về biến cố Phật giáo 63, gần như không phổ biến. Cho dù có được phổ biến, với lối viết Oral History của ông, dĩ nhiên ông sẽ không xử dụng. Thật tiếc. Cũng vậy, tôi thấy có những tài liệu từ phía cộng sản như của cán bộ Cộng sản Mười Hương chẳng hạn. Rất là hữu dụng, một cái nhìn từ phía bên kia, đưa ra một quan điểm đánh giá hoàn toàn trái ngược với phía VNCH. Mười Hương viết về thân phận những cán bộ nằm vùng bị chính quyền VNCH bắt, sau 1975 lại bị cộng sản nghi ngờ không xử dụng. Mười Hương đã nhận xét về kẻ thù số 1, không đội trời chung là ông Ngô Đình Cẩn như thế nào, trong đó đánh giá rất cao vai trò ông Cẩn trong việc tiểu trừ cộng sản nằm vùng. Đọc Mười Hương để thấy rằng kể cả ông Diệm, ông Nhu cho đến người dân miền Nam, nhất là miền Trung đã đánh giá quá thấp con người Ngô Đình Cẩn.
Một cán bộ Cộng Sản thứ gộc như Mười Hương đánh giá cao Ngô Đình Cẩn thì cũng là điều để chúng ta suy nghĩ chứ. Cũng như luật sư Quan rất khinh ghét ông Cẩn, nhưng lúc biện hộ cho Ngô Đình Cẩn, nhận ra con người ấy đáng nể, đáng kính, đáng thương và đã khóc khi nghe Ngô Đình Cẩn bị lên án tử hình và đã viết hồi ký về vụ án này.(3)
Ông Cẩn không vô tích sự đến như thế, ông không ngu dốt đến như thế. Cách hành xử của ông có thể do lối dùng người không chính thống, không hành chánh, nhưng hiệu quả thì có. Miền Trung yên áng một phần nhờ ông Cẩn. Quét sạch bọn Cộng Sản nằm vùng do một tay ông. Đối với Phật giáo, thử hỏi ai là người bao che ông Thích Trí Quang, ai tiến cử các TT Trí Quang, Thiện Minh gọi là “đồng chí” Trí Quang, Thiện Minh như chính ông đã viết trong sách trang 76. Ai khuyến cáo các tướng vùng phải giúp đỡ các khuôn hội Phật Giáo, ai giúp đỡ tiền bạc sửa chữa Từ Đàm, ai đã ngăn chặn việc hạ cờ Phật giáo sau khi người dân Huế đã lỡ treo rồi mới có lệnh nhắc nhở từ Saigon? Vâng, ai?

Trân Kim Tuyến (1925—1995), Cambridge, UK, 2 tháng trước khi qua đời
Nguồn: Vĩnh Phúc

Tôi phải nói rằng, Ngô Đình Cẩn nhạy bén chính trị, dù ít học đã làm chính trị theo bản năng. Chưa chắc gì ông đã thích Phật giáo, nhưng đã biết cách thức hành xử thế nào đối với cái nôi Phật giáo miền Trung mà Thiên Chúa giáo chỉ vỏn vẹn có 4%.
Vậy mà con người ấy theo tôi đã bị đời khinh rẻ, bị oán hận, bị gán ghép nhiều thứ, bị chính những người mà mình hết lòng giúp đỡ hận oán nhất.

Tôi thì không. Khẳng định là không, vì hiểu một con người không hẳn là dễ.
Lịch sử còn đó để thấy điều tôi nói cần được suy nghĩ lại. Có thể chính ông cũng không đồng ý, bởi vì ông chỉ chú ý nhiều đến ông Diệm, ông Nhu, nhất là ông Tuyến.
(Cười).
Dám ông cũng bất công lắm.

Nay thì phải nói một điều. Cuốn sách của ông viết, tất cả giá trị nó nằm trong tinh thần muốn tôn trọng sự thật. Thấy trắng nói trắng, thấy đen nói đen. Đọc là thấy. Nhiều lần trong lúc nói chuyện, ông cũng nhấn mạnh tới điều này và chỉ điều này thôi. Như trong lời mở đầu, ông tặng vợ con và không quên tặng những người yêu sự thật.
Hy vọng là tôi có trong số những người ấy.
(Cùng cười).
Nay cuộc đàm đạo giữa tôi và ông có thể hướng vào nhân vật chính của cuốn sách: Con người ông Diệm với tất cả cái xấu, cái tốt, cái bất cập, cái sai trái khuyết điểm, cái bị vu oan, cái bị người đời oán ghét, nguyền rủa.
Theo ông, ông nghĩ gì về ông Diệm?
VP: Trước hết, mình không phải là người ở cạnh ông Diệm để có thể đưa ra những nhận xét trực tiếp về ông ấy. Nhưng qua những người đã từng sát cánh với ông Diệm thì phải nhìn nhận như sau:
Ông Diệm là một người đạo đức, sống như một nhà tu hành, không có tham vọng vật chất và thật sự có lòng yêu nước, thương dân. Ông tự tin vào lương tâm trong sáng của mình nên muốn bắt mọi người phải nghe theo. Cứ như Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể lại thì hằng ngày, ông xem lễ vào sáng sớm. Nếu không có lễ thì cầu nguyện. Ông quỳ gối giang hai tay ra, cầu nguyện. Sau đó, tắm rửa, thay đồ, rồi làm việc.
NVL: Thế thì đi tu cho rồi
VP: Xưa nay người ta chỉ làm được một việc nếu muốn giỏi. Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị. Được việc này thì hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng. Nhưng cũng phải nói anh em ông Diệm có óc “tỵ quyền”, nghĩa là bảo vệ quyền thế của mình.
Những Bùi Văn Thinh, Lê Quang Luật, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý… đều không được dùng chỉ vì tỏ ra nổi quá. Năm 1996, ông Như Phong kể lại với tôi rằng, ông Lê Quang Luật đã đưa ra nhận xét: “anh em nhà ấy họ chỉ nghĩ tới họ trước.” Rồi nặng tình họ hàng quá. Thấy anh em làm bậy mà không dám ngăn cản vì quá nể nang. Ví dụ để cho ông Cẩn, bà Nhu lộng hành. Để ông Thục tổ chức lễ Ngân khánh linh đình, với ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ làm chủ tịch ban tổ chức…
Riêng về buổi lễ tổ chức mừng Ngân khánh Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, tôi xin nói rõ thêm.
Có một chi tiết về ông Ngô Đình Nhu, xin nói ra đây. Thứ nhất, tôi được nghe kể lại từ một người bạn dạy đại học Huế cho biết rằng, theo cha Luận kể lại, khi được biết có việc tổ chức lễ ngân khánh ông Ngô Đình Thục. Ông Nhu rất khó chịu và không dám nói thẳng ra, ông bèn kêu Linh Mục Cao Văn Luận, viện trưởng viện đại học Huế vào Sàigòn gấp. LM Luận vội vào và không biết có chuyện gì. Ông Nhu cho cha Luận hay nhờ cha Luận, nói với Đức cha hủy bỏ việc tổ chức lễ ngân khánh, hoặc làm một cách khiêm tốn, nho nhỏ thôi. Dĩ nhiên chẳng ai nghe và bọn bầy tôi đã tổ chức rềnh rang buổi lễ ấy đến chướng mắt mọi người. Những kẻ nịnh thần chính là những kẻ giết chết gia đình họ Ngô. Ông Nhu là người chống giáo trị — anti–clérical — theo nghĩa đạo ra đạo, đời ra đời tách biệt nhau. Nhưng mình ông làm được gì?
NVL: Theo tôi thì chế độ Ngô Đình Diệm bị rất nhiều người thù hận. Sau cái chết của họ và cho đến bây giờ, qua sách vở, qua những hồi ký, qua những tiếp xúc với giới Phật tử. Xin lỗi ông nhé — hình như sự oán hận đó vẫn còn. Theo ông, điều gì đã làm cho người ta oán hận đến như thế và về phần những người như ông Diệm, ông đối xử ra sao với Phật giáo? Có chính sách tiêu diệt người Phật giáo hay không? Có những sách vở tài liệu đưa ra con số 300 ngàn người bị tù đầy hoặc bị ám hại?
VP: Người nào đưa ra con số 300 ngàn người thì cứ đưa ra bằng cớ, nhưng người ở đâu mà lắm thế? Người nào còn nghi ngờ, xin làm ơn cho biết có bao nhiêu, mấy trăm, mấy ngàn? Có những trường hợp cấp dưới nó làm mà ông Tổng Thống, ông Nhu có thể không biết, xin cũng cứ nêu ra, cụ thể là những nhân vật đối lập như ông A hay ông B, v.v…
Riêng tôi, với tư cách người cầm bút, tôn trọng sự thật, tôi biết có những người chủ tâm ám sát ông Diệm như cụ Hà Thúc Ký, phi công Phạm Phú Quốc và tên Cộng Sản Hà Minh Trí. Vậy mà họ được đối xử đàng hoàng. Ngay ở các nước dân chủ Tây Phương, tội ám sát người sẽ bị xử ra sao? Nhất là ám sát một Tổng thống?
Hà Minh Trí ám sát hụt ông Diệm ở Ban Mê Thuột, chỉ bị tù, sau 1975 được thả. Một mật vụ thời ấy cho tôi biết họ đề nghị đẩy tên Hà Minh Trí từ trên lầu xuống cho chết, rồi bảo là là tai nạn. Ông Nhu không cho, bảo cứ giam lại.
Cụ Hà Thúc Ký, nay ở bang Maryland. Chính tôi đã phỏng vấn cụ và cụ cười kể rằng: “Hồi xưa tôi định ám sát ông Diệm. Nhà tôi ở đường Công Lý, gần trường Quốc Anh, tôi chủ tâm đào một đường hầm ra đến đường Công Lý, cách khoảng 50 thước và chôn 20 kg chất nổ rồi chờ xe ông Diệm đi qua, sẽ giật mìn để ám sát ông Diệm”.
Tôi hỏi rằng khi cụ bị bắt họ đối xử ra sao. Cụ trả lời:
Lạ nhất là không bao giờ họ đánh đập. Tôi lúc nào cũng nghĩ rằng hễ bị ông Diệm bắt là bị giết liền chứ không thể sống được, vì tôi làm cho ổng mệt lắm.
Còn ông Phạm Phú Quốc thì theo lời tôi phỏng vấn ông Lê Châu Lộc, ông cho biết như sau. Một đêm Tổng Thống Diệm gọi Lê Châu Lộc hỏi:.
-“Anh có nghe cái đó không?(Nghe Quốc bị tra tấn dã man không).
– Dạ không
– Thấy báo cáo vậy. Xuống thăm nó nghe. Coi có vậy không, về cho tôi biết.
Lê Châu Lộc đi gặp Phạm Phú Quốc theo lệnh Tổng Thống:
– Tổng thống sai tôi tới, hỏi xem anh có bị hành hạ không .
– Không có.
– Anh dơ tay tôi coi, anh có bị rút móng tay không?
– Không, nhưng tôi có viết một lá thư, nhờ anh đem về được không?
– Tôi không có nhiệm vụ đó. Anh để mấy người điều tra họ lo chuyện đó.
Cũng theo Lê Châu Lộc, chính ông Võ Văn Hải là người đưa ông Nguyễn Chánh Thi ra máy bay để trốn sang Nam vang. Nếu không có lệnh của ông Diệm, liệu ông Hải có dám làm chuyện này không?
NVL: Nhưng còn những trường hợp các ông Tạ Chí Diệp, Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Vũ Tam Anh thì sao? Họ bị giết, bị thủ tiêu ?
VP: Phải nhìn nhận, đây là vết đen của chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Hà Thúc Ký kể rằng đảng viên Đại Việt bị tra tấn hay bị thủ tiêu. Nhưng cần lưu ý là những vụ này đều xảy ra vào cuối triều Ngô Đình Diệm, năm 1963, lúc mà ông Tuyến đã bị cho ra rìa và do đó đám mật vụ công an lộng hành dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Y, Tổng giám đốc Cảnh sát Công an, và Nguyễn Văn Hay, Dương Văn Hiếu làm phó tổng giám đốc. Theo ông Cao Xuân Vỹ, ông có hỏi Đại tá Nguyễn Văn Hay khi ông này vào trình hồ sơ cho ông Diệm. Ông Diệm phê: “Thanh toán cho xong.”
Tụi bộ hạ là Khưu Văn Hai và đàn em hiểu "thanh toán là đem giết”. Thế là Nguyễn Bảo Toàn và Tạ Chí Diệp bị giết oan. Còn Hồ Hán Sơn thì Trần Kim Tuyến cho là các phe của Cao Đài diệt nhau. Ông Cao Xuân Vỹ cũng có lần hỏi thẳng ông Ngô Đình Nhu về vụ Tạ Chí Diệp, ông Nhu bảo Accident.
NVL: Xin ngắt lời ông một chút. Tôi nhận thấy chế độ hành chánh thời ông Diệm quá tập trung về dinh Độc Lập. Chẳng hạn một chuyện treo cờ Phật giáo cũng phải trình TT, đáng lẽ tỉnh trưởng phải lo chuyện này. Nhất nhất chuyện gì từ tướng vùng đến các bộ trưởng đều đợi lệnh TT. Ông Nhu trở thành thứ Thủ tướng bất đắc dĩ.
VP: Nhận xét của ông, nhiều người cũng nghĩ như thế.
NVL: Lại còn những tiếng đồn về lãnh chúa miền Trung với những vụ thủ tiêu người nữa.
VP: Cái này tôi chỉ có thể viết lại theo lời cụ Võ Như Nguyện thôi. Theo cụ Nguyện, ông Cẩn là người có máu tham lam, tham nhỏ thì rồi đến lúc tham lớn. Chẳng hạn như việc mua lại khách sạn Morin? Mua bằng gì? Khách sạn này do ông Nguyễn Văn Yến làm chủ. Ông bị bắt giam đến nỗi chết trong tù. Phần tôi – Vĩnh Phúc – vẫn còn thắc mắc là có phải ông Yến chết là do mật vụ ông Cẩn đánh cho chết không? Rồi đến nhà thầu khoán Phương cũng bị chết. Tiền đâu mà ông Cẩn mua khách sạn Thuận Hóa? Chủ Hotel Embassy trong Sài Gòn để tên Lê Văn Hiệp. Cái Hotel Maxim ở Paris cũng để tên Lê Văn Hiệp nhưng thực sự là của ông. Còn đất đai ngoài miền Trung thì để tên Lê Trọng Quát.

Phụ chú:
(1) Dưới thời Bộ trưởng thông tin Trần Chánh Thành, ông đã phát động sự hình thành Phong trào Cách Mạng Quốc Gia, đồng thời cho phổ biến bài hát trên trong các rạp ciné. Thoạt tiên là bài Quốc ca, tiếp đến là bài suy tôn Ngô tổng thống. Năm 1975, ông Thành tự tử bằng cách uống thuốc độc chết tại nhà.
Trích Lâm Lễ Trinh, 9 năm bên cạnh TT Ngô Đình Diệm.

(2) Tác giả bài Suy tôn Ngô tổng thống là nhà văn Thanh Nam (Trần Đại Việt, 1931-1985) và nhạc sĩ Ngọc Bích (Nguyễn Ngọc Bích, 1924-2001).


Nguyễn Ngọc Bích và Trần Đại Việt, tác giả bài “Suy tôn Ngô Tổng Thống”
Nguồn: vi.wikipedia.org

Khi Ngô Đình Diệm đòi phế truất Bảo Đại, cũng như đa số những thanh niên có cảm tình với Ngô Đình Diệm, Ngoc Bích soạn bài Vè Bảo Đại. Sau khi Ngô Định Diệm thành công làm tổng thống, Ngọc Bích cùng nhà văn Thanh Nam, có sửa lại lời bài Vè Bảo Đại và trở thành bài Suy tôn Ngô Tổng Thống. Cũng cần đặt bài hát vào bối cảnh thời đó. Thời cực thịnh của chế độ nên có bài hát đó không cói gì là lạ. Nhưng cứ hát mãi đâm nhàn chán, khôi hài. Nguồn:vi.wikipedia.org

(3) Dư Văn Chất viết cuốn sách “Người chân chính” hay Bản kiến nghị “Bội phản hay chân chính”. Trong sách, Chất nói rằng Đoàn công tác đặc biệt miền Trung của ông Cẩn họat động rất hữu hiệu ở miền Trung và cả Sài gòn. Ông Cẩn đã phá tan màng lưới gián điệp của Cộng Sản Hànội. Ở miền Trung, cán bộ nào còn sống sót, phải rút vào rừng, lên núi. Miền Trung, CS bị xóa trắng. Họ rất nể phục ông Cẩn. Bị bắt được đối xử tử tế, không bị giam, được di lại thoải mái, ngay cả đi dạo phố Sài gòn. Bố bảo cũng không dám trốn, sợ bị theo dõi. Nhiều người Hồi chánh. Nhiều cán bộ CS đựợc dùng nếu họ muốn. Họ chỉ có hai con đường: sống hoặc chết. Tiếng cậu Cẩn ác ôn cứ thế đồn ra. Lãnh Chúa miền Trung. Họ xác nhận đã bị ĐCTĐBMT của ông Cẩn mua chuộc. Sau 1963, kẻ nào còn bị giam được thả ra. Họ hoạt động trở lại. Thả hổ về rừng. Sau này Lê Đức Thọ xếp họ vào loại có vấn đề, nghi ngờ họ đã đầu hàng VNCH, không dùng. Đám này sinh bất mãn, viết kiến nghị gửi bộ chính trị.

NVL: Trong vụ xử Phan Quang Đông ngày 26/3/64, tòa án cách mạng họp ở Huế đã xét xử Phan Quang Đông về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền bạc và lũng đoạn kinh tế. Các tội đó liên hệ đến 19 nạn nhân từ 26/10/55 – 1/11/63. Vào Năm 1963, gia đình ông Yến đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho ông Đỗ Mậu, cục trưởng an ninh quân đội. Ông này sợ liên lụy lại trao cho đại úy Phạm Bá Thích ở Huế. Cuộc điều tra kết quả ra sao thì không ai được biết. Nhưng chắc chắn đã đưa đến cái chết của Phan Quang Đông. Ở Sàigòn thì vào ngày 25/6/64, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái bị kết án khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 năm khổ sai.
VP: Người ta bảo Phan Quang Đông phải chết, cũng như Đặng Sỹ phải lãnh án tù, vì các tướng đảo chính muốn làm vừa lòng một số nhà lãnh đạo Phật giáo quá khích.
NVL: Đây là câu hỏi mấu chốt, câu hỏi có thể còn gây tranh luận, là đầu mối cho việc lật đổ ông Diệm hay ít ra là cái cớ cho việc lật đổ ông: ông Diệm, ông Nhu có kỳ thị Phật giáo hay không?
VP: Câu hỏi coi vậy không khó để trả lời. Nếu tôi làm chính trị thì ngay cho dù tôi có đố kỵ với Phật giáo, tôi vẫn tỏ ra thân thiện với Phật giáo. Ông Diệm, ông Nhu đủ khôn ngoan để làm việc đó. Vấn đề là cấp dưới như tỉnh trưởng, quận trưởng làm bậy mà ông Tổng thống không thể kiểm soát hết được, theo như nhận xét của Hòa thượng Thích Tâm Châu. Nhưng, Ông Diệm không phải là loại người đóng kịch giỏi đến như thế?
NVL: Đóng kịch hay chắc phải dành cho ông Nguyễn Khánh, Trần Văn Đôn?
VP: Không, ông Hồ đóng hay hơn chứ. Khánh, Đôn sao bì được. Khánh phải gọi là diễu dở.
Theo lời kể của Lê Châu Lộc, chính TT Quảng Liên, Hiệu trưởng trường Bồ Đề gần chợ Cầu Muối đã được ông Diệm cho xuất ngoại du học, và chính ông Diệm đã tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma 10 ngàn đô-la để giúp người tỵ nạn Tây Tạng.
Phần cụ Võ Như Nguyện, lúc còn làm Chủ tịch Uỷ ban Nội vụ Quốc Hội, đã đưa các TT Trí Thủ, Thiện Minh, Trí Quang vào gặp Tổng thống Diệm để xin đổi tên Hội Phật giáo Thừa Thiên thành Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày hôm sau ông Diệm ký liền.
Còn chuyện này không kém quan trọng. Xưa nay, người ta thường bảo các ông Diệm Nhu ra lệnh tấn công chùa, gọi là kế hoạch “nước lũ”. Việc đem lực lượng cảnh sát tấn công chùa là một quyết định vụng về của chế độ. Đã đành có nhiều tướng lãnh mà đứng đầu là Tôn Thất Đính, đề nghị tấn công chùa. Nhưng trách nhiệm người lãnh đạo vẫn là ông Tổng Thống. Sự sáng suốt, sự khôn ngoan của người lãnh đạo để đâu? Hay cũng bảo rằng đằng sau chuyện này có bàn tay người Mỹ?
Tôi đã hỏi ba người, ở 3 tư thế khác nhau.
NVL: Xin cắt ngang ông một lần nữa về cách thức của ông khi chọn người để phỏng vấn. Sự chọn lựa có chủ đích của ông giúp nâng mức độ khả tín của cuốn sách. Ngoài ông Trần Kim Tuyến là điều cần thiết cho sự hình thành cuốn sách này không tránh được. Những tên tuổi khác đã không có mặt như Lâm Lễ Trinh, Đỗ Mậu là một sự không có mặt có ý nghĩa?
Tuy nhiên, có một người mà tôi nghĩ rằng nên được phỏng vấn lắm. Đó là cụ Đoàn Thêm. Tôi biết chút ít về con người cụ Đoàn Thêm. Cụ là người làm việc bên cạnh ông Diệm, nhưng không ưa tính nết ông Diệm, nếu không nói là ghét và đố kỵ. Nhưng qua những ghi chép trong: “Việc Từng Ngày”, người ta thấy cụ nhận xét chi li, tỉ mỉ và khá là công bằng đối với ông Diệm. Thật sự không cần ca tụng hay nịnh ông Diệm như một số sách đã viết. Theo tôi, chỉ cần viết công bằng, viết trung thực cũng đủ rồi. Rất tiếc là nay cụ Đoàn Thêm cũng đã mất rồi.
VP: Cám ơn hảo ý của ông trong những nhận xét về các nhân vật được phỏng vấn, ông đã nói trúng ý tôi. Riêng cụ Đoàn Thêm tôi đã cố thử xin phỏng vấn nhưng khó lắm, vì cụ dè dặt. Nay rất tiếc cụ đã qua đời. Bây giờ xin trưng dẫn ý kiến của ba người đó.
Ông Cao Xuân Vỹ: “Việc tấn công chùa là do đề nghị của các tướng. Ông Nhu nói với tôi thế này: Phải giải quyết vụ Phật giáo cho xong, không thì anh em binh sĩ ngoài tiền tuyến không an tâm. Sau đó, tôi có hỏi các tướng, các ông chối hết. Nhưng mấy anh em ấy họp nói rằng, chính Tôn Thất Đính chủ trì phiên họp. Nhưng đứng ra hành động là Lực lượng đặc biệt và Cảnh sát.”
Ông Cao Xuân Vỹ cũng có mặt ở chùa Xá Lợi, lúc chùa bị tấn công. Chắc hẳn những điều ông nói là đúng.
* Cụ Quách Tòng Đức: Có lẽ với vai trò của cụ là Đổng lý văn phòng phủ Tổng thống, cụ cũng có thể biết được tường tận vụ khủng hoảng Phật giáo. Nhà cụ lại ở ngay cạnh chùa Xá Lợi nên cũng thấy cuộc tấn công chùa. Đây là những câu tôi hỏi cụ:
- “Có đàn áp Phật giáo hay không?”
- “Không có đàn áp Phật giáo. Chính phủ giúp xây chùa Xá Lợi và nhiều chùa khác. Ông Diệm vốn biết nhược điểm của mình là người Thiên Chúa, ông cố giữ quân bình.”
- “Ai ra lệnh tấn công chùa?”
- “Lúc đó ra lệnh miệng thôi à. Tấn công chùa là Cảnh sát, không phải quân đội. Tôi ở ngay bên, các chùa cũng để loa rầm rộ lắm. Nghe họ hô những khẩu hiệu ghê lắm. Xem thường chính phủ lắm.”
- “Có vài tướng đề nghị đánh chùa?”
- “Chắc là các tướng như tướng Đính có ý kiến đánh vào các chùa. Tôi thấy khi có vụ Phật giáo rồi, cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không muốn làm việc nữa. Một số công việc tôi trình lên. Ổng nói đưa cho ông Nhu. Tôi không thấy ông Nhu có tham vọng thay ông Diệm. Không thấy gì”.
* Hòa Thượng Tâm Châu: Theo Ông Cao Xuân Vỹ: “Ông Tâm Châu không biết gì cả, vừa là nạn nhân, vừa là anh hùng.” Tôi đã hỏi Hòa thượng Tâm Châu như sau:
– Theo Hòa Thượng, Tổng thống Diệm và ông Nhu có kỳ thị Phật giáo không?
– Thực ra đối với TT Diệm khi đó tôi có gặp thì biết. Ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân chủ hơn. Còn vấn đề kỳ thị, thì tôi không dám nói có hay không có. Chắc chắn thì tôi nói thẳng thắn ở cấp trên thì đương nhiên hiểu biết rộng hơn cấp thừa hành dưới, hoặc là chẳng hạn bị ảnh hưởng của Tổng giám mục Ngô Đình Thục là người vẫn muốn làm sao tôn giáo mình phát triển, nên tìm phương thức... Có thể người dưới làm những cái nó sinh ra chuyện không tốt. Tôi tin tưởng là cấp trên không đến nỗi nào.
– Hồi đó sự phát triển Phật giáo nói chung, mà điển hình là sự phát triển các chùa chiền, có gì trở ngại không?
– Thực ra không có gì trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự bình thường chỗ nào làm chùa mà xin phép thì được xét thôi. Chung chung không có gì cả.
– Không bị trở ngại?
– Chỗ nào thì tôi không biết chứ trong Sàigòn thì tôi không thấy.Tôi thực sự không thấy.
– Hôm cảnh sát tấn công chùa, Thầy đang ở đâu?
– Tôi đang ở chùa Xá Lợi. Tôi cũng bị bắt, bị giam, nhưng không biết là giam ở đâu. Giam cho đến ngày 2/11/1963 mới được về.
– Thầy có bị hành hung không?
– Đánh đập thì không có.


TT Thích Tâm Châu: Tôi không bao giờ có, tôi chống Cộng từ Bắc.
(Nguồn: sc.groups.msn.com)

– Phong trào tranh đấu Phật giáo có bị ảnh hưởng của Cộng Sản không?
– Dạ không. Không có. Ở miền Trung thì tôi không biết, nhưng trong Nam thì tôi không thấy có vấn đề Cộng sản. Về sau mới có chứ lúc ấy không có gì.
– Riêng thầy, Cộng sản có cho người liên lạc không?
– Tôi không bao giờ có, tôi chống Cộng từ Bắc.
– Thầy nghĩ sao về thầy Trí Quang? Người ta nói thầy Trí Quang thiên Cộng?
— Tôi không được gặp thầy Trí Quang nhiều. Ngài ở ngoài Trung. Chỉ nói thẳng thắn cái cao vọng của cụ ấy nặng hơn, chứ còn Cộng sản thì không biết sao cả.
Cần nói thêm là ngoài một số viên chức chính phủ làm bậy để lấy điểm, còn một số cha di cư lợi dụng tên tuổi ông Diệm để trục lợi.
NVL: Có thể ông cho biết một vài trường hợp cụ thể.
VP: Thì như ông Cha Khai, đi đâu cũng lấy danh nghĩa người của Tổng Thống . Ông Diệm đã gọi vào và từ đấy, ông không còn được héo lánh đến dinh Độc Lập như trước nữa.
NVL: Còn một người nữa không thể không nói đến. Bà Ngô Đình Nhu. Nếu Thượng Tọa Trí Quang có thể làm rung chuyển nước Mỹ thì Bà Nhu có thể làm lung lay chế độ? Ông đồng ý chứ?
VP: Đồng ý một nửa. Câu hỏi của ông có tính gài bẫy, trả lời cũng chết, không trả lời cũng chết.
NVL: Tôi có cảm tưởng ông có vẻ ghét, khinh thường bà Nhu về những ngôn ngữ, cử chỉ xấc xược của bà ấy. Mặt khác, tôi lại có cảm tưởng ông biện hộ, bênh vực bà ấy. Chẳng hạn, trong sách ông cố tình chứng minh rằng bà ấy không kinh tài, không tham nhũng, hối lộ? Điều đó có mâu thuẫn không?
VP: Không có gì là mâu thuẫn cả. Ghét là một chuyện. Ghét tính nết, không ưa. Nhưng ông cho phép tôi dùng lại chữ của ông đã dùng, tôi phải công bằng với bà ấy. Theo tôi, bà là nạn nhân bị bôi nhọ một cách thô bỉ nhất thời ông Diệm.
NVL: Xin cho vài tỉ dụ cụ thể.
VP: Nó hạ cấp đến chả muốn nói ra đây như ghế khoái lạc, phòng bà Nhu bốn phía lắp gương, ngủ với ông Diệm, giữa thanh thiên bạch nhật ngồi trên lòng ông Diệm, ỏn ẻn bá vai bá cổ.
NVL: Tôi nghĩ rằng, đối với Hà Nội khi họ bôi bẩn bà Nhu, nó không còn chỉ nhằm vào cá nhân bà Nhu và chế độ ấy nữa, nó vượt lên trên những bôi nhọ cá nhân. Nó trở thành chính sách, đường lối của nhà cầm quyền Hà Nội bấy giờ nhằm bôi xấu miền Nam.
Họ dùng những sách báo bôi bẩn chế độ miền Nam để tuyên truyền chống lại miền Nam. Miền Nam đã để sơ hở về điều này. Ở miền Nam thì Cộng sản khuynh đảo, thổi phồng bịa đặt để gây rối loạn. Ở ngoài Bắc thì ngược lại bưng bít, ém nhẹm và xuyên tạc miền Nam.
Điều đó cho thấy Cộng Sản chỉ có thể tồn tại bằng sự che đậy, gian trá và lừa đảo.
Đồng thời, nó cảnh báo chúng ta phải cảnh giác một số những cây viết ngoài nước, một số diễn đàn điện tử đang tuyên truyền cổ võ làm tay sai cho Cộng Sản.
Tôi cũng xin được phép bạch hóa một vài tác giả mà ông vẫn muốn né tránh, không tiện hài tên họ ra. Đã đến cái thời điểm phải đưa tên họ ra rồi. Đó là những tác giả như ông Mặc Thu, Lê Trọng Văn (cán bộ Cộng Sản), Nguyễn Đắc Xuân (cán bộ Cộng sản), Hoàng Trọng Miên. (Học giả thiệt trong việc đạo văn cuốn sách của Nguyễn Đổng Chi ngoài Bắc vào năm 1955-1956)

VP: Trước đây, tôi đã không thể nào mường tượng nổi ảnh hưởng tai hại của những cuốn sách do họ viết. Bởi vì, miền Nam có tự do viết, ngay cả bôi nhọ. Người đọc tự mình phải biết chọn lựa đọc và chọn thế đứng của mình.
Nhưng nay thì tôi đau xót nhìn nhận rằng, ảnh hưởng đó xâm nhập vào tim óc, lục phủ ngũ tạng của một số người một cách vô thức rồi. Chẳng hạn, sau biến cố 1/11/63, đợi đến năm 1964, chính quyền của mấy ông Tướng đã mang trưng bầy tại phòng Thông Tin Đô Thành một chiếc ghế được mênh danh là Ghế Khoái Lạc, biểu tượng sự sạ đọa của chính quyền Ngô Đình Diệm. Mà thực ra đó chỉ là cái ghế của thợ uốn tóc, có thể bấm cho lên xuống, ngả ra, xoay qua xoay lại, mà bà Nhu cho đem vào dinh Độc lập, vì bà không muốn ra ngoài làm tóc. Không biết khi bà Nhu ngồi trên ghế đó thì có cảm giác khoái lạc như có sóng trong bụng em không? Và cũng không biết rằng có ai đó, một phụ nữ, bất kể là ai đã ngồi thử để biết thực hư thế nào? “Ghế khoái lạc” thì có. Bà Nhu đã ngồi, đã “khoái lạc”. Chỉ rất tiếc sau đó đã không ai ngồi thử để minh chứng cho lời cáo buộc bà Nhu là sự thật?
NVL: Nhưng điều chắc chắn là nó thỏa mãn và đem lại sảng khoái cho hàng ngàn, hàng vạn người đọc cuốn sách Đệ Nhất phu nhân của Hoàng Trọng Miên mà trong thư viện Việt Nam chỗ tôi ở cũng bày ra vài cuốn.
Đến lượt ông Nguyễn Đắc Xuân viết một bài đăng trên Giao Điểm, theo ông Nguyễn Đắc Xuân, phái đoàn sinh viên của ông được các sĩ quan hướng dẫn cho biết, muốn vào phòng bà Nhu bắt buộc đi qua phòng ông Diệm. Ở đây ám chỉ sự thông đồng giữa bà Nhu và ông Diệm. Trong phòng bà Nhu thì chung quanh đều có lát gương bốn phía và được giải thích công dụng của chúng để làm gì? Một ám chỉ rất vô giáo dục?

Nguyễn Đắc Xuân, cán bộ cộng sản với cái tâm lụi xụi
Nguồn: toquoc.gov.vn

VP: Tôi nghĩ, một cái dinh của một Tổng Thống không thể lụi xụi, phòng nọ sát phòng kia như cái tâm lụi xụi của Nguyễn Đắc Xuân được. Không biết dinh Gia Long thế nào, cho dù nó bằng nửa dinh Độc Lập đi, tôi xin mạn phép nói về sự bài trí trong dinh Độc Lập để độc giả tiện so sánh.
Theo cụ Quách Tòng Đức, dinh Độc Lập có hai tầng, tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và có văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu, văn phòng Bộ trưởng phủ tổng thống, văn phòng đổng lý, văn phòng Tổng thơ ký phủ tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia ra ba phần: phần giữa là hai phòng khánh tiết lớn, phía trái của hai phòng khánh tiết dành làm văn phòng và phòng ngủ của tổng thống, rồi phòng sĩ quan tùy viên. Phòng tổng thống Diệm trang trí sơ sài với cái giường nhỏ bằng gỗ, một bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, ông Diệm thường dùng cơm và tiếp bộ trưởng, tướng lãnh. Phía phải phòng khánh tiết là nơi cư ngụ của gia đình bà Nhu. Sự bài trí như thế có quy củ, có sự trang trọng đúng cái protocole của một dinh tổng thống. Có lẽ nào nó lùi xùi, lẹo tẹo, phòng bà Nhu dính sát phòng ông Diệm?
Phải khinh mình và khinh người đọc lắm mới dám viết như vậy.
Tôi nghĩ thêm rằng, trong đám sinh viên hơn hai chục người còn lại, rất có thể có những người khác đọc bài này sẽ không ngần ngại lên tiếng. Tôi hy vọng là như thế? Có gì ghê gớm lắm đâu? Nếu quả thực bà Nhu là như thế thì bà chỉ là một thứ đàn bà dâm đãng? Trong thiên hạ, thiếu gì những người đàn bà như thế? Nếu có cũng chỉ là chuyện bình thường. Còn nếu quả thực bà không như thế thì những người còn có chút công tâm cần trả lại danh dự cho bà. Vả lại, một người không cần thông minh cũng có thể thấy rằng nếu là người dâm đãng thì bà Nhu phải tìm những người đàn ông khoẻ mạnh, đẹp trai, có vô số trong hàng sĩ quan hay công chức cao cấp. Cớ gì bà lại chọn ông anh chồng gần như một nhà tu, lùn tì, bụng phệ, buổi sáng chỉ thích ăn điểm tâm cháo trắng với cá kho?
NVL: Việc ông Nguyễn Đắc Xuân viết chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng nó trở thành đại sự khi mới đây, tôi sửng sốt đến sợ hãi qua bài viết ngắn của ông Bùi Tín: Kết thúc cuộc đối thoại vô bổ, đăng trên Talawas, ra ngày 3/1/2007 và lá thư của ông Nguyễn Trung Lương, cũng trên Talawas, đề ngày 10/1/97.
Chỉ trong vài dòng của ông Bùi Tín, tôi khám phá ra được sự tàn bạo, sự đê tiện, sự khốn nạn và bất hạnh cho những ai phải sống trong chế độ Cộng sản. Ông Bùi Tín viết như thế này: “Tôi đã tìm hiểu và suy nghĩ rất kỹ... Không có chuyện ông Diệm tằng tịu với bà Lệ Xuân, ông Diệm không có vợ thật sự cũng không có con riêng, con hoang ...”
VP: Theo tôi, phải chăng kể từ cuối những năm 1950, ông Bùi Tín cũng như nhiều người khác ngoài Bắc đều tin là thật chuyện hủ hóa của bà Nhu với ông Diệm? Và ông Bùi Tín phải mất nhiều năm tháng, nhiều ám ảnh mới truy ra điều vu cáo ông Diệm là chuyện gian dối? Thì ra, trong suốt những năm tháng ấy, ông tin chuyện ông Diệm tằng tịu với bà em dâu là có thật?
NVL: Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu người được như ông Bùi Tín, còn biết tra vấn, cất công tìm hiểu và sau đó có cái may mắn để truy tìm ra được sự thật? Trong khi đó, người trong Nam chỉ coi truyện đó như loại chuyện tiếu lâm tào lao xích đế?
Phải chăng người dân miền Bắc đã bị nhiễm độc, tuyên truyền đến nỗi có thể tin được một câu chuyện như thế?

VP: Tôi có đọc lá thư của ông Nguyễn Trung Lương gửi cho ông Bùi Tín. Ông Lương cho biết, vào cuối những năm 50, khi còn ngồi ghế nhà trường Hà Nội, ông đã nghe và tin chắc thế: Ông Diệm ngủ với bà Nhu. Ông Lương còn cho biết thêm Hoài Thanh đã có lần tiết lộ bà Thụy An, dính líu đến Nhân Văn giai phẩm (NVGP), thường ăn chơi với bọn trong Ủy Ban kiểm soát đình chiến như bọn Gia Nã Đại và bọn NVGP đã dùng Thụy An làm Mỹ nhân kế với những văn nghệ sĩ trẻ dại dột như Phùng Quán, Lê Đạt ... Hiện nay, ông Lê Đạt hay có mặt ở tòa báo Tia Sáng của Văn Thành chắc có thể lên tiếng cải chính?
Câu chuyện về những hệ thống tuyên truyền rỉ tai, đầu độc dư luân, ngụy tạo, chụp mũ, bôi bẩn của chính quyền Cộng Sản còn tinh vi hơn thế nữa: đến cái độ mà người dân mất cảnh giác đến không phân biệt đâu là thật, đâu là giả nữa
NVL: Nay đã đến lúc chúng ta phải tạm ngưng hai buổi trọn mạn đàm với ông. Tôi phải thú thực là trong suốt hai buổi mạn đàm đó, chúng ta có dịp trao đổi nhiều điều bổ ích. Còn quá nhiều chi tiết mặc dầu tôi đã thu vào băng, tôi cũng không tiện ghi hết ra đây. Có một số điều tôi đã ghi chú riêng về cảm tưởng của tôi về buổi mạn đàm này, tôi đã nói ở phần đầu xin khai triển thêm, xin được thưa với ông:
Thái độ lương thiện trí thức của một người cầm bút như ông với cuốn sách này: Cuốn Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm sẽ giúp bạch hóa một số điều đã bị ngộ nhận theo tin đồn hoặc theo những luận điệu bôi bẩn, chụp mũ của một số người. Chẳng hạn hai ông Diệm Nhu không kỳ thị tôn giáo, không đàn áp, giết, hay giam cầm hằng vạn người đối lập. Ông Nhu không hút thuốc phiện. Ông Diệm không ăn cắp nghiên mực của vua Tự Đức theo lời tố cáo của Nguyễn Đắc Xuân. Nhất là ông Diệm không có chính sách đàn áp, giết hại người Phật Tử như biến cố Đài phát thanh. Và theo như lời nhận xét của ông Tuyến: “Mọi chuyện diễn ra như một định mệnh đã được an bài”. Bà Nhu không kinh tài, không có tiền gửi nhà băng trên thế giới. Ông Nhu cho đến lúc chết, không ai có thể nói ông có đồng xu nào? Có ai có thể cho biết ông Nhu có bao nhiêu tiền?
Cuốn sách của ông tóm tắt lại bao gồm rất nhiều chữ KHÔNG. Mỗi trang sách là một chữ không. Mỗi vấn đề được nêu ra là một chữKhông. Tôi chưa từng đọc cuốn sách nào nhiều chữ không như thế. Lòng can đảm và sự trung thực. Đó là hai giá trị tiêu biểu nhất của cuốn sách này. Cuốn sách của ông sau này sẽ là tài liệu tham khảo cho bất cứ ai muốn biết một số sự thật và một số sự không thật về chế Ngô Đình Diệm. Mong là cuốn sách sẽ được nhiều bạn đọc để biết sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm. Đặc biệt nhất là giới trẻ sau này.


Mộ Tướng Trình Minh Thế tại núi Bà Đen (Tây Ninh) trước khi bị csvn phá huỷ
Nguồn: Ảnh gia đình Trình Minh Sơn

Chỉ còn lại một vấn đề tồn nghi: Về cái chết của Tướng Trình Minh Thế. Theo tôi thì có hai vấn đề: Vấn đề thứ nhất là Tướng Trình Minh Thế bị giết hay bị ám sát? Vấn đề thứ hai là ai là kẻ sát nhân hay ra là ra lệnh cho kẻ khác giết? Có hai giả thuyết:
– Vấn đề bị giết hay ám sát: theo tôi, xác chết bao giờ cũng là nhân chứng cuối cùng và đáng tin cậy nhất. Theo bà Kim, phu nhân tướng Thế thì đã có HAI viên đạn bắn rất gần, còn để lại ám khói trên vết thương. Có nghĩa là tướng Thế bị ám sát chứ không phải bị bắn chết. Một giả thuyết thứ hai của ông Nhị Lang và của viên sĩ quan tình báo Savani, trước khi chết Savani thú nhận người của Pháp giết với chỉ MỘT viên đạn. Với một viên đạn thì có thể là bị bắn chết nhưng không phải bị ám sát.
Về vấn đề này, nếu tin vào lời xác nhận của bà Kim thì quả thật tướng Thế đã bị ám sát chết, không thể là bị giết như lời chứng của ông Nhị Lang.
– Vấn đề ai ám sát: Nhưng ai ám sát hay ra lệnh ám sát tướng Thế? Ai giết thì chính bà Kim không chắc, chỉ giả định có thể là bị giết trong dinh độc lập khi họp với ông Ngô Đình Nhu. Riêng Lê Trọng Văn mạo nhận là mật vụ của Ngô Đình Nhu và xác nhận ông Nhu đã giao cho đại tá Văn Thành Cao, tư lệnh phó Cao Đài và đại úy Tạ Thành Long, tùy viên của tướng Thế để giết tướng Thế. Ông Tuyến cho biết nếu là mật vụ thì ông phải biết và phủ nhận không có một ai tên Lê Trọng Văn trong đám bộ hạ của ông. Vậy những điều gì Lê trọng Văn xác nhận không đáng tin cậy, phải gạt bỏ.
– Vì giả thuyết cho rằng chỉ có một viên đạn nên ông Nhị Lang và cả ông Tú Gàn trong bài: Sự kiện mới đều cho người bắn là có thể từ dưới sông bắn lên và gián tiếp gạt bỏ giả thuyết của bà Kim cho rằng chồng bà bị giết trong dinh Độc lập.
Qua trình bày trên, nếu tin vào lời bà Kim hơn những người ngoài gia đình tôi có thể đi đến kết luận là tướng Thế bị ám sát, không phải bị giết, nhưng ai giết thì chưa biết rõ chắc chắn, tất cả chỉ là giả thuyết thôi. Không một ai trong những nhân chứng ở trên có thể quyết chắc ai chính là thủ phạm giết tướng Thế.
Nên nhớ rằng ngay cái chết của hai anh em nhà Kennedy, biết rõ ràng là hai vụ ám sát mà cho đến nay vẫn chưa có cơ hội tìm ra thủ phạm giết hai người họ. Chúng ta căn cứ vào cái gì để có thể hơn những cuộc điều tra riết ráo của Mỹ?
Trong trường hợp VN, thiếu hẳn cơ quan điều tra ngay trong thời kỳ đó, việc xác định không phải là dễ và rất có cơ nguy không bao giờ tìm ra thủ phạm.
Xin nói thêm việc ông Tú gàn (Lữ Giang) viết như sau:
Từ ngày tướng Thế bị tử trận đến ngày qua Mỹ, gia đình tướng Thế không bao giờ nêu ra một nghi vấn nào về cái chết đó. Nhưng kể từ ngày Lê Trọng Văn qua Canada, tìm đến gặp gia đình bà Trình Minh Thế “thầy dùi”, nghi vấn mới bắt đầu được đưa ra.
Về điều quả quyết này, căn cứ vào đâu, ông Tú Gàn có thể xác quyết như thế? Con trai tướng Thế là Trình Minh Sơn đã phủ nhận điều này và cho rằng gia đình ông không hề bao giờ gặp Lê Trọng Văn cả. Ông Tú Gàn trách nhiệm về việc xác quyết này.



Vĩnh Phúc
Nguồn: DCVOnline
DCVOnline: Về Vĩnh Phúc — tác giả tên thật là Kiều Vĩnh Phúc. Trước 1975 là nhà giáo tại miền Nam Việt Nam. Từ 1979 “làm mõ” tại London. Vì dị ứng với không khí nơi làm việc, đến 1996 đã về hưu sớm để trồng hoa, nuôi chim ... và chơi với chó!
Tác phẩm đã xuất bản: Dòng Thames Thì Thầm (Phiếm), Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm (Tài liệu sử),Đối Thoại (Tài liệu văn học), Phiếm 2006.


Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline
Tác giả Nguyễn Văn Lục, trước và sau 1975 đã làm việc ở nhiều lãnh vực khác nhau, rất tâm đắc với việc làm hiện tại và chức danhChuyên gia Thông Ống Cống.
Copyright © 2006–2007 DCVOnline
DCVOnline: (*) DCVOnline đã có sự đồng ý của tác giả cho trích dẫn và dùng hình minh hoạ có nguồn từ Những Huyền thoại và Sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, NXB Tam Vĩnh, London, United Kingdom. Tel.: 626 205 3720 (USA). Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

https://hon-viet.co.uk


 

Lễ Giỗ Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm

bị cộng sản phá hoại như thế nào?

Paulus Lê Sơn (Danlambao) - Đã 5 năm trôi qua, cứ đến ngày lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại được tổ chức một cách thành kính trang trọng ngay trước phần mộ của ông và gia quyến. Năm nay cũng vậy, hàng trăm người dân Sài Gòn và từ nhiều nơi đã đổ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Bình Dương để cùng thắp nén hương lòng biết ơn và cầu nguyện cho cố Tổng Thống.
Trái ngược với lòng thành kính nhân văn đó thì hệ thống an ninh công sản lại sử dụng những mưu hèn kế bẩn, bất nhân bất nghĩa với người sống cũng như người đã nằm yên trong nấm mồ nhằm ngăn chặn lễ giỗ cụ Diệm.

Cộng sản phá hoại lễ giỗ như thế nào?
Chuyện năm nay, ngày 1.1.2017 vừa qua, Thánh lễ giỗ lần thứ 54 cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm được tổ chức một cách sốt sắng và thành công. Tuy nhiên, những hành động hạ đẳng của nhà cầm quyền nhắm vào người dân lại được tái diễn giống như mọi năm trước.
Trên Facebook cá nhân của Linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh loan báo về việc phóng viên của trang Tin Mừng Cho Người Nghèo, Nguyễn Huyền Trang bị tấn công bởi một người trung niên?!.
Cũng theo các Facebooker tham dự lễ giỗ chia sẻ một đoạn video clip mô tả nhà cầm quyền đã giăng lưới B40 bịt kín các lối vào bên trong phần mộ, khiến người dân phải chui qua một lỗ nhỏ mới vào được.
Ở phía ngoài đường thì có một số kẻ cố tình mở loa đài với công suất lớn nhằm gây ồn ào và nhiễu loạn Thánh lễ.
Chuyện năm 2016, năm thứ hai tôi tham dự Thánh lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mắt tôi đã thấy an ninh cộng sản phủ dày đặc nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, tai tôi đã nghe những lời lẽ không tốt từ phía họ, thậm chí có lúc họ gây hấn để quấy phá Thánh lễ.
Những ánh mắt đảo điên và manh động như muốn ăn tươi nuốt sống người khác, những chiếc máy quay từ mọi góc độ có khi xa có khi gần, có khi lấp ló nơi các phần mộ khác chĩa về phía chúng tôi.
Bắt đầu từ con đường lớn dẫn về phía nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, cảnh sát giao thông dày đặc, lượt lờ và hú còi inh ỏi, có những tốp chực chờ bên chiếc xe chuyên dụng để bắt giữ xe máy mà không cần lý do. Dọc bên vỉa hè khoảng chừng hai cây số quanh khu vực nghĩa trang, an ninh thường phục có mặt khắp nơi, họ ngồi, họ đứng từng gốc cây đến các quán nước. Họ la cà đến sát cạnh chúng tôi để nghe ngóng xem chúng tôi nói gì, làm gì.
Có hai tay an ninh trẻ nhìn chằm chằm vào tôi và theo sát từ khi tôi đến cho tới lúc tôi về, thậm chí họ có những hành động khiêu khích, một vài người bạn bảo vệ cho tôi tránh được rủi ro.
Chuyện 2015, năm đầu tiên tham dự lễ giỗ cụ Diệm sau khi tôi ra tù. Trong tâm lý vẫn còn có một sự lạ lẫm, khi bước tới nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, tôi đã thấy rất đông người có mặt sẵn ở đó và họ đều đeo khẩu trang y tế màu xanh, tôi lấy làm ngạc nhiên hỏi một vài người bạn đi cùng, “ đông người đến tham dự Thánh lễ quá, nhưng sao họ lại đeo khẩu trang?” Bạn tôi nói: “ đó là bọn an ninh cộng sản”.
Tôi bán tín bán nghi, đánh liều ra nói một hai người đeo khẩu trang, “các anh đến tham dự Thánh lễ cụ Diệm là quý lắm, sao các anh lại đeo khẩu trang là điều bất kính với người quá cố”. Họ nghe tôi nói vậy, dần lủi về phía sau, tuy nhiên đồng đội của họ từ xa đã chĩa máy quay vào tôi.
Đang trong khi Thánh lễ cầu nguyện diễn ra, thì một đám cháy bùng lên cách chúng tôi chừng khoảng 15 thước. Ngọn lửa đó được phát cháy từ đám an ninh, chúng đã vơ đống cỏ và phế phẩm gần đó, chất thành đống và đốt cháy. Thánh lễ vẫn cứ diễn ra sốt sắng, còn một vài thanh niên trẻ nhanh tay ra dập tắt ngọn lửa thế nhưng vẫn bị chúng ngăn cản, cuối cùng thì đám cháy đã được dập tắt.
Hàng trăm người tham dự Thánh lễ đứng quây quầy bên phần mộ cụ Diệm còn vòng ngoài thì an ninh bủa vây, trong khi đó vẫn có kẻ trà trộn vào chúng tôi để quấy phá. Gần kết thúc Thánh lễ thì tôi bị một tay an ninh trẻ gây hấn ngay bên cạnh mộ cụ Diệm, người này chửi và định tấn công tôi, may mắn có mấy người bạn bảo vệ kịp thời.
Tôi thấy lạ, năm nào người cộng sản sử dụng trò hèn kế bẩn để ngăn chặn, phá hoại Thánh lễ nhưng có ngăn chặn nỗi lòng người mỗi năm đến với cụ Diệm? Ngược lại năm sau lại đông hơn năm trước. Điều đó há chẳng người cộng sản còn mải mê trong tăm tối hận thù mà dẫm lên đinh nhọn của sự sai lầm sao
Tôi lại nghĩ, hòa hợp hòa giải dân tộc mà cộng sản rêu rao chỉ để lừa mị Việt Kiều nhằm ăn cắp đô la mà thôi. Việc nghĩa cần làm của một thể chế cầm quyền là sự tôn trọng đối với người đã khuất.
Việc nhà cầm quyền cộng sản phá hoại, khủng bố Thánh lễ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm khác gì tư duy và hành động mọi rợ của các chế độ phong kiến nguyên thủy, chẳng qua là sử dụng những phương thức tinh vi hơn mà thôi.

02.11.2017

Paulus Lê Sơn
danlambaovn.blogspot.com



An ninh, dư luận viên quấy rối

lễ giỗ TT Ngô Đình Diệm

Nhật Bình/Người Việt


Linh Mục Phạm Trung Thành (thứ hai, phải) làm chủ tế buổi lễ. (Hình: Nhật Bình/Người Việt)

BÌNH DƯƠNG, Việt Nam (NV) – Lễ giỗ lần thứ 54 của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm diễn ra trong tiếng nhạc inh ỏi của nhóm dư luận viên, và nhiều an ninh trà trộn vào người tham dự để quay phim, chụp hình.
Chiều 1 Tháng Mười Một, khoảng hơn 300 người dân đến tham dự lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ – cố vấn Ngô Đình Nhu ở nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương, cách Sài Gòn khoảng 30 km.
Lễ giỗ do Linh Mục Phạm Trung Thành chủ tế, đồng tế còn có Linh Mục Nguyễn Văn Nhứt dòng Đa Minh, Linh Mục Nguyễn Duy Tân ở giáo xứ Thọ Hòa, Đồng Nai, cùng các linh mục khác của dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.

An ninh siết chặt lễ giỗ
Chính quyền đã huy động lực lượng công an, cảnh sát giao thông, an ninh mặc thường phục, xe chuyên dụng đứng dọc con đường 743B ở ấp Bình Đức, xã Bình Hòa, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, ngay trước nghĩa trang Lái Thiêu nhằm ngăn cản các linh mục và giáo dân hiệp dâng Thánh Lễ.

Đông đảo người dân đến tham dự lễ giỗ ngay tại mộ phần cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. (Hình: Nhật Bình/Người Việt)

Với áp lực của an ninh, Ban Quản Lý Nghĩa Trang đã cho đóng, khóa hai cổng gần mộ phần của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khiến người đi tham dự phải chui rào. Tuy nhiên, sau đó lỗ chui cũng bị lấp nhiều cây có gai, người ra về phải đi vòng cổng xa hơn 1 km mới về đến chỗ gửi xe ngoài hàng rào, kế ngay mộ cố tổng thống.
Một nhóm thanh niên tự xưng là dư luận viên đã mang hai loa thùng lớn mở hết công suất đến ngồi ngoài hàng rào thép B40 của nghĩa trang, ăn uống bừa bãi, ngay trước mộ cố tổng thống. Tiếng nhạc to của họ nhằm át lời giảng của các linh mục, lời cầu nguyện của người tham dự.
Đáng nói, phía trên ngôi mộ cố tổng thống cũng bị ai đó đổ một lớp bùn đen khiến cho ngôi mộ nhìn khá dơ bẩn, dù trước đó một tuần đã có nhiều người dân tới viếng, làm cỏ và lau chùi sạch sẽ ngôi mộ.
Nhiều bạn trẻ thức tỉnh
Mở đầu Thánh Lễ, Linh Mục Phạm Trung Thành ca ngợi công lao của cố tổng thống: “Với 54 năm đã đi qua từ khi cụ Ngô nằm xuống; nhất là trong 42 năm qua sau biến cố 1975 chúng ta đã có cả một dòng lịch sử khá dài để có thể so sánh, nhận định và chắc chắn đến giờ phút này lịch sử đã cho chúng ta thấy trong 19 năm lãnh đạo miền Nam Việt Nam, cụ đã dành cho những người dân miền Nam một bầu khí bình an, cuộc sống thịnh vượng và tình người hết sức nhân văn”.



Nhiều người dân phải chui hàng rào để đi vào nghĩa trang vì hai cổng chính gần mộ cố tổng thống bị khóa chặt. (Hình: Nhật Bình/Người Việt)

Lễ giỗ có nhiều thương phế binh mặc đồ lính, đặc biệt có rất nhiều bạn trẻ đến tham dự, họ mang theo hoa, nhang để dâng lên mộ phần cố tổng thống.
Anh Nguyễn Duy Minh, 22 tuổi, quê Nghệ An, cho biết: “Hôm nay lần đầu tiên tôi tới ngôi mộ của cố tổng thống. Trước đây khi còn ngồi trên ghế nhà trường đại học cũng như trung học, khi nhắc đến ông Diệm, thì môn lịch sử họ vẫn lên án ông là một người độc ác và phản quốc. Thế nhưng sau này khi đọc được nhiều nguồn thông tin hơn, tôi thấy ông không phải như vậy.”
“Hôm nay tôi mang hoa và nhang tới viếng ông. Xem như lời tạ lỗi vì trước đây đã nghĩ không đúng về vai trò, tầm vóc của ông. Tôi nghĩ rằng lớp trẻ nên đi tìm hiểu sự thật ngoài những gì mình được học, được đọc, qua những nhân chứng còn sống tới bây giờ như cụ già mà tôi gặp trong buổi lễ ngày hôm nay,” anh nói thêm.
Chia sẻ về lý do tham dự buổi lễ, anh Trần Hòa, 27 tuổi, làm việc ở Sài Gòn, cho biết: “Tôi đọc được thông tin Thánh Lễ này qua Facebook của cha Lê Ngọc Thanh, nên chiều nay tôi xin nghỉ làm việc để đi tham dự. Tôi rất vui khi thấy nhiều người tham dự, nhất là nhiều bạn trẻ như tôi.”
“Suốt một quảng thời gian dài tôi chỉ biết nghe từ một phía – lời Cộng Sản. Thời gian gần đây nhờ Internet, nhất là Facebook tôi mới bừng tỉnh và càng ngày càng kính trọng cụ Diệm nhiều hơn. Tôi khinh bỉ những kẻ lật lọng, đặt điều nói xấu cụ Diệm cũng như thể chế Việt Nam Cộng Hòa,” anh khẳng định.

Nhiều bạn trẻ mang theo nhang, hoa và mặc quần áo lính có in hình cờ vàng ba sọc đỏ đến tham dự buổi lễ. (Hình: Nhật Bình/Người Việt)

Còn anh Việt Khải Hoàng, 45 tuổi, giáo viên một trường cấp 2 ở Sài Gòn, cho biết: “Nhìn mộ phần của cố tổng thống và ông cố vấn mà không khỏi đau lòng. Đến cái tên cũng không được viết lên bia mộ. Nếu chính quyền Cộng Sản muốn nói chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc, thì tôi nghĩ điều đầu tiên là phải trả đúng tên ông trên tấm bia mộ này, chứ không phải chỉ một chữ ‘Huynh’ và ‘Đệ’ như vậy.”
“Khi nhà cầm quyền không dám đối diện và trung thực với sự thật lịch sử thì sẽ làm cho đất nước Việt Nam ngày càng trở nên gian dối và băng hoại nhân cách con người, vì nhân cách con người không thể xây dựng khi không có nền móng,” anh nói.
Kết thúc buổi lễ, phía an ninh còn gây hấn và hành hung chị Nguyễn Huyền Trang thuộc trang truyền thông “Tin Mừng Cho Người Nghèo” và cho người chặn đường một phóng viên tự do nhằm lấy dữ liệu hình ảnh video, nhưng nhờ sự trợ giúp của người dân bên đường nên anh đã kịp thời thoát thân.
Liên tục trong những năm gần đây, các Thánh Lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã được các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và người dân tổ chức ngay tại mộ của ông ở nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương, khiến chính quyền khó chịu.
Trên một số diễn đàn và trang mạng xã hội được sự bảo trợ của chính quyền Cộng Sản, dư luận viên và thành phần cực đoan đã kêu gọi phá đám ngày tổ chức lễ giỗ này. (Nhật Bình)
https://www.nguoi-viet.com


Thánh lễ cầu nguyện

cố Tổng thống Ngô Đình Diệm


Ảnh Tin Mừng Cho Người Nghèo

CTV Danlambao - Vào lúc 16 giờ ngày 1/11/2017, tại nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương đã diễn ra buổi Thánh lễ Cầu nguyện cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và các Bào đệ của Ngài cùng tất cả những tử sĩ đã hy sinh trong cuộc nội chiến của Việt Nam trước năm 1975 (không phân biệt Nam – Bắc).
Thánh lễ được tổ chức đồng tế, gồm các vị Linh mục đến từ nhiều Dòng, Giáo xứ khác nhau:
1/ Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành (Chủ tế), nguyên Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
2/ Linh mục Phaolo Lê Xuân Lộc thuộc DCCT – Sài Gòn.
3/ Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh thuộc DCCT – Sài Gòn.
4/ Linh mục Giuse Trương Hoàng Vũ thuộc DCCT – Sài Gòn.
5/ Linh mục Phanxico Xavie Nguyễn Văn Nhứt thuộc Dòng Đa Minh.
6/ Linh mục Giuse Maria Nguyễn Duy Tân thuộc Giáo Xứ Thọ Hoà – Đồng Nai.

Việc tổ chức Thánh lễ cầu nguyện và viếng mộ cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu nhân lễ giỗ do một số Linh mục DCCT Sài Gòn khởi xướng và được thực hiện vài năm trở lại đây. Riêng năm nay, khi bắt đầu có thông báo về việc sẽ tổ chức Thánh lễ cầu nguyện tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Dương), nơi an nghỉ của hai anh em cụ Diệm, trên mạng xã hội đã truyền đi lời đe dọa của đám Dư luận viên cộng sản. Bọn chúng tuyên bố sẽ phá buổi Thánh lễ cầu nguyện và đánh người với lời lẽ vô cùng khát máu và xấc láo. Tuy nhiên, bất chấp lời đe dọa từ nhà cầm quyền (dưới danh nghĩa DLV), hàng trăm người vẫn đổ về nghĩa trang Lái Thiêu để tham dự Thánh lễ, bày tỏ lòng thành kính, tiếc thương và tri ân với vị Tổng Thống đã làm nên một thời kỳ hưng thịnh chưa từng có trong hơn 8 năm ông cầm quyền tại Miền Nam Việt Nam. Đây là năm mà số người dân đến tham dự đông nhất từ trước đến nay. Người ta quan sát thấy nhiều bạn còn rất trẻ và cả những người già đã ngoài 70, 80 tuổi. Một điều hiếm gặp trong các Thánh lễ những năm trước.
Đúng như đã tuyên bố, cả trăm tên Dư luận viên đã tụ tập quanh khu vực nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng mang theo loa thùng công suất lớn, phát những bản nhạc lố lăng nhằm làm át tiếng đọc kinh cầu nguyện trong Thánh lễ. Các lối vào nghĩa trang cũng bị đóng kín. Mọi người phải đi đường vòng và chui qua hàng rào mới vào được khu mộ cụ Diệm.
Trước giờ Thánh lễ Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh giới thiệu khái quát về nội dung cũng như ý nghĩa của buổi cầu nguyện: “Chúng ta sẽ cầu nguyện cho tất cả những người lính đã chết trong cuộc chiến ở Việt Nam, cho dù họ ở miền Bắc hay ở miền Nam. Đặc biệt ngay trên vùng mộ của cụ Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm, chúng ta cầu nguyện cho cố Tổng thống và các Bào Đệ của cụ cùng các tử sĩ…xin Chúa mở lòng xót thương đưa tất cả về bên nước Thiên Đàng.”

Trong tâm tình tiếc thương, Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành đã nhắn gửi đến những người tham dự Thánh lễ 2 điều:
Thứ nhất: Năm mươi bốn năm đã trôi qua (kể từ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm tử nạn), chưa có chế độ nào, chính phủ nào đã làm được như cố Tổng thống Ngô Đình Diệm trong suốt gần 9 năm lãnh đạo trong miền Nam Việt Nam; Người miền Nam được hưởng bầu không khí bình an, đời sống thịnh vượng và nhân văn.
Thứ hai: Cụ Cố Tổng thống chấp nhận ra đi trong máu đổ để dân tộc Việt Nam không phải bị đổ máu, để anh em chúng ta không phải tàn sát lẫn nhau…

Kết thúc buổi Thánh lễ, khi vừa bước lên xe để ra về, cô Nguyễn Huyền Trang, cộng tác viên trang Tin Mừng Cho Người Nghèo đã bị một đám khoảng 20 tên cả nam lẫn nữ xông vào hành hung. Khi Huyền Trang đã vào được xe ô tô, chúng còn xông lên tận nơi và tiếp tục đánh cô vào đầu, vào mặt.
Vài năm trở lại đây, ngoài việc bắt bớ hay đàn áp giới tranh đấu, nhà cầm quyền cộng sản tăng cường việc sử dụng bọn Dư luận viên để gây rối, đánh đập, hành hung những người đấu tranh ôn hòa. Bằng cách này, chúng gây tổn hại cả sức khỏe lẫn tinh thần cho những người dân lương thiện, những người tranh đấu và đặc biệt, không phải chịu trách nhiệm về bất cứ cuộc đàn áp nào. Số lần DLV tấn công người tranh đấu đặc biệt gia tăng sau sự kiện thảm họa môi trường do Formosa gây ra. Có thể kể đến những vụ việc gần đây như việc quấy rối chương trình Tri ân Thương Phế Binh VNCH tại nhà thờ DCCT Sài Gòn; tấn công vào nhà Giáo dân tạo Giáo xứ Song Vinh, đập phá nhà cửa; đem vũ khí xâm nhập Giáo xứ Thọ Hoà, uy hiếp cha quản xứ Nguyễn Duy Tân… Và mới nhất là vụ ra mắt cái gọi là “Liên minh cờ đỏ” với khoảng 700 tên mặc áo cờ máu tụ tập tại khi Giáo họ Văn Thai rồi nhảy múa, hô hào chém giết các Linh mục và giáo dân.
Việc sử dụng Dư luận viên, biến những kẻ này từ “người” thành “công cụ” là một tội ác không thể dung thứ của nhà cầm quyền cộng sản.




Ảnh: Tin Mừng Cho Người Nghèo
1/11/2017

CTV Danlambao

danlambaovn.blogspot.com



Thánh lễ giỗ cố TT Ngô Đình Diệm ở nghĩa trang Lái Thiêu bị nhà cầm quyền mở loa gây rối

 

Đăng ngày 03 tháng 11.2017