Kẻ nội thù
Người đi tìm bản đồ về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông - Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn - cho hay chính phủ Việt Nam không sử dụng những tài liệu mà ông tìm ra để kiện Trung Quốc. “Do vậy, nhiều tài liệu của chúng tôi không được công bố”.
Tác giả: Mike Ives - New York Times
Người dịch: Vũ Quốc Ngữ
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn cho hay chính phủ Việt Nam không sử dụng những tài liệu mà ông tìm ra để kiện Trung Quốc. “Do vậy, nhiều tài liệu của chúng tôi không được công bố.”
***
Đà Nẵng, Việt Nam – 8 năm trước, lãnh đạo Đà Nẵng đã yêu cầu Trần Đức Anh Sơn đi khắp thế giới để tìm kiếm các tài liệu và bản đồ hỗ trợ cho các tuyên bố lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông.
Ông đã làm như yêu cầu, và ông kết luận rằng Việt Nam nên kiện Trung Quốc về các hoạt động trong vùng nước xung quanh một số hòn đảo đang tranh chấp ở Biển Đông, như Philippines thành công khi kiện Trung Hoa lên Toà án Trọng tài Quốc tế kết thúc vào năm ngoái. Tuy nhiên, những lãnh đạo của ông đã im lặng.
“Họ luôn luôn nói với tôi rằng ‘Anh Sơn, hãy giữ bình tĩnh’” ông nói trong một cuộc phỏng vấn tại nhà riêng ở Đà Nẵng, thành phố ven biển, nơi ông là phó giám đốc một viện nghiên cứu của nhà nước. “Đừng nói xấu về Trung Quốc” là yêu cầu của lãnh đạo đối với ông. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam là “nô lệ” của Bắc Kinh, ông nói thêm một cách cay đắng, khi mưa xối xả đập vào cửa sổ của ông. “Đó là lý do tại sao chúng tôi có nhiều tài liệu không được công bố.”
Sứ mệnh của Tiến sĩ Sơn, và thái độ im lặng của ban lãnh đạo là dấu hiệu của các giai đoạn trong đó Việt Nam luôn sống dưới cái bóng của Trung Quốc nhưng muốn một sự độc lập nào đó.
Sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông đã gây ra lo lắng cho Việt Nam, coi chủ quyền lãnh thổ là một nguyên tắc thiêng liêng và khuyến khích chính phủ thúc đẩy các tuyên bố về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tuy nhiên, ngay cả khi bằng chứng cho những tuyên bố như vậy được thu thập được, Hà Nội không muốn dùng chúng như những vũ khí, theo các nhà phân tích nói. Trung Quốc, quốc gia láng giềng kế cận và đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đang ngày càng quyết đoán trong việc xây dựng một chuỗi các tiền đồn quân sự trên biển Đông.
Mọi người ở Việt Nam, “chính phủ và các cơ quan phi chính phủ ở đều chia sẻ một ý nghĩ chung là Trung Quốc nên tránh xa những hòn đảo đó, theo Liam C. Kelley, giáo sư về lịch sử tại Đại học Hawaii ở Manoa và là người đã nghiên cứu nguồn gốc của mối quan hệ giữa hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam.
Nhưng ông nói rằng việc sống dậy chủ nghĩa dân tộc gần đây do sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông đặt ra một câu hỏi gai góc “Làm thế nào mà bạn có thể bảo vệ Việt Nam khỏi Trung Quốc khi Bắc Kinh chống lưng Hà Nội?”
Trung Quốc từng cai trị Việt Nam trong một giai đoạn kéo dài một nghìn năm, để lại nhiều di sản văn hóa tích cực nhưng cũng chuốc lấy sự căm giận từ người dân. Bắc Kinh đã giúp Hà Nội đánh bại Pháp để giành được độc lập năm 1954 nhưng cũng xâm chiếm miền Bắc Việt Nam vào năm 1979, bắt đầu cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi.
HD 981
Vào năm 2014, tinh thần chống Trung Quốc bùng nổ khi một công ty dầu mỏ của Trung Quốc kéo một giàn khoan dầu lên vùng biển gần Đà Nẵng, gây ra căng thẳng hàng hải và nhiều cuộc bạo loạn chống Trung Quốc tại một số khu công nghiệp của Việt Nam.
Một chuyên gia cao cấp về luật tại Hà Nội, người không muốn tiết lộ danh tính khi nói về chính trị nhạy cảm, nói rằng sự quan tâm đến chủ quyền lãnh thổ đã từ lâu đã là “trái tim” của người Việt Nam. Nhưng vụ giàn khoan đã làm tăng thêm sự quan tâm.
Trung Quốc đã kiểm soát Hoàng Sa từ năm 1974 sau một cuộc hải chiến với Việt Nam Cộng Hoà. Bắc Kinh gia tăng sự hiện diện ở Trường Sa bằng một chiến dịch xây dựng đảo nhân tạo ở quần đảo này.
Nhiều quan chức và học giả Trung Quốc tìm cách biện minh cho tuyên bố chủ quyền chín đoạn của Bắc Kinh đối với vùng biển bao quanh cả hai quần đảo bằng cách trích dẫn các bản đồ và các bằng chứng khác từ những năm 1940 và 1950.
Nhưng một số ở Việt Nam, như Tiến sĩ Sơn, đang cố gắng thu thập các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của quốc gia ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, cho dù họ có ít quyền hạn để ngăn cản Trung Quốc.
Tiến sĩ Sơn, 50 tuổi, và các học giả Việt Nam khác nói rằng triều đại nhà Nguyễn, trị vì Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1945, đã kiểm soát hành chính đối với Hoàng Sa bằng cách gửi người đi khảo sát quần đảo này và thậm chí trồng cây trên đó như là một cảnh báo đề phòng tàu đắm. Họ nói rằng điều này đã xảy ra vài thập niên trước khi người Trung Quốc tỏ ra quan tâm đến các hòn đảo này.
“Người Trung Quốc biết rất rõ rằng họ không bao giờ đề cập đến Hoàng Sa hay Trường Sa trong sách lịch sử hoặc bản đồ lịch sử của họ”, tiến sĩ Sơn nói.
Ngược lại, ông cho biết, ông đã tìm thấy bằng chứng trong hơn 50 cuốn sách bằng tiếng Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha – về việc một nhà thám hiểm Việt Nam thời Nguyễn đã đặt lá cờ hoàng gia ở Hoàng Sa vào những năm 1850.
Các nhà phân tích cho rằng, trọng tài quốc tế về chủ quyền lãnh thổ chỉ có thể tiến hành nếu hai bên đồng ý, và Trung Quốc đã không quan tâm đến vấn đề này.
Tuy nhiên, việc quan tâm đến lịch sử hàng hải của Việt Nam kể từ năm 2012 đã tạo ra tiếng vang trên các phương tiện truyền thông nhà nước và có nhiều thú vị bất ngờ.
Một là Trần Thắng, một kỹ sư cơ khí người Việt Nam sống ở Connecticut. Ông nói qua điện thoại rằng ông đã tặng 153 bản đồ và sách atlases mua chúng trên eBay với giá khoảng 30.000 USD.
Trong số các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu về lãnh thổ và lãnh hải ở Biển Đông, TS. Sơn là một trong số những người nổi bật nhất.
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn cho hay chính phủ Việt Nam không sử dụng những tài liệu mà ông tìm ra để kiện Trung Quốc. “Do vậy, nhiều tài liệu của chúng tôi không được công bố".
Ông sinh năm 1967 tại Huế, khoảng 50 dặm về phía tây bắc của thành phố Đà Nẵng, và cha của ông đã bị giết chết vào năm 1970 trong khi chiến đấu ở phe Việt Nam Cộng hoà. “Tôi chỉ nhớ đám tang” ông nói.
Ông lớn lên trong nghèo khó, nhưng học xuất sắc trong trường Đại học Huế, nơi luận án lịch sử của ông đã khám phá đồ sứ thời Nguyễn. Sau đó ông lãnh đạo viện bảo tàng mỹ thuật của Huế và đã nỗ lực trong việc đưa kinh thành Huế trở thành di sản UNESCO.
Tiến sỹ Sơn cho biết, ông muốn sao chụp bản đồ nêu bật các yêu sách lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông. Vì vậy, khi các quan chức hàng đầu ở Đà Nẵng yêu cầu ông trong năm 2009 thực hiện một nghiên cứu của chính phủ, ông đã không bỏ lỡ cơ hội.
“Tôi luôn chống lại Trung Quốc,” ông nói bằng cách giải thích. “Các học giả Trung Quốc đã và đang tiến hành nghiên cứu tương tự trong nhiều năm với sự hỗ trợ của Bắc Kinh". Ông thấy công việc của mình không uổng, ông cho biết.
Các quan chức Đà Nẵng đã cho phép Tiến sĩ Sơn tuyển mộ một nhóm hỗ trợ gồm bảy thành viên, nhưng không tài trợ cho chuyến đi quốc tế của ông. Ông nói ông đã phải dùng tiền túi của mình để thanh toán cho một số nghiên cứu mà ông đã tiến hành từ năm 2013 trên khắp châu Âu và Hoa Kỳ, nơi ông là một học giả Fulbright tại Đại học Yale.
Tiến sĩ Sơn, phó giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội thành phố Đà Nẵng, cho biết ông vẫn hy vọng rằng một ngày Việt Nam sẽ đưa Trung Quốc ra tòa.
Nhưng ông không nói nhiều về kết quả cuối cùng nếu có một vụ kiện như thế. “Tôi không phải là chính trị gia,” ông nói thêm. “Tôi là một nhà khoa học".
https://www.nytimes.com/2017/1 1/25/world/asia/vietnam
* Vũ Quốc Ngữ dịch (VNTB) theo nguyên bản dưới đây:
________
A defiant map-hunter stakes Vietnam’s claims
in the South China sea
By MIKE IVES
DANANG, Vietnam — Eight years ago, officials in Danang asked Tran Duc Anh Son to travel the world in search of documents and maps that support Vietnam’s territorial claims in the South China Sea.
He did, and he concluded that Vietnam should challenge China’s activities in waters around some of the sea’s disputed islands, as the Philippines successfully did in a case that ended last year. But his bosses would not be moved.
“They always say to me, ‘Mr. Son, please keep calm,’” he said during an interview at his home in Danang, the coastal city where he is the deputy director of a state-run research institute. “‘Don’t talk badly about China’.”
Vietnam’s top leaders are “slaves” to Beijing, he added bitterly, as torrential rain beat against his windows. “That’s why we have many documents that are kept in the dark”.
Dr. Son’s mission, and his bosses’ demurrals, are signs of the times in Vietnam, which has always lived in China’s shadow but also harbors a fierce independent streak.
China’s assertiveness in the sea has caused deep anxiety for Vietnam, which regards territorial sovereignty as a sacred principle, and emboldened the government to promote claims over the disputed Spratly and Paracel archipelagos more aggressively.
Yet even as evidence for such claims piles up, analysts say that Hanoi has been reluctant to weaponize it. China, after all, is Vietnam’s next-door neighbor and largest trading partner, as well as an increasingly assertive hegemon that is building a string of military outposts on reclaimed land in the sea.
Everyone in Vietnam, “government and nongovernment, has the same sense that the Chinese should stay away from those islands,” said Liam C. Kelley, a professor of history at the University of Hawaii at Manoa who has studied the roots of the relationship between the two countries.
But he said the recent surge of nationalism over China’s expansive vision raises a thorny question: “How do you position yourself as defending Vietnam from China when China is basically your backbone?” Chinese dynasties ruled present-day Vietnam for a millennium, leaving positive cultural legacies but also a trail of resentment. Beijing helped Hanoi defeat the French to win independence in 1954 but also invaded northern Vietnam in 1979, setting off a brief border war.
In 2014, anti-China sentiment flared when a state-owned Chinese oil company towed an oil rig to waters near Danang, provoking a tense maritime standoff and anti-Chinese riots at several Vietnamese industrial parks.
Interest in territorial sovereignty has long been “in the heart” of the Vietnamese people, said a senior Vietnamese legal expert in Hanoi, who insisted on anonymity to discuss a sensitive political matter. But the oil rig crisis has greatly magnified the interest.
China has controlled the Paracels since 1974, when it seized them from the former government of South Vietnam in a naval clash. It has bolstered its foothold in the Spratlys recently through an island-building campaign. Chinese officials and scholars seek to justify Beijing’s claim to sovereignty over waters that encircle both archipelagos — represented by what they now call the nine-dash line — by citing maps and other evidence from the 1940s and ’50s.
But some in Vietnam, like Dr. Son, are trying to marshal their own historical records — even if they may have little power to dissuade China.
Dr. Son, 50, and other Vietnamese scholars say the Nguyen dynasty, which ruled present-day Vietnam from 1802 to 1945, wielded clear administrative control over the Paracels by sending survey parties and even planting trees on them as a warning against shipwrecks. This happened decades before imperial or post-revolutionary China showed any interest in the islands, they say.
“The Chinese know very clearly they never mentioned the Hoang Sa or the Truong Sa in their history books or historical maps”, Dr. Son said, using the Vietnamese terms for the Paracels and Spratlys.
By contrast, he said, he found evidence in more than 50 books — in English, French, Dutch, Spanish and Portuguese — that a Nguyen-era Vietnamese explorer planted the royal flag in the Paracels in the 1850s.
International arbitration over territorial sovereignty can only proceed if both parties agree, analysts say, and China has shown no interest in that. Still, the frenzy of interest in Vietnam’s maritime history since about 2012 has produced a buzz in the state-run news media — and a few unexpected heroes.
One is Tran Thang, a Vietnamese-American mechanical engineer who lives in Connecticut. He said by telephone that he had donated 153 maps and atlases to the Danang government in 2012 after ordering them on eBay for about $30,000.
Among Vietnamese academics who study the government’s territorial claims in what it calls the East Vietnam Sea, Dr. Son is among the most prominent.
He was born in 1967 in Hue, about 50 miles northwest of Danang, and his father was killed in 1970 while fighting for South Vietnam. “I only remember the funeral,” he said.
He grew up poor, he said, but excelled at Hue University, where his history thesis explored Nguyen-era porcelain. He later directed Hue’s fine arts museum and led a successful bid to make its imperial citadel a Unesco World Heritage site.
As a student poking around dusty archives, Dr. Son said, he would photocopy maps that highlighted Vietnamese territorial claims in the South China Sea. So when top officials in Danang asked him in 2009 to pursue the same research on the government’s behalf, he said, he leapt at the chance.
“I’m always against the Chinese,” he said by way of explanation. Chinese scholars have been conducting rival research for years with support from Beijing, he added, and he sees his own work as payback.
Danang officials allowed Dr. Son to recruit a seven-member support team, he said, but did not fund his international travel. He said he paid for some of the research that he has conducted since 2013 across Europe and the United States, where he was a Fulbright scholar at Yale University, out of pocket.
Dr. Son, the deputy director at the Danang Institute for Socio-Economic Development, said he still held out hope that Vietnam would take China to court.
But he also said he was not holding his breath and had little say in the outcome.
“I’m not political,” he added. “I’m a scientist”.
NOV. 25, 2017
https://www.nytimes.com/2017/11/25/world/asia/vietnam-south-china-sea.html
Tòa Đại Sứ Mỹ:
Bản án đối với blogger Mẹ Nấm
là "cáo buộc mơ hồ"
Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa phúc thẩm sáng 30 Tháng Mười Một. (Hình: AFP/Getty Images)
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Cáo buộc mơ hồ” là tuyên bố của bà Caryn McClelland, đại biện lâm thời Hoa Kỳ tại Việt Nam, về bản án 10 năm tù mà tòa án CSVN phán quyết đối với blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hôm 30 Tháng Mười Một.
Phiên tòa phúc thẩm diễn ra tại Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Đà Nẵng ở Nha Trang, bà Quỳnh vẫn bị giữ nguyên mức án 10 năm về tội “Tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ Luật Hình Sự CSVN.
Trước đó, ngày 29 Tháng Sáu, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, Tòa Án Nhân Dân tỉnh Khánh Hòa đã tuyên phạt bà Quỳnh 10 năm tù về tội danh nêu trên. Sau đó, bà Quỳnh đã kháng cáo. Và nay, phiên xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ngay lập tức, Đại Sứ Quán Mỹ tại Hà Nội ra thông cáo báo chí với tuyên bố của đại biện lâm thời Hoa Kỳ tại Việt Nam Caryn McClelland về bản án phúc thẩm đối với bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
“Tôi quan ngại sâu sắc trước việc tòa án Việt Nam giữ nguyên bản án 10 năm tù đối với nhà hoạt động ôn hòa, được trao giải thưởng Phụ Nữ Can Đảm Quốc Tế, blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (còn gọi là Mẹ Nấm) với cáo buộc mơ hồ ‘tuyên truyền chống nhà nước’”, bản tuyên bố cho biết.
“Tất cả mọi người đều có các quyền tự do cơ bản như bày tỏ chính kiến, hội họp và lập hội một cách ôn hòa. Bà Quỳnh là một trong sáu cá nhân, trong đó có bà Trần Thị Nga, đã bị kết án trong năm nay vì thực hiện các quyền này”, bản tuyên bố khẳng định.
Thông cáo báo chí của Đại Sứ Quán Mỹ nhấn mạnh: “Xu hướng gia tăng các vụ bắt bớ và xét xử với những bản án nặng dành cho những nhà hoạt động ôn hòa và sinh viên từ đầu năm 2016 rất đáng lo ngại".
Thông cáo cũng dẫn tuyên bố của bà Caryn McClelland với yêu cầu: “Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam thả bà Quỳnh cũng như tất cả các tù nhân lương tâm khác ngay lập tức, và cho phép tất cả cá nhân ở Việt Nam bày tỏ quan điểm của họ và hội họp một cách tự do mà không lo sợ bị trả thù".
“Chúng tôi cũng hối thúc chính phủ Việt Nam bảo đảm những hành động và luật pháp của mình nhất quán với những điều khoản về nhân quyền trong hiến pháp Việt Nam và những cam kết và nghĩa vụ quốc tế của mình”, bản tuyên bố cho hay.
Như nhật báo Người Việt đã thông tin trong số ra hôm qua, cũng khá giống với phiên tòa đầu tiên khoảng nửa năm trước, tức hôm 29 Tháng Sáu, theo tường thuật của Facebooker Trịnh Kim Tiến, người cùng đi với bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, mẹ của Như Quỳnh, đến phiên tòa: “Tòa ‘công khai’ 30 Tháng Mười Một, 2017, tại Nha Trang, hai đầu tòa bị chặn bằng hàng rào barie, công an sắc phục và an ninh thường phục".
Lúc 7 giờ 19 phút, Facebooker Trịnh Kim Tiến chụp hình bà Tuyết Lan bên ngoài phiên tòa với một hàng rào barie dài ghi rõ “Khu vực cấm phương tiện giao thông đường bộ". Bà Lan không được vào tham dự phiên tòa “xử” con mình.
Dù không còn là luật sư bào chữa cho Mẹ Nấm, dù đã bị Ban Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư tỉnh Phú Yên xóa tên khỏi danh sách đoàn luật sư của tỉnh này, nhưng Luật Sư Võ An Đôn vẫn đến dự phiên tòa.
Khi trả lời Facebooker Trịnh Kim Tiến, ông cho biết: “Việc làm của Quỳnh rất có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của xã hội. Quỳnh đã thực hiện đúng quyền tự do ngôn luận của mình theo quy định của pháp luật nhưng bị tòa tuyên án 10 năm tù. Nếu mà giữ nguyên bản án này thì quá là man rợ".
Báo Thanh Niên cùng ngày tường thuật: “Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị xử phạt với mức án 10 năm tù là tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội Đồng Xét Xử Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao tại Đà Nẵng quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, giữ nguyên bản án sơ thẩm". (TS)
November 30, 2017
https://www.nguoi-viet.com
Nếu không nhìn lại mình
sẽ mất quá khứ và tương lai
Châu Hiển Lý
Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 37 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.
Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.
Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :
- Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
- Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
- Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
- Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?
Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
- Tại sao đàn ông? của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
- Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
- Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
- Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?
- Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?
Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.
Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .
Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…
Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.
Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.
Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người; đảng nói ”một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.
Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.
Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ:
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa!
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?
Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.
Thứ Bảy, 18 tháng Mười Một, năm 2017
Châu Hiển Lý
(Bộ đội tập kết 1954)
Tại sao bức xúc vì chữ bức xúc?
Ngô Nhân Dụng
Một tờ báo trong nước loan tin: “Bức xúc vì bí thư, trưởng thôn trao quà hỗ trợ lũ lụt cho vợ". Đọc tựa đề này, tôi cảm thấy có gì thiêu thiếu! Tôi cảm thấy viết tiếng Việt Nam như vậy không ổn. Có lẽ vì không đọc hàng ngày báo xuất bản trong nước nên tôi không quen với lối nói mới, viết mới này.
Lúc đầu, tôi nghĩ cảm giác “lạ lạ” của mình là do chữ “bức xúc". Hai tiếng này người miền Nam mới làm quen từ 40 năm qua. Nghe riết rồi cũng quen; nhưng cho tới nay quả thật tôi vẫn chưa hiểu hai chữ này nghĩa đích xác là gì. Đó là một cảm tưởng bực bội, bứt rứt, khó chịu, tức giận? Cảm giác nhẹ hay mạnh, ở mức nào thì nói là “bức xúc?” Nhưng có lẽ hai chữ này cũng không thể gây cho tôi cảm giác “thiêu thiếu,” khó chịu, “bức xúc” khi đọc câu trên.
Mấy ngày sau, đọc lại cái tựa đó vài lần nữa tôi mới nghĩ ra lý do khiến mình khó chịu. Lý do là: Câu trên không có chủ từ.
Nhà báo nào đó viết “Bức xúc vì…” nói trống không; người đọc không biết ai bức xúc. Vì thế khi đọc lần đầu tôi cảm thấy “bất ổn". Nó thiêu thiếu cái gì đó mà chưa nghĩ ra ngay. Té ra, vì câu đó thiếu chủ từ.
Tìm ra nguyên nhân rồi, tôi lại ngạc nhiên sửng sốt! Lý do giản dị như thế, tại sao khi đọc lần đầu mình không thấy?
Đã làm nghề dạy học và viết tiếng Việt hơn nửa thế kỷ, khi đọc một câu không có chủ từ, mình phải nhận ra ngay chớ? Trước đây 50 năm khi tôi dạy học ở Sài Gòn, nếu một học sinh viết câu như vậy chắc tôi đã vạch đỏ lèm và phê: Thiếu chủ từ! Mà có lẽ thời 1960, 70 các học sinh của tôi cũng không ai viết một câu thiếu chủ từ như thế. Tại sao bây giờ tôi lại chỉ cảm thấy “bứt rứt khó chịu” cảm thấy có “cái gì thiêu thiếu?” Giống như nhai miếng cơm có hạt sạn mà không biết vì sao, chỉ thấy răng mình hơi khó chịu. Vì cao tuổi nên đầu óc tôi đã kém bén nhậy hay chăng?
Cũng phải nghĩ ngợi giây lâu tôi mới khám phá ra rằng không phải tại mình già. Lý do chính là báo chí trong nước bây giờ hay viết tiếng Việt không có chủ từ; đọc riết mình cũng quen, không nghĩ tới nữa.
Một cái tựa trên báo khác viết thế này: “Quảng Ngãi: Xôn xao nghi vấn gạo giả hỗ trợ người nghèo". Chủ từ của câu này là cái gì? Cái nghi vấn nó xôn xao? Hay người dân xôn xao với nghi vấn? Trước năm 1975 khi làm báo ở Sài Gòn nếu bắt được tin tức này, chắc các anh Chu Tử, Lê Xuyên đã đặt tựa: Ai phát gạo giả cho nạn nhân lụt Quảng Ngãi? Đặt một cái tựa như vậy ai cũng biết đó là một nghi vấn, và nó đủ làm dư luận xôn xao.
Không hiểu sao các đồng nghiệp của tôi bây giờ không thích đặt câu hỏi thẳng như vậy? Tại sao họ lại viết: “Xôn xao nghi vấn…?”
Có lẽ vì họ đang được “đảng lãnh đạo". Câu không có chủ từ là mặt nổi, bên dưới là một xã hội mà người ta không ai nhận trách nhiệm, đặc biệt là giới cầm quyền. Lỗi tại ai? Chúng ta! Tức là không có ai cụ thể! Ai bức xúc? Cũng không có ai cụ thể! Chẳng lẽ viết “nhân dân bức xúc?” Viết vậy là tuyên truyền chống đảng rồi!
Trong gọng kìm kẹp mồm kẹp miệng của đảng Cộng Sản, nhà báo không được phép đặt những câu hỏi thẳng thắn, cụ thể. Đặt câu hỏi tức là “có ý đồ” chống chế độ, có thể bị kết tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân! Anh Nguyễn Văn Hóa, mới bị đưa ra tòa án ở tỉnh Hà Tĩnh xử bảy năm tù chỉ vì cho bạn bè coi video tố cáo tội ác của Formosa. Bản cáo trạng viết anh Hóa “…lập tài khoản cá nhân trên facebook để kết bạn, trao đổi thông tin với một số đối tượng xấu;… bài viết, video, hình ảnh có nội dung tiêu cực, kích động, xuyên tạc sự thật, tuyên truyền các luận điệu phản động trái với đường lối, chính sách của đảng và nhà nước".
Anh Nguyễn Văn Hóa mới 22 tuổi, điếc không sợ súng. Còn các nhà báo của chúng ta, nhiều người đã lão thành, không ai dại dột đặt câu hỏi “Ai bức xúc?” vì hỏi tức là muốn nhà nước và đảng phải trả lời, rõ ràng “trái với đường lối, chính sách của đảng và nhà nước".
Dưới gông cùm tuyên giáo, các nhà báo không dám đặt câu hỏi, và cũng không dám nêu lên những chuyện cụ thể. Lại nói chuyện gạo giả ở Quảng ngãi, một tờ báo trong nước loan tin với tựa đề “Người nghèo Quảng Ngãi nhận gạo cứu trợ có biểu hiện lạ".
Đọc câu trên, nếu còn giữ thói quen suy nghĩ, chúng ta phải bật cười. Ông/Bà nhà báo này viết như một triết gia hay một nhà nghiên cứu triết học. “Biểu hiện” là ngôn ngữ triết học, ai đọc các triết gia hiện sinh chắc đã nghe quen. Người bình thường thì sẽ viết một cách cụ thể: Gạo nấu cơm biến thành than! Ai cũng biết là ăn không được, nuốt không vô. Nhưng trước mắt các triết gia, gạo nấu thành than chỉ là một “biểu hiện lạ". Họ viết chữ “lạ” mà không cần đánh dấu tán thán, “lạ!” Viết như thế là mất cái vẻ trầm tư mặc tưởng của một triết nhân.
Nhà báo học chữ “biểu hiện lạ” ở đâu ra vậy? Họ không học Martin Heidegger hay Jean Paul Sartre mà học các triết gia Tuyên Giáo. Các ngài đã sáng tạo ra chữ “tàu lạ". Biết mà không dám nói nó là tàu của ai, tàu nước nào, các đỉnh cao trí tuệ làm mới ngôn ngữ Việt Nam với hai tiếng “tàu lạ". Đám quần chúng nhân dân người trần mắt thịt không dám phạm húy nên cứ thế viết theo. Lúc nào bí thì bất cứ cái gì xấu xa, bẩn thỉu cứ gọi là “biểu hiện lạ!” Đỡ mất công suy nghĩ. Tránh bị tù như chú Nguyễn Văn Hóa!
Một biểu hiện lạ trong nghề báo ở nước ta bây giờ là chúng ta quen viết, quen nói như thế rồi, 50 hay 70 năm sau không ai cảm thấy bức xúc khi viết và đọc báo nữa! Đầu óc con người nó cũng tập thói quen giống như thân thể. Đọc “tàu lạ,” và “biểu hiện lạ” riết rồi không ai cảm thấy nó “lạ” nữa. Ai cũng quen với lối suy nghĩ trừu tượng, nói năng trừu tượng. Người viết và cả người đọc không ai bức xúc nữa. Cả nước biến thành triết gia lúc nào không ai biết!
Bài trước trong mục này viết, “thói quen trừu tượng hóa, trốn tránh sự thật, khiến các quan chức trốn trách nhiệm, cả chế độ cũng trốn trách nhiệm… Một đứa trẻ ăn vụng miếng bánh gọi là sai phạm, ông thủ tướng ôm cả tỷ đô la của các hãng thầu nước ngoài cũng gọi là sai phạm!” Diễn tả theo lối các triết gia hiện sinh trong nước hiện nay, phải gọi đó là một “lỗi hệ thống!” Mấy chữ “lỗi hệ thống” chính là một thứ ngôn ngữ trừu tượng!
Nhưng tại sao những nhà trí thức phê bình chế độ lại dùng những chữ “lỗi hệ thống” trong khi người bình dân chúng tôi thích nói “nhà giột từ nóc giột xuống” hoặc “rỗng (tối) từ trong ruột ruỗng (thối) ra?”
Có lẽ đây cũng là một thứ kết quả của thí nghiệm Pavlov. Người ta quen nói như thế rồi, nghe tiếng kẻng là nhễu nước miếng.
Do đó, mới có chữ “bức xúc". Nhiều độc giả báo Người Việt coi “bức xúc” là “tiếng Việt Cộng;” Nếu hiểu Việt Cộng là viết tắt những chữ Cộng Sản Việt Nam, giống như Trung Cộng là Cộng Sản Trung Quốc, thì tôi thấy gắn nhã hiệu Việt Cộng cho hai chữ “bức xúc” là lầm.
Phải nói lại “bức xúc” là “tiếng Chống Việt Cộng". Không biết chữ này được dùng trong văn chương, báo chí miền Bắc Việt Nam từ năm nào, nhưng chúng ta có thể đoán nhà văn đầu tiên dùng các chữ đó muốn diễn tả một điều mà đảng cấm, ban Tuyên Huấn cấm. Thay vì diễn tả một tâm trạng của người dân hay của mình bằng những chữ “tức giận,” hay “nổi giận” hoặc “phẫn nộ,” nhà báo phải tìm một chữ mới hoàn toàn, một chữ nằm ngoài danh sách các chữ bị cấm. Thế là bật ra hai tiếng “bức xúc!”
Các ông bà Tuyên huấn đọc hai chữ đó, không thấy ông Lê Duẩn hay ông Trường Chinh cấm, cứ cho nó xuất hiện. Thế rồi người ta nghe quen tai. Cả nước không ai dám nói mình “giận dữ” hoặc “chịu không thấu” nữa. Ai cũng bức xúc. Người người bức xúc, ngành ngành bức xúc. Bởi vì từ mới này không có nghĩa chính xác như khi nói “bực tức” hoặc “uất hận” cho nên nó được sống sót sau bao lần chỉnh huấn! Đồng bào miền Bắc được dùng hai tiếng bức xúc tự do, khi các quan cán bộ hỏi: “Bố anh bị giết oan, anh có oán đảng không?” “Dạ không ạ, chỉ bức xúc thôi ạ!” Các quan trên hài lòng. Dân nhìn nhau, cũng hài lòng, vì họ hiểu hai chữ bức xúc theo nghĩa của họ! Các quan Tuyên Huấn bắt dân “trừu tượng hóa” thì dân chúng tôi tìm cách “cụ thể hóa!”
Cho nên tôi đoán người sáng tạo ra hai tiếng “bức xúc” chủ tâm né tránh, đã tìm cách “chơi” đảng, “chơi” Ban Tuyên Huấn! Cũng giống như nhà trí thức né tránh khi viết “Lỗi Hệ Thống". Ông hay bà này “đánh du kích” trong mặt trận ngôn ngữ. Thế rồi người dân thấy hai tiếng đó diễn tả đúng tâm trạng mình, cũng đua nhau dùng, khi cần nói một điều cụ thể trong lòng mà đảng không cho dùng những tiếng cũ. Bức Xúc trở thành tiếng nói của người dân không được phép nói. Phải coi đó là “tiếng chống Cộng” chứ không phải tiếng Việt Cộng!
Sau năm 1975, đồng bào miền Nam mới nghe chữ bức xúc, nghe lạ tai, khó chịu, lại thấy nó hài hước vì ý nghĩa không rõ ràng. Dân miền Nam đã dùng chữ bức xúc theo nghĩa nhạo báng, bị bồ bỏ rơi bèn “bức xúc”, khi bị đảng cướp sạch tài sản bằng cách đổi tiền, cũng bức xúc. Bây giờ quý vị thử tìm trên Facebook sẽ thấy nhiều tiếng mới như vậy, con cháu của "bức xúc"! Xin quý vị độc giả đừng phổ biến bài này, bọn Tuyên huấn chúng nó lại cấm các nhà báo, những bạn đồng nghiệp của tôi, không cho ai dùng hai tiếng "bức xúc" nữa!
November 28, 2017
Ngô Nhân Dụng
https://www.nguoi-viet.com
Một ông tiến sĩ đòi sửa ‘Tiếng Việt’ thành ‘Tiếq Việt’ (*)
Người Việt Yêu Nước (Danlambao) - Đất nước VN chúng ta lúc này đang quá đa đoan, người dân như sống trong dầu sôi lửa bỏng với bao nhiêu chuyện sinh tử, mọi người đang điên đầu vỡ óc, lại thêm một anh chàng “thiến sĩ” CS lên cơn điên bất tử, đề nghị sửa đổi chữ Quốc Ngữ, là loại văn tự duy nhất của VN đã tồn tại từ thế kỷ 17, cách đây hàng 400 năm, khiến cả nước rối loạn!
Chữ Việt được hình thành do công lao của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc và nhiều Giáo Sĩ Công Giáo từ Tây Phương sang VN truyền đạo thời đó, đã dày công nghiên cứu, sáng chế, tu chỉnh, hệ thống hóa cho dân ta có một loại chữ viết riêng, để tách ra khỏi ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Tàu chệt. Và cho đến nay, chúng ta đã sở hữu được một kho tàng văn học vô cùng phong phú, với hằng hà sa số những bộ sách quý, những bộ tài liệu giá trị ngàn đời vượt thời gian, những bộ sách lịch sử, khoa học, những tác phẩm văn học, thi ca, truyện tích và cả đạo đức, mà chúng ta hằng trân trọng giữ gìn để cho muôn đời con cháu được học hỏi, được thấm nhuần, được vun đắp, trở nên những con người với đầy đủ kiến thức về nhân bản, kỹ thuật, khoa học và cả văn chương. Ấy thế mà đã từng có những anh trí thức, tiến sĩ CS nổi máu anh… khùng muốn sửa đổi cho nó… “tiến nhanh, tiến mạnh lên XHCN”! Ai cũng biết máu CS là tham danh và tham lợi, kể cả những “trí thức” do CS đào tạo ra, bởi đó trong thời CS cướp nước cướp quyền để cỡi đầu dân Việt, không ít lần có những “thiến sĩ đỏ” từng múa may quay cuồng muốn sửa đổi cả nền văn học VN theo “định hướng XHCN”! CS uốn nắn, biến đổi bản chất con người VN từ thanh cao, nhân nghĩa xuống thành bất nhân thô bỉ và mọi rợ, khiến cả thế giới khinh thường, nay chúng lại muốn sửa đổi cả văn chương chữ nghĩa của dân tộc ta, đẩy chúng ta phải “xuống hố cả nút” (XHCN) nữa sao đây
Nhân vật muốn “một tay xoay cả vũ trụ” đó chính là “thiến xĩ ráo xư” Bùi Hiền, anh ta đề nghị sửa đổi cách viết, “xáng chế” các mẫu tự mới thay cho cách viết cũ của chữ Việt, lấy lý do là để đọc và viết cho nhanh gọn lẹ. Học theo cách của anh thì trẻ con sẽ viết được nhanh hơn, nhà in sẽ gọn nhẹ hơn và… đỡ tốn giấy tốn mực hơn, (ví dụ anh ta đề nghị dùng chữ ‘q’ (một chữ) , thay cho chữ ‘ng, ngh’ (nhiều chữ) khi viết! Tôi không có đủ khả năng và thời giờ để đưa vào đây những bằng chứng về cách thay đổi khùng điên và phá hoại ấy, vì thiết nghĩ các nhà chuyên môn đã đưa lên báo chí quá nhiều và đầy đủ. Tôi chỉ nói lên nỗi bức xúc của một người dân thường trước nạn “quốc phá gia vong” do CS VN gây nên, mà việc này là một, thuộc về lãnh vực văn hóa. Theo những gì anh CS Bùi Hiền lý giải, thì “xáng kiến” này của anh ta được “vận dụng” để đáp ứng cho tình trạng… thiếu hụt tiền bạc, phá sản ngân hàng đang diễn ra trong nước, hầu sớm đưa cả nước tiến… xuống XHCN đói nghèo mạt rệp, vô sản chuyên chính! Té ra là “thiến sĩ” muốn “cắt mạng văn học” để cứu nguy cái “tổ cò” CS, e sắp rớt khỏi cành cây mà lộn cổ xuống ao, vì một trong những lý lẽ anh ta giải thích cho việc “cắt mạng văn hóa” này là để đỡ thời gian học, đỡ giấy bút trong việc biên soạn, in ấn các văn bản, đỡ được tới 20%, lẽ ra phải tốn 100 thì còn 80 chục!
Mọi người dân trong nước và trên toàn thế giới đang hoang mang không biết CS VN định phá tan đất nước thế nào nữa đây! Nhưng câu hỏi nào, vấn đề nào rồi cũng có câu trả lời. Nhiều người nhìn thấy sự điên khùng phi lý của nó (cái cuộc cắt mạng chữ nghĩa của tên Bùi Hiền), thì cho rằng CS đang cơn bĩ cực, rối loạn tơi bời do đấu đá thanh trừng nội bộ và hết tiền tiêu, nên chỉ thị cho tên khùng điên này bày ra cái trò khỉ để cho dân chúng chúi vào đó chửi bới mà quên thực trạng thập phần nguy hiểm cho cuộc sống. Nhưng ông giáo sư Nguyễn Minh Thuyết thì lên tiếng rằng: “Nếu thay đổi như ông Bùi Hiền, thì toàn bộ kho tàng văn học với hàng triệu tác phẩm cũ sẽ biến thành…đồ cổ, các thế hệ sau này khi học theo con đường đề nghị của Bùi Hiền sẽ không thể đọc được các sách vở cũ…”, tôi mới nhận ra rằng: thôi rồi, đây có thể là âm mưu của Tàu cộng, muốn xóa sạch nền văn hóa của ta, để con cháu ta không còn đọc được tư tưởng, đạo đức và nhất là lịch sự của cha ông, để TC đưa vào những tư tưởng phản động, đầu độc con cháu của ta, khiến chúng quên hẳn nguồn gốc, tổ tiên, tinh thần Việt, và dễ dàng đón nhận sự nhào nặn nhồi nhét tư tưởng Tàu, lịch sử văn hóa Tàu! Rồi ông bà cha mẹ sẽ không thể dạy được con cháu mình, vì trở ngại về chữ nghĩa, do cháu con thì không đọc được sách cũ, thế hệ già thì không thể đọc viết theo cách mới mà chúng bị VC bắt học, nguy hiểm và thâm độc vô cùng! Giữa thế hệ già và thế hệ trẻ sẽ bị chia cắt từ văn hóa đến tình cảm, đưa đến gia đình tan nát, xã hội đảo điên, tất cả sách vở cũ bị vứt bỏ vì thế hệ trẻ sẽ không đọc được, còn thế hệ già cũng không đọc được các sách vở mới do không còn thời gian để học, chưa kể các giao tiếp giữa VN và thế giới cũng bế tắc, vì người nước ngoài không đọc hay viết được tiếng Việt mới thì làm sao giao tiếp? Và xã hội mới sẽ tách thế hệ của chúng ta ra khỏi nó: một cuộc đảo điên hỗn loạn chưa từng có, dân tộc VN kể như chấm dứt, như vậy không phải ý định của Tàu cộng thì của ai?
Ngoài ý kiến của ông GS Thuyết, trên đài BBC còn có cuộc hội luận mà diễn giả chính là một nhà ngôn ngữ học VN đang sống ở Anh quốc (xin miễn nói tên), cho nhận định và ý kiến về vấn đề này như sau (tôi chỉ nêu vài điểm chính chứ không thể ghi nhận hết các ý phát biểu của ông): “Tôi ngần ngại nói về điểm tích cực trong đề nghị “sửa chữ Việt” của ông Bùi Hiền, hầu như không có!”. Để đánh giá về “vụ việc kinh khiếp” này, ông nêu lên một trường hợp khác của một “thiến sĩ” CS khác là Nguyễn Lân, từng cho ra đời một “quái thai văn học” là một bộ tự điển tiếng Việt dày hàng ngàn trang, trong đó thu thập và giải nghĩa từ ngữ Việt, ca dao tục ngữ Việt, mà một nhà nghiên cứu khác sau khi đọc xong cũng cho ra một bộ sách hàng ngàn trang tương ứng, ông đã nêu ra sơ sơ hơn 2000 sai lỗi của cuốn tự điển, từ lỗi viết sai chính tả đến lỗi giải thích sai nghĩa tiếng Việt, và cả những câu tục ngữ ca dao viết không đúng, khiến hiểu cũng sai! Một ví dụ được ông nêu lên để chứng minh “tài ngâm cứu” của nhà “học giả” (đúng là học GIẢ chứ không có học THẬT) Nguyễn Lân là câu tục ngữ viết sai: “vịt già, gà TO”, thay vì câu đúng là “vịt già, gà TƠ ”. Dân gian thì nói vịt phải là vịt già, còn gà phải là gà tơ thì thịt mới ngon (chứ gà to và già chẳng ma nào muốn ăn!), trong khi “thiến sĩ” CS thì vừa viết sai TƠ thành TO, vừa hiểu sai ý của cổ nhân! Từ đó nhà ngôn ngữ học Việt đang ở Anh quốc nêu trên mới đánh giá là nhà “ngâm cứu” CS kia đã học… mót ngoài đường, chứ không phải nghiên cứu trong sách vở, và ông kết luận về cuốn tự điển của “thiến sĩ” Nguyễn Lân là: “nếu để lại thì chỉ là một kỷ niệm buồn, đáng xấu hổ cho nền văn học VN, và gây hại cho các thế hệ mai sau”! Một lời nói rất tinh tế và chính xác, nói lên giá trị thật của các trí thức, văn hào, tiến sĩ của VC!
Trở về với anh chàng Bùi Hiền mới đây, nhà ngôn ngữ học nêu trên cũng nhận định: “việc đề nghị sửa đổi ngôn ngữ văn tự của một quốc gia nếu có, phải là việc của chính quyền, và là công trình nghiên cứu của hàng trăm, hàng chục nhà chuyên môn, trong những tháng năm dài chuyên tâm làm việc, rồi mới cân nhắc và đưa ra đề nghị, nhưng không được làm xáo trộn nề nếp cũ, kể cả việc học hành, ấn loát, chứ không phải cái kẻ vô danh tiểu tốt, đơn thương độc mã, mới tòi ở đâu ra, sức kém tài hèn mà tuyên bố ông ổng như vậy được, chưa kể nếu trẻ con học theo đó thì sẽ…phát điên, không thể học được”! Còn về thực tế sẽ không bớt tốn kém chút nào, mà còn phí phạm gấp bội, vì chỉ riêng ngành giáo dục, sẽ tiêu tốn hàng tỷ tỷ để in lại sách giáo khoa, và báo chí sẽ không có ai thèm đọc cái thứ chữ nhố nhăng đó, có đọc cũng không thể hiểu gì! Và còn hàng triệu thứ rắc rối khác trong đời sống xã hội như nhiều bài viết khác đã đưa lên!
Chỉ sơ qua đã thấy rõ cái phi thực, bất khả thi của cái đề nghị quái đản trên. Vì thế hãy miễn bàn thêm những chuyện mông lung, mà chúng ta phải bám sát điểm trọng yếu của nó, đó là mục đích chính của vụ này: Tên Bùi Hiền đã không hề đưa ra được lý do hay cơ sở chính đáng nào để sửa đổi chữ Quốc Ngữ cả! Hắn chẳng qua chỉ là một kẻ háo danh, nên bị VC gian manh lợi dụng chỉ thị cho hắn đưa ra một việc rồ dại, nhưng là đúng ý của VC, đã theo lệnh Tàu cộng mà âm mưu xóa sạch nền văn học, đạo đức, tâm linh cũng như nhân bản của chúng ta từ ngàn đời, được lưu trong sách sử, nhất là xóa sạch lịch sử Việt. Việc vô hiệu hóa toàn bộ sách vở cũ nhằm để xóa quá khứ, khiến đám hậu duệ sau này mất hẳn nguồn gốc, hầu Tàu cộng dễ đồng hóa và xóa sổ toàn dân tộc ta! Đây mới là vấn đề cốt cán cần được mọi người quan tâm.
Nhắn lời đến những tên “tiến sĩ, trí thức, học giả… vô học” CS, có ngu dốt thì đi làm cu li kiếm miếng mà ăn, chứ đừng có viết sách, đề nghị điên khùng gây phiền toái cho nhiều người, làm hại cho dân tộc, và làm nhục quốc thể!
Để giữ nước và bảo toàn giống nòi, toàn dân phải vùng lên quét sạch sớm bọn bán nước và cướp nước, kể cả những bọn tay sai tự nguyện làm công cụ cho CS!
29/11/2017
Người Việt Yêu Nước
DÂN VIỆT MẤT DẠY – VÌ NGHÈO HAY VÌ CỘNG SẢN?
Dân Việt bây giờ là một đám bần nông, khốn nạn, mất dạy, ranh ma, lừa đảo, quỷ quái, lười biếng và khôn vặt.
Vì sao?
Thông thường thì tôi sẽ trả lời là:
"Nghèo đói sinh ranh ma,
Bần cùng sinh đạo tặc".
Vì nghèo quá nên họ vậy thôi. Chừng nào giàu lên thì sẽ khác. Nhưng bây giờ tôi muốn so sánh Việt Nam với Campuchia để cho thấy rằng nghèo chỉ là một phần.
Nguyên nhân chính vì sao dân Việt mất dạy chính là Cộng Sản và CNXH...
Giờ nói về Campuchia. Bỏ qua mấy thống kê nửa mùa một bên. Campuchia vẫn nghèo, nghèo dã man, nghèo kinh khủng, nghèo hơn Việt Nam rất nhiều. Nhưng lạ chỗ này.
1. Dân Campuchia nghèo chết mồ nhưng họ ít khi nào ăn cắp vặt. Bạn có thể thoải mái đi du lịch mà không sợ bị móc túi.
2. Dân Campuchia nghèo dã man nhưng họ ít khi nào chặt chém khu khách hoặc không bao giờ.
3. Dân Campuchia nghèo SML nhưng họ còn không bán đất hay cho thuê với giá rẻ mà không đem lại lợi ích quốc gia gì.
4. Dân Campuchia nghèo chết mẹ ra mà Cảnh Sát Giao Thông bên họ không bao giờ ngoắc xe vô vòi tiền. Nếu xử vi phạm thì họ sẽ xấu hổ nhận tiền phạt hay hối lộ.
5. Dân Campuchia nghèo bỏ bà ra mà họ không bao giờ chơi hóa chất trong đồ ăn. Cơm ở Campuchia ăn rất ngon. Ngon vì nó không có hóa chất.
6. Dân Campuchia nghèo rớt mồng tơi mà dân họ không bao giờ được nổi tiếng là dân "ăn cắp" ở nước ngoài.
7. Dân Campuchia nghèo thấy mẹ mà dân du lịch nào tới cũng viết nhận xét tích cực. Ngược lại, họ chửi Việt Nam như gì.
8. Dân Campuchia nghèo ơi là nghèo nhưng họ không bị xách nhiễu bởi cái hộ khẩu hay cả đống thủ tục hành chính.
9. Dân Campuchia nghèo nhưng con cái không bao giờ tố cáo cha mẹ và anh em không đâm chọt nhau.
10. Và dân Campuchia nghèo nghèo nghèo ơi là nghèo nhưng luôn tự hào và bảo vệ đất nước.
Vậy nghèo đâu phải là nguyên nhân cho sự mất dạy và khốn nạn của dân tộc Việt Nam. Nếu nghèo thì Campuchia cũng phải mất dạy và khốn nạn gấp 10 lần chứ. Nhưng họ vẫn thật thà, hiền lành và tử tế.
Chỉ có một yếu tố khác biệt. Đó chính là Campuchia được cai trị bởi một chế độ "dân chủ 2 xu" hay "dân chủ nửa mùa" còn Việt Nam được cai trị bởi Cộng Sản.
Vậy "Nghèo" không phải là vấn đề, mà chính "Cộng Sản" mới là vấn đề.
Ku Búa
Phát hiện hơn 3.000 trẻ lai Tàu tại Tây nguyên
Theo điều tra riêng, hiện nay tại xã Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng và khu vực Nhân Cơ ở Đắc Nông có khoảng hơn 3.000 trẻ em có cha là công nhân Tàu.
Từ 2007, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đang đầu tư 2 dự án khai thác bauxite (bô-xít) là dự án bauxite Nhân Cơ tại Đắk Nông và dự án bauxite Tân Rai tại Lâm Đồng.
Tổng vốn đầu tư đến tháng 4/2013 của dự án bauxite Tân Rai là 11.612 tỷ, dự án bauxite Nhân Cơ là 6.836 tỷ đồng.
Tổng số công nhân Tàu được thuê sang khai thác bauxite theo nhiều đợt lên tới 10.000 người.
Nhất là tại xã Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng có rất nhiều khu vực dành cho công nhân Tàu cư ngụ.
Công nhân Tàu thuê phụ nữ Việt nấu ăn và làm Osin. Đa số công nhân Tàu muốn có tấm vé ở lại Việt Nam nên tìm quen phụ nữ Việt để sinh con và lập giá thú.
Trong 10 năm qua, sự kiện này lên tới tột đỉnh là con số trẻ em có cha Tàu mẹ Việt Nam đã lên tới con số hơn 3.000 trẻ em.
Hiện nay công nhân Tàu đang yêu cầu nhà nước Việt Nam phải cung cấp cho họ chương trình dạy tiếng Tàu cho các trẻ em này.
--------
Ý KIẾN ĐỘC GIẢ
Đây mới chính là chính sách "thực dân mới" mà trong thời "đánh Mỹ cứu nước" đảng CSVN đã rêu rao để chống sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam cho rằng đó là chính sách đem người Mỹ qua xâm lăng chiếm đất giành dân và thôn tính nước Việt. Nay thì ĐCSVN đã công khai cho phép dân Tàu qua thực dân (tức gieo giống, trồng người Hán) tại Việt Nam và đảng vui sướng được làm nhiệm vụ nuôi con cho Tàu. Thật là nhục nhã và ngu hết biết. Với nạn nhân mãn trai thừa gái thiếu của Tàu Quốc, Việt Nam trở thành một động thiên thai cho bọn đàn ông thiếu gái đến xâm lăng và gieo giống để biến VN thành một nước Tàu nhỏ.
Quả thật Đảng CSVN đã đi theo đúng đường lối mà cựu Bí Thư Nguyễn văn Linh đã tuyên bố : Thà mất nước còn hơn mất Đảng, (thà dân tộc Việt bị Tàu đồng hóa còn hơn là mất Đảng!)
Khẩn cầu trời tru đất diệt cái Đảng CSVN bán nước này !
Kim Hoa Bà Bà
Đăng ngày 06 tháng 12.2017