banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Luận về tháng tư đen :

Chánh sách khủng bố vũ khí của kẻ hèn

Nazi Hitler - Cộng Sản – Daesh Nhà Nước Hồi Giáo và Chánh sách khủng bố

Phan Văn Song

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, cường quyền và khủng bố:

Tháng Tư Đen 2016, tháng Tư Đen thứ 42, 41 năm toàn cỏi Việt Nam bị Đảng Cộng Sản độc diễn cầm quyền ! 41 năm Đen tối của người dân Việt Nam bị một chế độ Cộng Sản dùng cường quyền độc tài toàn trị cai trị bằng khủng bố !
Đầu năm 1976, một người «xếp lớn » của nhóm Quân Quản K9, đang «quản lý» Công ty BGI của chúng tôi, thuộc «phe thắng trận», vào Nam theo gót chơn quân cướp nước Bắc Cộng. Nói đúng theo định nghĩa của người đó, «trở về Nam» ! Vì y vốn gốc người Nam, nhưng đã phản quốc, ra Bắc «tập kết», được huấn luyện, tu nghiệp, đào tạo để thành một Bắc Cộng chuyên chánh vô sản thứ thiệt, đã «lên lớp», chúng tôi một cách kiêu hãnh :
«Chúng tôi (toàn xứ Bắc) từ năm 1954, để xây dựng nước, tạo đoàn kết chống bọn Phản Cách Mạng, giải phóng đất nước miền Nam, chúng tôi đã sống với chế độ ăn đồng chia đủ do Đảng chỉ đạo. Chúng tôi, các đảng viên có bổn phận phải giáo dục người dân, để hiểu rõ, biết rõ thế nào là Xã hội Chủ Nghĩa. Ngày nay người dân, nhứt là người dân miền Nam, vừa được giải phóng, đã bao nhiêu năm sống kềm kẹp dưới chế độ Mỹ Ngụy tha hóa, đỉ điếm, phung phí, thiếu đạo đức. Chúng tôi bao nhiêu năm qua, đã sống trong thời đấu tranh, trong thời chiến tranh, sống với chiến tranh, chúng tôi vẫn sống với chế độ ăn đồng chia đều ấy, tằn tiện thiếu thốn bao nhiêu năm qua, chúng tôi có than vãn gì đâu? Các anh các chị, chỉ mới có vài tháng thôi, đã la làng than van! Tại sao các anh các chị không thấy rằng nước mình còn nghèo, phải tập sống tằn tiện, cho quen! Các anh chị bị Mỹ mua chuộc kềm kẹp, biến các anh các chị thành những người nô lệ của của cải phế thải, của những rác rến, dư thừa, vứt bỏ của một xã hội tiêu thụ. Sài gòn, miền Nam là cả một đống rác, đống cức, đống phân, toàn của vứt của bỏ của Mỹ. Các anh chị ăn xài, kiểu tư bản, phung phí, phồn vinh giả tạo, tạo sự bất công, bất đồng, tạo giai cấp giàu nghèo, tạo đấu tranh chủ tớ, chủ nhơn bóc lột thợ thuyền. Một xã hôi do bọn tư sản mại bản giựt giây, thao túng, ở giữa ăn chia lợi nhuận, bóc lột người nghèo, làm lợi người giàu! Còn chế độ cách mạng chúng tôi đây, là ăn đồng chia đều! Chúng ta từ nay, sẽ không có giàu nghèo, không còn chủ tớ. Nhơn dân từ nay làm chủ, các cán bộ như chúng ta thi hành phục vụ. Chánh sách do Đảng chỉ đạo, do Nhà Nước quản lý, nhơn dân cán bộ chấp hành nghiêm chỉnh»
Tôi và toàn nhơn viên có mặt trong buổi họp ấy, nghe xong làm thinh, miễn bàn. Thời ấy là thời của tất cả dân miền Nam « làm thinh miễn bàn»!

Khủng bố tinh thần : tuyên truyền loa kẻng
Thời ấy, cả nước làm thinh, vì vừa im tiếng súng, chỉ còn tiếng loa la ó đầu đường cuối xóm, dẫn dắt đời sống xã hội « cộng sản» của người dân. Sớm thức dân dậy, tối đuổi dân đi ngủ. Cũng như ngày nay ở các xứ Hồi Giáo tiếng loa của ông muezzin thức dân dậy cầu nguyện sáng, và một ngày, 5 lần, lên tiếng nhắc nhở, dẫn dắt đời sống tâm linh dân đạo Hồi ở các xứ Hồi!
«Phe ta - người quốc gia», hết đạn, thua trận, nén niềm uất hận, «hết nổ, nín khe, sống im re». Chỉ còn «phe thắng trận» súng đạn dồi dào, độc diễn, ồn ào, hỗn loạn. Tiếng loa, tiếng kẻng, sáng trưa chiều tối, đầu xóm, cuối ngõ, tránh đâu cũng không khỏi, chạy trời không không thoát tiếng loa! Chỉ còn nước …Vượt Biên! Lâu lâu, cũng có cảnh sẳn súng bóp cò, hù dọa ; thỉnh thoảng cũng có cảnh ngứa tay, bắn bừa, bắn bãi, giết người để răn đe, khủng bố dân lành miền Nam, dại dột can trường, vì truyền thồng cứng đầu, nên ưa cương ẩu! Nổ súng để xử tử trả thù. Nổ súng, để hù dọa công an, cũng chả sao, riết cũng quen thôi, vì đó là luật kẻ thắng trân rừng rú vô học! Nhưng, nhờ bị cưởng chiếm, dân miền Nam ta được biết thêm một cái tật lớn của dân xứ Bắc, tưởng lầm đó là văn hóa, vì dân Bắc thường tự khoe hể là dân Bắc… LÀ Có Văn Hóa, hể là Hà Nội… LÀ PHẢI Ngàn (nghìn) Năm Văn Vật! Và đây là lần đầu tiên, dân Nam ta thấy được rõ ràng dân Bắc có «Văn Hóa» thật! Nhưng là «Văn Hóa Cộng Sản!». «Văn Hóa Nói Láo!» Nói láo từ trong bụng mẹ, nói láo khi còn bập bẹ, «Tiếng đầu lòng con gọi Staline» … Nói láo với tuyên truyền. Nói láo với khẩu hiệu. Cả một chế độ nói láo, cả một chế độ « văn hóa ca tụng», nói láo rất văn hoa, chữ nghĩa, khẩu hiệu, khoe khoan, dao to búa lớn, nói tóm lại : «Nổ». Nổ khá to. Nổ dữ dội, cở pháo đại, pháo tống…cở Anh hùng Lê Văn Tám tẩm xăng đốt kho đạn! Văn Hóa Bắc Kỳ? Chỉ là một «Văn Hóa Nổ»!
Tuyên truyền, ca tụng và khẩu hiệu, cả Nổ nữa đều thuộc chánh sách khủng bố!
-Vì gieo vào đầu quần chúng một tư tưởng độc nhứt, một chiều, với một lý luận đóng khung, với một lý thuyết độc tài, cấm phản biện, cấm tranh cải, cấm đối lập.
-Gieo vào đầu người nghe, người dân bị trị, những hoang mang, nhưng cấm hẳn những câu hỏi.
-Dùng thần thánh hóa, thần tượng hóa để lấn áp đè bẹp nhơn phẩm cá nhơn, đè bẹp tâm lý người nghe, buộc người nghe phải ở trạng thái người bị trị, bị áp đặt, đàn áp, phải ở trong trạng thái của người dân bình thường. Và người dân bình thường sẽ biến thành «ngu dân» - quidam, vulgus pecum hay servum pecus-bầy dân (chiên) ngoan. (Horace -65 TTC /-5 TTC).
Chỉ có người đảng viên mới có quyền ăn nói, chỉ có đảng viên mới có giá trị của Con người. Chánh sách ngu dân, khủng bố tinh thần, tạo bất ổn, tạo khủng hoảng, chi phối tâm lý người dân. Buộc người dân phải như cái mẫu người như Đảng muốn, phải ngay từ lọt lòng mẹ : …«Yêu biết mấy, nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Staline!»… Tố Hữu, Ơn Người (1954). Đấy là cả một chánh sách cai trị, quản trị, «quản lý tâm lý» người dân. Chế độ «văn hóa nói láo». Từ anh cán bộ tuyên truyền «nói láo khủng bố tâm lý», đến người dân vì quá sợ, vì khủng hoảng tinh thần «chấp hành, tuân thủ những lời nói láo».

Khẩu hiệu, ca tụng, nổ :
Cán bộ, bộ đội Bắc Cộng đều rất giỏi nghề « nổ»! Nổ giòn tan! Nổ không biết ngượng! Nổ ngu si! Nổ khinh người! Nổ hơn cả tiếng súng Tết Mậu Thân, át cả tiếng pháo An Lộc nữa - Nào TV chạy ngập đường ngoài Bắc! Nào phi cơ, núp trong mây đánh du kích B52 Mỹ! Nào Hảng Bia Hà Nội to gấp 4 lần nhà Máy Ladze Chợ Lớn! Nào đỉnh cao trí tuệ loài người!…nào…nào… - Tên bộ đội nhà quê Nghệ An, khu Tư, dốt nát, làm tàng, làm phách « nổ» đã đành. Bí Thư Đảng, Lê Duẫn, «làm le» tuy mới học hết bằng Tiểu học, nhưng nay, (lở) làm số một Đảng, cũng nổ, cũng láo, âu chuyện thường tình. …Nhưng thằng có học? Tên kỹ sư nấu bia học Đức về, cũng nổ tuốt! Mà nó vốn là dân trong nghề Bia! Mà nó dám « nổ» với đám tụi tui, cũng là dân nghề Bia! …Kỹ sư quái gì! Màkhi xài máy lạnh xe hơi, lại mở cửa sổ, vì « sợ» đóng kiến xe, « sợ ngôp thở»? Báo hại cái thermostat-điều hòa tốc lực của máy lạnh, chạy liên tục nên cháy fusible-cầu chì, máy lạnh bị cắt điện, nên « ăn banh»! Cứ hai ngày, tôi bị « mắng vốn» rằng tôi vì ghét người Cách Mạng, nên chơi xỏ lá, « đì» dân Cách Mạng, giao toàn các xe loại xoàng cho cán bộ xài! Cuối cùng họ bèn sung công « công xa riêng Ông Giám Đốc» của tôi, cho thằng kỹ sư xài! Rút cục cũng hư và tiếp tục hư! Nhưng vì lúc ấy, tất cả công nhơn chúng tôi đều ở chế độ « làm thinh - miễn bàn» thành họ có sai, họ có dỡ, cũng «kệ cha họ», không nói. Hư đưa, tụi tao sửa, tụi tao cười! Tụi bây lúc nào cũng ngon! Ngu khôn gì, tụi tao cũng ừ cho tụi bây ngon! Triết lý Ba con khỉ, Không nghe, không thấy, không nói!
Còn tương lai nước Việt Nam, tương lai dân Việt Quo Vadis ? Đi về đâu? Mackenô! Còn tương lai cá nhơn ta? Gia đình ta? Vượt biên! Người người vượt biên, nhà nhà vượt biên! «Tượng Thánh Trần Hưng Đạo» ở Sông Sài gòn, hiển Thánh, chỉ tay ra biển, biểu « Dzọt đi!» Nhưng « Tượng Bác Hồ», cũng ở bờ Sông Sài gòn, lại xòe năm ngón, ra giá : «Năm cây thôi!».

Dân Sài Gòn lúc thất thời khi lỡ vận, thất trận, khốn cùng
Xin phép quý thân hữu, được đôi lời tâm sự. Kể chuyện của người mình, thời ấy :
Năm 1976, tôi còn phục vụ ở Hảng Bia Nước Đá Nước Ngọt BGI. Gia đình cá nhơn chúng tôi, cũng như toàn thể các gia đình các công nhơn của các Hảng Pháp ở Miền Nam Việt Nam lúc ấy vẫn còn giữ tư cách pháp lý của những công ty ngoại kiều, với sở hữu chủ ngoại nhơn Pháp - ấy là một điềm lạ, có lẽ vì bọn quân cướp nước, hoặc chưa đủ kỹ thuật để làm chủ một khí cụ kỹ nghệ, thương mại, kinh tế quốc tế? Hoặc vì một vấn đề ngoại giao bí mật nào đó? Hay còn chờ thời, mượn gió bẻ măng, nương nhờ anh « bạn Pháp - kẻ đã giúp đở nhiều trong việc điều đình trả giá buôn bán giữa những tên cướp nước và những tay buôn chánh trị ở Âu ở Mỹ như cho mượn phòng ốc ở Paris, La Celle Saint Cloud, cho mượn phương tiện đi lại di chuyển…? - để tiếp tục lường gạt dư luận thế giới?- Do đó, các gia đình các nhơn viên các Hảng Pháp như Hảng BGI của chúng tôi, có một đời sống tương đối không đến nỗi tệ, lương bổng vẫn còn giữ đầy đủ - trong lúc cả miền Nam Việt Nam bị tịch thu tài sản, lương bổng cắt bỏ, đời sống xuống cấp, tương lai mù mịt - Riêng các nhơn viên các Hảng của Pháp vẫn hưởng tất cả những tiện nghi đầy đủ, tình trạng vẫn y nguyên…Cá nhơn chúng tôi với chức vụ Giám đốc vẫn giữ biệt thự, công xa, tài xế…Thật là nguy hiểm cho anh em công nhơn BGI chúng tôi! Vì chúng tôi là những « cái đinh gây Sốc», gây sự chăm chú, chuốc thù hận, gây chia rẻ, ganh tỵ, ghen ghét, của vừa cả phe địch (không hiểu tại sao chúng tôi sống trong cái ốc đảo « ngon lành» vậy? Sướng hơn cả tụi thắng trận! ). Và cả với « phe nhà» cho rằng chúng tôi là dân 30 tháng Tư Việt Cộng Nằm Vùng, lộ diện…!
May quá với chức vụ Giám Đốc thương mãi, tôi có quyền ký những « Bon de sortie - Bông, Phiếu (hàng được phân phối) xuất kho». Với một cái Bông nho nhỏ, người được hưởng có quyền mua được 5 thùng Ladze, 5 thùng 33, 5 thùng nước ngọt, là kiếm cơm kiếm gạo, độ nhựt, nuôi cả gia đình. Tôi có tội ký Bons bửa bãi, nhưng đấy là cách duy nhứt để giúp đở các gia đình các bạn bè quân dân cán chánh thất trận tù đày. Khi tôi ở tù, chấp pháp CS cũng hỏi tôi. Nhưng tôi trả lời rằng ấy là quyền hạn tôi, cách làm việc (truyền thống) của các Giám Đốc BGI từ thời Tây đến giờ, tôi không ăn cắp, tất cả những « Bons - Phiếu xuất kho» ấy là phiếu phân phối hàng cho tiểu thương. Người có Bons « được quyền mua» và trả tiền lấy hàng ở kho ra. Tôi không cho không, không tham nhũng, ăn cắp tiền của ai cả! Dĩ nhiên phương pháp thương mãi của BGI là đổi chai. Các vỏ chai không thuộc sở hữu của BGI mà là của thân chủ. Chúng tôi đặt tên cho VC biết phương pháp BGI là «phương pháp Bán Nước». Ai hiểu sao thì hiểu! Chúng tôi BGI, một Hảng ngoại nhơn chỉ « buôn nước, bán nước». Người Mua phải có Chai không, trong Nam gọi là « Vỏ chai», mới mua được « Nước Bia, Nước Ngọt …». Dĩ nhiên khi tôi ký Bon cho một người tôi muốn giúp đở, tôi chỉ họ địa chỉ của một anh lái buôn người Hoa, khách hàng mua sỉ của tôi (BGI). Anh ấy sẽ mua lại cái Bông Phiếu ấy. Mua nhiều Bông Anh sẽ có đầy hàng kho của anh. Dĩ nhiên để khỏi bị dòm ngó ; tôi hạ phần mua sỉ của anh xuống. Thí dụ trước kia, anh có phần mua 200 thùng một ngày, nay anh chỉ còn phân nửa. Tôi tránh cho anh bị cái tên « tư sản mại bản», mua nhiều, « độc quyền». (Sau cùng, các anh ấy cũng vẫn bị hốt tronh chiến dịch đánh « tư sản mại bản», vì đa số là người Việt gốc Hoa? Vì đa số có cửa hàng lớn? Vì ngoài đê pô Ladze, các anh ấy là những triểm tạp hóa bán sĩ, cho mua chịu, phần đông bán sỉ gạo, và một lô nhu yếu phẩm khác…) Trái lại, nhờ thu mua Bông lẻ anh sẽ có một lô hàng như xưa, nhưng do anh mua lại của các bạn hàng tôi gởi, và lượng mua sỉ ít hơn! Tôi thương thuyết các anh ấy, chỉ được mua rẻ hơn một đồng (1$VNCH) đối với giá sỉ BGI thôi. Mỗi thùng 1 đồng, mỗi Bông thường tôi ký cho là 15 thùng. Với mỗi Bon, anh lời 15 đồng, đủ ăn rồi! Anh có lời. Bạn bè tôi giúp, có tiền, có lợi. BGI và cá nhơn tôi không mất mát gì cả. Con số thương ngiệp BGI vẫn bình thường. Các quốc doanh Nhà nước VC, quân quản CS, muốn mua hàng của BGI phải có vỏ chai. Vì BGI chỉ bán nước. Họ có nhiều cách. Tịch thâu vỏ của bạn hàng « tư sản mại bản»? Dĩ nhiên, không gì cấm họ làm cả. Họ làm chưa kịp thôi. Riêng cá nhơn chúng tôi, ban thương mại BGI, và cũng như toàn cỏi dân miền Nam Việt Nam, ngã nào cũng chết, thà cứ tiếp tục chơi hết láng, wánh tapis! Thế thôi! Ngon lành ngày nào hay ngày ấy! Tôi liều lĩnh. Nghĩ rằng còn một chút gì chơi tới luôn bác tài, xả láng! Sau nầy, ở Tù, gần Bốn năm (đúng hơn 1428 ngày – 3 năm 11 tháng 1 ngày!). Tôi không hối tiếc! Hãnh diện đã góp phần vào nhiệm vụ làm người Con của đất nước Đại Việt! Khi vào tù tôi vẫn khai tôi là người Tin Lành Giáo, và thành viên Hội Sư Tử Lions International Club. Dĩ nhiên tôi bị coi là gốc Ngụy, Vợ Pháp, Đạo Mỹ và ở Hội Sư Tử như CIA vậy! Như vì bọn chấm pháp căm chú vào cái gốc trường Tây, Hảng Tây, Vợ Đàm, đạo Mỹ quên hẳn tôi con ông già tôi là Đại Việt, quên tôi cũng như mọi người công dân Việt Nam ở Miền Nam là phải hợp lệ tình trạng quân dịch, tôi là lính 9 tuần biệt phái. Thuở ấy nghe chữ biệt phái là mút mùa lệ thủy! Nhưng tụi nó không biết, nói tóm lại tụi nó ngu lắm chả biết mẹ gì cả, tại phe ta thiệt thà quá sợ thành thật khai báo thôi! Tóm lại,
Sài Gòn Tân Sơn Nhứt, ngày 9 tháng 7 1976, 11 giờ 30 bị bắt tại phi trường sau khi check-in, chuyến bay Paris, Orly - đến ngày 6 tháng 6 1980 10 giờ 30 check-out, chuyến bay Sài gòn-Paris: tổng cộng là những ngày tù, dài 1428 ngày ! 1428 ngày tù ở trại T20, cùng với đất nước, cùng với đồng bào, thật sự làm bổn phận người con đất Nam Việt mình!
.............................................

Xin quý thân hữu tha lỗi cho người viết, tâm sự cá nhơn ngoài lề đầu đề bài. Chúng tôi, tuy cha mẹ gốc Huế, nhưng sanh, lớn sống trong Nam, uống nước Nam, ăn gạo cá mắm miền Nam, nên nghĩ sao nói vậy, không văn hoa khách sáo gì cả!
Có làm phật lòng ai đó, Phan Văn Song nầy, xin cúi đầu tạ lỗi vậy!
Cá nhơn chúng tôi, cố gắng đứng thẳng, để không phụ lòng cha mẹ, thân bằng quyến thuộc. Thời chiến tranh, may mắn, vì bất tài, vì nhà nghèo chỉ ngu dốt, nên chỉ biết học, đọc sách, nghe lời Thầy thôi, nên được Tây cho học bổng, được du học, tốt nghiệp, được làm việc ở Pháp, «trốn lính ngon lành với vợ đẹp con ngoan»! Nhưng cuối cùng, «khó ở với tâm trạng trốn lính, đào ngũ», nên nhứt định bỏ việc, dắt cô vợ đầm, thằng con lai về. Để cuối cùng, cùng thua với đất nước, cùng thua với đồng bào, cùng với đồng bào, cùng với đất nước đi tù Cộng Sản, hãnh diện làm nhiệm vụ người con của đất nước Việt!
Đầu năm 1972, đang còn hoãn dịch, lúc Việt Cộng tấn công toàn miền Nam ta trong Chiến dịch chúng gọi là Mùa Khô, được bạn Phan Nhật Nam chuyển thành Mùa Hè Đỏ Lửa, tình nguyện nhập ngũ. Vào Trung tâm 3, theo chế độ 9 tuần, tình nguyện phục vụ đơn vị dù. Cũng được học nhảy chuồng cu, cũng được học nhảy 6 xô dù 5 ngày-1đêm với Đại Tá Vinh, được hãnh diện đội mũ đỏ khi dạo phố cùng em… được hãnh diện, được khi ra đường, nhìn mặt bạn bè, bà con lối xóm, khi về nhà khi nhìn mặt cha mẹ, các em, và ngày nay, tạm cư nơi đất người nhìn bạn bè đồng chí ngay mặt, thẳng mắt, không cúi đầu hỗ thẹn, không mắc cở, và cảm thấy mình không tệ lắm! Cũng may mắn! Chúa thương là được Cha mẹ ủng hộ, được con Vợ đầm thông cảm, hiếu thảo thay mình ở nhà hầu hạ mẹ cha, lo lắng bảo bọc haie m nhỏ dại! Trời thương, Chúa thương, trả mạng sống trở về sau trận Xa mát An lộc. Giải ngũ, sống Sài gòn miền Nam đất Việt, gặp vận may, có việc ngon lành, lương cao, lộc tốt, hưởng đầy đủ thăng trầm bổng lộc hỉ nộ ái ố. Khi lên voi, cùng hưởng với thiên hạ Lúc xuống chó cùng cực với đất nước, đồng bào, cũng tù, cũng ngục, cũng nhục, cũng nhằn, cũng uất, cũng hận, chia sẻ cùng bà con, cùng với đất nước, với anh em bạn bè thân hữu gần xa. Ngày nay, về hưu xứ người, sống khá thọ, tuổi đời trên 70, thật là hưởng nhiều ơn phước, đầy nhiều bonus! Đầy đủ ngon lành! Chỉ mong một ngày nào, được trở về được lại Sài gòn ngồi Chợ Bến Thành ăn tô hủ tiếu, uống chén chè Huế, làm sao được nghe lại giọng nói người mình, trên đất nước mình Tự Do Độc Lập, hoàn toàn Việt Nam, không phải ngó trước dòm sau giữ kẻ, ngó chừng! Mong lắm!
Tánh tình cá nhơn chúng tôi rất chướng, bướng bỉnh, vì «Nam kỳ mới», nên khùng hơn cả Nam kỳ thiệt! Tôi làm việc với ông chủ nào, ông chủ ấy phải hơn mình, phải đáng mình nể, cho mình phục! Không thì thà lao động tay chơn, nuôi thân! Mở tạp hóa, bán cà phê, vào bếp nấu ăn, rửa chén hay ra tiệm chạy bàn chào khách! Lái tắc xi, lái xe đò, lái xe bốc dở, đi Phi Châu, đi xứ Ả Rập, tôi không từ, không ngán việc gì cả! May quá, tử vi số «thân cư thê», nên tất cả trước sau trời cho được hai đời vợ, bốn thằng cu, bà nào đẻ con, cũng tự lo nuôi bầy con, tui khỏi lo cho tụi nó! Bà vợ đầm hiện nay để mình hoàn toàn tư do đi lại, lo việc chung với an hem, bạn bè chiến hữuViệt Nam. Tôi nghỉ việc sớm, về hưu non (62 tuổi) lãnh lương bà để làm tất cả những gì là Việt Nam đòi hỏi. Chánh trị, chánh em, ngà voi, ngà tê giác, sừng trâu, sừng bò, đi Mỹ đi Úc đi khắp Âu châu. …Bả chỉ biết lo cho ba thằng con, nhà cửa, công việc nhà trường nơi bà làm việc thôi! Ngày nay, tụi nó thành tài đổ đạt, cũng do một tay bả cáng đáng cả! Cám ơn Chúa đã ban cho con hai người bạn đời ngon lành ấy!
Nhưng không gì buồn bằng là, tuy làm hết sức mình, nghĩ rằng phục vụ cho việc công (đúng với tinh thần République, do từ ngữ la tinh Res publica = Pour la Chose Publique – phe ta dịch lầm đối chiếu với từ ngữ Tàu là Cộng Hòa, một chế độ của lịch sử Tàu đã làm gián đoạn chế độ Quân Chủ. Có lẽ vì vậy, từ ngữ Cộng Hoà được dân Á Đông (gốc Tàu) nghĩ rằng là một chế độ KHÔNG Quân chủ?) mà bị hàm oan, bi chưởi, là bất công cho tôi! Nói một lần để khỏi nói nữa. Xin cám ơn các thân hữu đã đọc bài và thông cảm tha thứ cho tôi!
Trở lại thời mình, xứ mình, phe mình, năm 1976! Khi ấy, nhìn chung quanh, dân chúng cả Thủ đô Sài gòn mình, «phe ta» hoàn toàn rách nát, tan tành, giàu nghèo huề nhau, một lũ ngơ ngát, « hết xí quách», quân nhơn, quan lớn thì rã ngũ, đi tù, tư chức thì mất sở mất chức, công chức, giáo chức bị sung công, trưng dụng. Nhà cử, tài sản bị tịch thu. Cả nước cả sài gòn, người dân «hồ hởi, phấn khởi» giả đò bước vào một đời sống mới, «giả tạo, giả đò, làm bộ». Từ nay, (và nay là 41 năm sau cũng vậy!), tất cả đều đang trong trạng thái sống tạm sống bợ, sanh hoạt hoàn toàn hỗn loạn!
Những ngày mới chiếm Sài gòn, Việt Cộng buộc dân Sài Gòn giả đò làm « vệ sanh, sạch sẻ»! (sic) - làm như thành phố Hà nội ở ngoải sạch hơn Sài gòn ta vậy? « Làm bộ, giả đò», hô hào cùng nhau quét đường làm sạch thành phố! Rác đáng quét, bọn Việt Cộng ăn cướp thì không quét, chỉ biết quét đuổi bà con mình láng giềng mình… Vì quá sợ, quá lo! Từ những ngày đó, dân miền Nam phe ta bổng phải giả đò hội nhập cuộc sống mới, buộc phải sống với những cái bóng, cái hình, thoạt nhìn như người nhưng thật sự là những con khỉ vừa ở rừng ra.
Dân Sài gòn, thuở trước 30 tháng Tư - từ nay lịch Việt Nam được đánh mốc gọi là TQH (Trước ngày Quốc Hận, cũng như khi viết lịch sử đánh mốc Tây lịch vậy. Trước Tây Lịch và Sau TL vậy! Từ nay, hai thời kỳ Việt Nam : Việt Nam TQH, và Việt Nam SQH!) - TQH, dân miền Nam Việt Nam, đang sống thoải mái, thật tình, thẳng thắng, thật thà. Bổng nhiên, SQH, phải làm bộ «săn tay đập sân gạch, đập sàn xi măng, đập phá lề đường để lên luống làm rẫy trồng rau, dẹp phòng khách, phòng ngủ, để làm chuồng nuôi heo, phá gỗ lát tường làm củi nấu cơm, dùng bàn tiểu, bàn tiêu để rọng cá…Giả ngu, giả khờ! Như năm qua, người viết đã kể chuyện anh quân quản người Bắc nói ngọng Lờ, Nờ khi làm việc mỗi ngày. Cho đến một hôm, thấy anh hiền lành, bèn kéo anh về nhà, cho uống sâm banh, ăn pâté gan, bánh mì nướng, cậu khoái quá, quên cả giả đò, xổ giọng Hà nội thứ thiệt, đọc thơ ngụ ngôn La Fontaine bằng tiếng Pháp khá chuẩn giọng, hát bài Mes Jeunes années của Charles Trénet cho bà vợ tôi nghe và tâm sự thú thiệt với hai vợ chồng mình, cậu ta là cựu học sinh Lycée Albert Sarraut, Hà Nội! Năm 54 học 5ème, nghĩa là trên tôi một lớp. Đau! Trên 20 năm từ năm 1954 đến 1975, đóng kịch giả đò. Nói ngọng để sống còn!
Vì vậy, làm sao trả lời với nhơn vật nêu trên đã nói chúng tôi « bài lên lớp» đó?
Những người dân miền Bắc ở lại với chế độ lạc hậu chấp nhận được cái không khí lạc hậu, với những kỹ thuật tụt hậu vì sự hiểu biết hoàn toàn hạn chế, đóng khung bóp méo bởi một sự khủng bố não trạng.
Lúc ấy, toàn thể dân miền Nam Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, tất cả bạn bè, bà con, các anh chị em, thân hữu, toàn thể quân, cán, chánh Việt Nam Cộng Hòa đều ở tù. Riêng gia đình chúng tôi, Ba tôi Trung tá Hiệu Trưởng Trường Nam Sinh Mù đi tù trại Long Thành (18 tháng), hai em tôi, một Trung Úy Trung đội Trưởng Trung Đội Quân Vận (9 năm) tù Trại Suối Máu và một là Thiếu Úy Cảnh Sát Công lộ tù ở Long Giao (3 năm)! Và tôi, năm sau 76, theo gót gia đình cũng đi tù (4năm) ở Phan Đăng Lưu Gia Định, cho đúng chánh sách.
Chánh sách khủng bố tinh thần bà con cô bác dân phe thua trận bằt đầu ngay từ những ngày đầu. Chương trình bần cùng hóa Sài gòn, bần cùng hóa miền Nam bằng đổi tiền, đánh tư sản mại bản, tịch thu nhà, đuổi dân đi kinh tế mới. Đổi đời dân miền Nam, thành thị hóa nông dân, trung lưu hữu sản thành ăn mày vô sản, vô gia cư, ngủ đường ngủ chợ. Đổi dân, đem dân miền Bắc vào thay thế dân Sài gòn, chẳng chốc Sài gòn có hẳn một khu Little Hà nội!

Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hay Nước Đại Ngu?
Có một cái nực cười, có một cái nghịch lý ngộ nghĩnh ở cái thời ấy, là dù ở trong cái không khí «Khai báo thành thật, thật thà tự kiểm, thẳng thắng phê bình…» đầy ngột ngạt khó thở đó! Phe ta, phe mình, cũng hưởng được có vài thoáng « mua vui cũng được một vài trống canh»! Thưởng thức vài « chuyện tếu tếu, vui vui, dzui cửa dzui nhà,» hưởng được vài chuyện cười «khi trà dư tửu hậu, hột vịt lộn khề khà ở Bến Bạch Đằng với nhau» (Còn nhớ không? bồ tèo Mai Thanh Truyết?). Vậy thì, tự kiểm là gì? Tất cả chúng ta khi làm tự kiểm, tự phê, phải cố gắng moi ruột moi gan, trình bày, phân tách, cái xấu của mình ra, không có, cũng phải ráng có, phải đặt điều nói cho có! Nghĩa là phải trở thành những Vua nói láo!
Cái gì chứ cái nghề đóng kịch, luồn háng qua ải, cở Hàn Tín thuở xưa cũng phải chào thua «phe ta» lúc thời ấy! Cái nghề dùng những từ ngữ chung chung như : hủ lậu, tư bản, phong kiến,…giai cấp … thoạt nghe thì vô thưởng vô phạt, nhưng chúng ta tài tình, tả cảnh sao thành lâm ly thống thiết, đấm ngực kêu trời, bứt tai bứt tóc « đoạn trường tâm thanh» ai oán nỗi hối hận, nhỏ lệ giọng tiếc thương,… Quên sao cái nghề cải lương, hò Quảng … lúc lên bổng ai thương, khi xuống xề xúc động, đúng nhịp song lang,… là nghề của dân Nam kỳ phe ta sao?
Và đó là chế độ của tự phê, tự kiểm! Khi cả thế giới chung quanh đều ngu, ta cũng phải ngu, khi cả thế giới chung quanh đều điên, ta cũng phải giả điên, nếu không ta sẽ bị tiêu diệt! Và khi thấy « cái ngu của thằng thắng trận, mình phải để nó ngu» cho dzui cửa dzui nhà. Cho hạp với môi sanh, môi trường đó thôi…Phải không bạn Mai Thanh Truyết! Bạn Phan Nhật Nam!
Có lẽ vì vậy mà với 41 năm cầm quyền, vừa dạy dân, vừa trị dân, vừa nửa khủng bố dân, vừa nửa ngu dân, mị dân nên Đảng Cộng sản đã thành công là đưa đất nước Việt Nam vừa tụt hậu về mặt kinh tế thương mãi, kỹ nghệ, thành một Nước Nghèo, đã đành! Nhưng cũng vừa tụt hậu luôn cả về mặt văn hóa kiến thức. Thật vậy! Tình trạng hiện nay của đất nước ta không phải tình trạng của một đất nước Nghèo như tên tập kết phản quốc năm xưa nói với tôi mà là tình trạng của một nước NGU.
Xin nhắc lại một trùng hợp lịch sử : Vào đầu thế kỷ thứ 15, Hồ Quý Ly (cũng họ Hồ!), năm 1400, sau khi cướp chánh quyền của Nhà Trần, vừa lên ngôi, từ nay Nhà Hồ bèn đổi tên nước Đại Việt thành nước Đại Ngu! Lịch sử biện minh rằng lão Hồ Quý Ly nhà ta, có giấc mơ rằng họ Hồ của lão, là con cháu hậu duệ của Vua NGU Thuấn, một ông Vua thuộc huyền sử Tàu, không biết có họ hàng cha căn chú kiết nào với Hồ nhà ta không? Nhưng lúc ấy cũng như ngày nay, với Hồ Quý Ly hay Hồ Chí Minh, cái gì đến từ Tàu là tốt cả! Đúng là NGU Xuẩn, Ngu Si!
Ngày nay cũng vậy, Nhà Hậu Hồ, Nhà Hồ Cộng Sản cũng đang biến Nước Việt Nam ta, dân tộc Đại Việt ta, thành nước Đại Ngu thứ hai, trở lại truyền thống triều cống các Vua Tàu Cộng… từ Mao đến Tập. Hồ Quý Ly đổi tên nước là Đại Ngu, chỉ 7 năm sau nhà Minh đã chiếm hẳn. Còn bọn Hậu Hồ Cộng Sản? Tại Thành Đô, đã ký bán Việt Nam ta thành một tỉnh của Nhà Hán Cộng rồi! Ngày nay Hán Cộng đã hoàn toàn chiếm cả đất nước Việt Nam! Xây công sự quân đội trên các Hải Đảo Biển Đông ta! Xây công sự kỹ nghệ trên toàn lục địa Việt Nam ta!
(Còn bảo chữ NGU của Đại Ngu là Yên lành, như Ngu Thuấn là ngụy biện (Vì Ngu là tên họ chứ không phải Ngu là Yên lành đâu! Người Nam ta nói tiếng Nam, « Ngu là Ngu Si Ngu Đần! Hồ Quý Ly cũng như Hồ Chí Minh là phường bán nước ngu si! Mà còn ngụy biện! Hình như tên của Ngu Thuấn, là Nghiêu Thuấn? Tại sao Hồ Quý Ly không đặt tên nước là Đại Nghiêu, hay Đại Nghêu? Sợ là như nghêu sò ốc hến sao?
Tương lai người dân Việt Nam ta muốn THOÁT NGU, chỉ còn, hoặc là từng cá nhơn, từng gia đình như từ 41 năm nay, tiếp tục vượt biên để thoát ngu, xây dựng một tương lai cho con cháu mình, thành lập một cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại, nhưng đóng góp, phục vụ cho xứ người. Hoặc toàn dân, toàn xứ vùng lên DẸP Đảng Cộng sản, HẠ BỆ Nhà Hồ Cộng, để tự quyết định vận mệnh cho cả đất nước và dân tộc Đại Việt mình!

2. Cai trị bằng khủng bố, học bài Nazi, theo gương Cộng sản:
Chế độ Cộng Sản Bắc Việt là một bản sao chép những gì Hitler và chế độ Nazi-Quốc Xã!
Chế độ Cộng Sản Hà Nội là một bàn sao chép lại những gì của Staline và chế độ Cộng Sản Nga Sô-Viết, được Hán hóa bởi Mao Trạch Đông, nhập cảng Việt hóa bởi Hồ Chí Minh!
Người đời, dư luận thế giới, lịch sử thế giới đều ghê tởm, nguyền rủa chế độ Nazi, chế độ Cộng sản Staline. Hitler và Staline bị cả thế giới lên án là hai tên ác quỷ, đồ tể gớm ghiết nhứt của Nhơn loại từ sau thế chiến 2! Lịch sử thế giới phân tách rất rõ những phương pháp khủng bố của Hitler và Staline. Nhưng cớ sao Hitler lại bị xem là tên đồ tể Nhơn loại khủng khiếp nhứt? Đúng thôi! Nhưng tại sao đối với Mao Trạch Đông, đối với Hồ Chí Minh? Người đời lại nương tay hơn? Không xem những tên ác quỷ sau nầy, khủng khiếp hơn Hitler, hơn Staline? Vì sao? Vì Hitler, thêm tội kỳ thị chủng tộc? Chỉ giết người không thuần chủng Aryen - Đức? Chỉ giết người Do Thái? Nếu so sánh về số lượng, nếu Hitler giết 6 Triệu người Do Thái với Chiến Dịch Đêm và Sương Mù - Nacht und Nebel. Thì con số nạn nhơn Do Thái bị giết – 6 Triệu - cũng chỉ ngang ngữa xấp xỉ, con số nạn nhơn của hai chiến dịch Cải Cách Ruông đất của Cộng Sản Tàu góp với Cải Cách Ruộng Đất Cộng Sản Bắc Việt do Tàu đạo diễn. Toàn tất cả con số các nạn nhơn người dân (bản xứ) Đức của Nazi Đức ít hơn các con số các nạn nhơn các người bản xứ Nga hay Tàu. Con số nạn nhơn đồng bào Nga hay Tàu của Staline, của Mao nhiều hơn vô kể! Nhưng ngày nay, chưa có một tòa Án Quốc tế kiểu Tòa Án Quốc Tế Nuremberg đã xử tội các đồ tể Nazi, xử tội hai tên đồ tể Nga Tàu hay xử tội tên đồ tể Việt Nam Hồ Chí Minh! Phải chăng vì Staline, Mao, Hồ «chỉ biết» giết người đồng chủng, người dân mình, nên không sao cả? Thế tại sao Pol Pốt, Khiêu Samphan cũng bị xem là đồ tể? Tuy chỉ giết «có 2 triệu dân thôi» mặc dù cũng là đồng loại, đồng chủng, đồng bào của họ?
Đạo đức, luân lý lịch sử, nhãn quan pháp lý thế giới thật là khó hiểu quá! Hồ Chí Minh với nửa triệu nạn nhơn Cải Cách ruộng đất, với 5 ngàn ngưởi bị giết ở Mậu Thân Huế, với trên 1 triệu người miền Bắc chết vi xẻ núi Trường Sơn xâm chiếm miền Nam, với gần 1 triệu người miền Nam chết ở biển cả chỉ để đi tìm Tự do nơi đất người. Ấy là, chưa kể tất cả những người Việt chết đủ cách, chết đủ kiểu, đủ kỳ, suốt thời quân Bắc Cộng xua quân chiếm Miền Nam, như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết trong bài Tình Ca người mất trí : «... nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo, chết đêm qua, chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò, không hận thù, nằm chết như mơ». Chết chóc! Việt Nam ta cũng lập được vài kỷ lục chớ có thua ai đâu? Có những con số đáng ghi. Lịch sử cận đại ta cũng có nhiều đồ tể đáng ghi nhớ. Sách Guiness ghi các kỷ lục, không dám ghi thành tích giết người. Chứ nếu có, Việt Nam và Đảng Cộng Sản Bắc Việt cũng có tạo nhiều thành tích, tạo nhiều kỷ lục đáng góp mặt ngang ngửa thế giới, đáng ghi nhớ lắm!

3. Khủng bố Daesh, Khủng bố Việt Cộng Trung Đông
Khủng bố Daesh ngày nay ở Trung Đông có khác chi khủng bố Việt Cộng lúc xưa kia ờ Miền Nam Việt Nam?
Khủng bố Daesh ngày nay ở Trung Đông có khác chi khủng bố của Nazi-Quốc Xã, thời 1939?
Khủng bố Daesh ngày nay ở Trung Đông có khác chi khủng bố của Hồng Quân Bolchevik ở Nga của những năm 1917?
Về Lý thuyết
Lý thuyết Nazi - Quốc Xã Sách Mein Kampf - Cuộc Chiến Của Tôi của Hitler.
Lý Thuyết Cộng Sản : Sách Le Capital –Tư Bản Luận của Carl Marx,
Lý Thuyết Daesh Nhà Nước Hồi Giáo ISIS : Sách Kinh Coran của Hồi Giáo.
Cũng một nghể Tuyên Truyền Nhồi sọ, Tẩy Não, Cũng một nghề Khủng Bố Đánh phá, Bom Mìn Đập Phá,…
Cũng Trại Tập Trung. Cũng Giết người bằng mổ bụng, dồn trấu cắt đầu… Cũng cai trị bằng độc tài, độc đoán, võ trang, đàn áp.

Kết Luận
Nazi-Quốc Xã, Cộng Sản, Daesh quá khích: Ba con quái vật của hậu thế kỷ 20 đầu Thế kỷ 21, phải được dẹp bỏ. Ba con Quái Vật hiện nay đã tạo bao đau thương bao chiến tranh, chết chóc, di tản, thuyền nhơn tỵ nạn. Bao đau thương, bao tang thương, đổ bể phải dẹp bỏ, vứt bỏ.
Riêng Việt Nam ta và chế độ Công Sản Việt Nam, là một tàn dư phải được toàn dân Việt Nam, toàn Dân Tộc Đại Việt, dẹp bỏ để lấy lại tự chủ, tự quyết độc lập. Thoát Cộng mới nói chuyện Thoát Trung được. Nếu không sẽ Hán hóa vĩnh viễn sẽ không còn nòi giống Đại Vìệt nữa !

22 tháng 04.2016
Hồi Nhơn Sơn, Tháng Tư Đen thứ 42
Kính dâng lênTổ Tiên Phụ Mẫu,
Kính dâng lên các Anh hùng bỏ mình cho Tổ Quốc,
Kính dâng lên Bàn Thờ Tổ Quốc Quốc Gia Đại Việt.
Phan Văn Song


Bài thơ ngày Quốc hận

Liberté - Tự Do của Paul Éluard

Phan Văn Song

Ngày hôm nay, Ngày Quốc Hận. Đã 41 năm rồi cả nước mất Tự Do. Kính giới thiệu đến quý vị thân hữu vài đoạn trích từ bài thơ Tự Do – Liberté(bài thơ rất dài gồm 29 đoạn) của thi sĩ Paul Éluard.

Eugène Émile Paul Grindel, tự Paul Éluard, sanh tại Saint Denis (ngoại ô Paris) ngày 14/12/1895, mất ngày 18/11/1952 tại Charenton-le-Pont (cũng ngoại ô Paris).
Năm 1916, bút hiệu Paul Éluard xuất hiện với phong trào Đa đa –Dada. Phong trào đặt lại với đề « nhơn sanh quan » : một cái nhìn mới, phóng khoáng, không biên giới, cấm đoán, một đời sống đầy vô lý, không tưởng, nhộn, vui, điên khùng lẫn lộn. Dần dần Dada chuyển hướng sang surréalisme-siêu hiện thực. Thơ, họa, văn cả một phong trào nghệ thuật diễn tả sống thực, tả chân, sống động, Cùng với André Breton, một nhà thơ, nhà văn hay Jean Paulhan họ diễn tả sự day dứt, dằn vặt bằng cách dùng chữ, từ, ngôn ngữ.
Paul Éluard còn là một nhà văn kháng chiến. Suốt thời gian nước Pháp bị Đức chiếm. Paul Éluard đấu tranh không ngừng nghĩ. Bài thơ dài Liberté -Tự Do một thời gian là biểu tượng của kháng chiến Pháp chống Nazị-Đức-Quốc Xã.
Bài thơ dài gồm 29 đoạn được các máy bay Anh thả hàng ngàn bản, xuống đất Pháp bị tạm chiếm suốt thời gian chiến tranh. Paul Éluard là biểu tượng của nguồn hy vọng.
Nhưng Paul Éluard cũng được xem là nhà thơ biểu tượng sự phản kháng, sự chống đối. Cùng với André Breton, Paul Éluard chống tất cả. Sức chống đối của nhà thơ cũng như những bài của thơ của nhà thơ vô tận, không ngừng nghỉ. Thi sĩ chống những, lệ luật, điều lệ, gò bó, bất công của xã hội: thí dụ tổ chức xã hội đang trục xuất những người loạn trí, những người điên ra khỏi xã hội. Với thi sĩ Paul Éluard, thơ có bổn phận, tố cáo tình trạng bất công ấy, giải thoát người điên loạn. Theo Paul Éluard, thể, nghệ thuật làm thi, làm thơ là «một nghệ thuật của ngôn ngữ, một nghệ thuật của sự sống, một vũ khí đạo đức - La poésie est un art de langage, un art de vie, un instrument moral»
Câu cuối cùng của đoạn chót bài thơ Liberté «Je suis né pour te connaître, Pour Te nommer LIBERTÉ» được đặt trên mộ của Paul Éluard.

LIBERTÉ
Sur mes cahiers d’écoliers, Sur les pupitres et les arbres, Sur le sable sur la neige
J’écris Ton nom
Sur toutes les pages lues, Sur toutes les pages blanches, Pierre sang papier ou cendre
J’écris Ton nom
Sur les champs sur l’horizon, Sur les ailes des oiseaux, Et sur les moulins des ombres
J’écris Ton nom
Sur chaque bouffée d’aurore, Sur la mer sur les bateaux Sur la montagne démente
J’écris Ton nom
Sur la vitre des surprises, Sur les lèvres attentives, Bien au-dessus du silence
J’écris Ton nom
Sur la santé revenue, Sur le risque disparu, Sur l’espoir sans souvenir
J’écris Ton nom
Et par le pouvoir d’un mot, Je recommence ma vie, Je suis né pour Te connaître
Pour Te nommer Liberté
Paul Eluard

TỰ DO
Tôi viết tên Em,
Trên vở học trò, Trên góc bàn học, Trên bìa vỏ cây,
Tôi viết trên Em,
Trên trang sách đọc, Trên trang vở trắng, Tro tang, máu hồng
Tôi viết tên Em
Đồng rộng chân trời, Cánh chim tung cánh, Trên vùng núi cao
Tôi viết tên Em
Trên cánh thuyền vươn, Ẩn mình rặng núi, Mỗi sáng bình minh.
Tôi viết tên Em,
Trên mỗi hình hài, Trên từng khuôn mặt, Vòng tay gọi mời
Tôi viết tên Em
Sau làn kính đợi, Sau đôi môi chờ, Nhớ mong thầm lặng,
Tôi viết tên Em
Hy vọng trở về, Hiểm nguy quá khứ, Tương lai kia kìa
Tên Em là Tự Do
Tên Em là Sức Mạnh, Với Em cuộc Sống Mới, Tôi sống lại nhờ Em

Hồi Nhơn Sơn, đất người sống tạm,
Những ngày cuối của tháng Tư Đen lần thứ 42
Xin kính tặng, tưởng niệm, kính gởi đến mọi chiến sĩ cho nền Tư Do
Phan Văn Song phỏng dịch


Đăng ngày 29 tháng 04.2016