Đốt sách
BK Tính 323
Tư Mã Thiên là tác giả bộ Sử ký danh tiếng được gọi là Thái Sử Công Thư, có nghĩa là sách của quan Thái sử. Với bộ sử đó, ông được tôn là Sử Thiên, một trong mười vị được tôn thánh trong lịch sử Trung Hoa. Do ông làm chức Thái Sử Lệnh đời nhà Hán, nên gọi Thái Sử Công.
Thái Sử Công Thư là bộ Sử ký do Tư Mã Thiên viết từ năm 109 đến năm 91 trước Công nguyên, ghi lại lịch sử nước Tàu trong hơn 2500 năm, từ thời Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế. Đây là văn bản lịch sử Trung hoa có hệ thống đầu tiên, làm nền tảng cho sử sách, văn chương của nước Tàu sau này.
Trong Thái Sử Công Thư, Tư Mã Thiên có ghi chép rằng:
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư tấu trình: "Xin ban lệnh đốt hủy tất cả sử sách không phải do triều đại nhà Tần ghi chép. Trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư,… tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Lệnh truyền trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xâm mặt và bắt đi xây dựng trường thành".
Lý Tư lo sợ giới trí thức tinh thông lý luận, giảng dạy qua sách vở, dễ dàng dựa vào mà phê phán và khích động quần chúng chống lại thiên triều, chi bằng ra lệnh cấm phát biểu, để thống nhất chính kiến và tư tưởng là chỉ phục vụ cho nhà Tần mà thôi.
Tần Thủy Hoàng y tấu mà ban ngay chiếu chỉ phần thư khanh nho (đốt sách và chôn sống nho sinh).
Qua đó, tất cả những sách vở, triết lý, thi ca, kinh điển... từ thời Chư tử Bách gia đều bị đốt sạch. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình, chôn sống. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chết chém ngang lưng.
Từ lâu rồi, Trung Hoa không còn Tần Thủy Hoàng, nhưng còn có đảng cộng sản cai trị, còn tiếp tục bị đốt sách!
Đảng cộng sản Trung Hoa khởi động Cách mạng Văn hóa vào ngày 22 tháng 8 năm 1966, còn gọi là “phá tứ cựu”: quét sạch tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ của giai cấp bóc lột. Theo đó, Hồng Vệ binh Bắc Kinh tổ chức các cuộc đốt sách rất là quy mô. Khắp nơi trên đất Tàu, hàng “núi sách” to nhỏ đã được mang về chất đống để tiêu hủy.
Gần đây, để chuẩn bị thống trị trọn vẹn lãnh thổ Hong Kong vào năm 2047, cộng sản Tàu cần khống chế tư tưởng người dân trước, nhất là giới trí thức Hong Kong. Thời nay, Trung cộng không thể rình rang công khai thò cánh tay sang Hong Kong để đốt sách như 53 năm trước đây nên đã âm thầm tóm bắt trọn 5 nhà xuất bản tại Hong Kong. Chỉ trong khoảng vài ngày cuối tháng Mười năm 2014. Lui Bo, Gui Minhai, Lui Por, Cheung Chi-ping và Lam Wing-kee lần lượt bị mất tích. Ho bị Trung cộng bắt cóc về giam tại Tàu, vì đã phát hành và chuyển sang Tàu các loại sách về chính trị bị cấm lưu hành trên Trung Hoa lục địa. Trong đó có quyển hồi ký tựa đề “ My Memories” của Chang Kuo-tao, một tướng lĩnh và là người đồng sáng lập đảng cộng sản Tàu, sau đó bỏ đảng và cùng gia đình tị nạn tại Toronto, Canada, năm 1968.
Việt Nam mình thường tự hào là quốc gia có đến mấy ngàn năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa truyền lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì bị đô hộ bởi giặc Tàu đến cả ngàn năm; quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị.
Lại thêm, chính người Việt mình đốt sách của mình!
Tại miền Bắc, từ năm 1954, ngay sau khi cưỡng chiếm Hà Nội,nhà nước cộng sản Việt Nam ra lệnh tịch thu và đốt tất cả các loại sách báo đã in ra từ trước 1954, đồng thời khắt khe kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng. Sau đó, khi chiếm trọn miền Nam, đảng lại ban hành chiến dịch đốt sách tại miền Nam vào năm 1975.
Qua tập “Hồi ký của một người Hà Nội”, tác giả Nguyễn Văn Luận ghi lại đoạn đời sau cùng của một học sinh và sự kiện đốt sách năm 1954 khi nhà nước cộng sản khởi đầu cai trị miền Bắc:
“… Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi :
- Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!
Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và… ”tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ mới này ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành…
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.
Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm” và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là… “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo, cảnh giác, lập trường...”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện“ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường” miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, …đi tù!…”
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30-4-1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch "Bài trừ văn hóa đồi trụy - phản động". Tự câu khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ hai mục đích: trước hết về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và kế đến là về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là “đồi trụy theo hình thức tư bản”.
Tờ báo tên là Sài Gòn Giải phóng phát hành ngày 25-5-1975 có đăng bài viết về “khí thế ra quân” mở màn cho chiến dịch “vô cùng sôi nổi” này:
“Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hóa ngoại lai đồi trụy mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay.
Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, đồng bào và các tiệm sách đã tự nguyện đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật - Sài Gòn 3, đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ văn hoá đồi trụy phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.
Trong Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê – tập III, tác giả có kể lại chuyện đốt sách của nhà cầm quyền cộng sản tại miền Nam như sau:
“Năm 1975. Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là ra lệnh: Hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy!
Kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyển Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. (…)
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý…
Một luật sư, tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà,chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho Sở Thông tin Văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông Tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông Tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo:
- Hủy hết, hủy hết!
…
Sau khi chiếm được miền Nam, một trong những việc làm cấp thiết của nhà cầm quyền cộng sản là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong, cấm lưu hành và đem đốt bỏ.
Đốt sách được đề cao là chánh sách “bài trừ văn hóa đồi trụy”!"
Trong tập Hồi Ký Viết Trên “Gát Bút”, nhà văn Nguyễn Thụy Long có ghi lại chuyện “đốt sách” thật đau lòng tại miền Nam:
“Tôi gặp vợ chồng anh nhà báo Nguyễn Khắc Giảng bày bán sách cũ ở trên đường Tự Do. Trong đó có cả những cuốn sách của tôi của Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy và rất nhiều loại khác của nhiều tác giả. Những sách báo đó đều xuất bản ở miền Nam trước năm 1975. Tất cả đều bị coi là có tội. Tác giả của nó đương nhiên có tội nhiều hơn. Cả miền Nam nói chung, thành phố nói riêng vắng bóng dần những mặt quen: văn nghệ sĩ, sĩ quan quân đội Cộng hòa. Họ đi học tập cải tạo hết ráo!
Chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy, phản động nổ ra ở Sài Gòn. Hàng vạn vạn cuốn sách bị thiêu đốt. Sách báo trong nhà tư nhân bị lôi ra hỏa thiêu. Trong các cửa hàng kinh doanh sách báo bị thu gom tất cả, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp, cả con người những cá nhân. Các em nhỏ đeo băng đỏ thi hành công tác một cách vô tư mẫn cán. Phản ứng của người bị tội tất nhiên phải có.
Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Năm 1823, Heinrich Heine, văn hào người Đức, có viết:
"Dort wo man Bücher verbrennt, verbrennt man auch am Ende Menschen" (Where books are burned, in the end, people will also be burned).
Một thế kỷ sau, năm 1933, sinh viên học sinh Đức vâng lệnh Nazi,phát động chiến dịch toàn quốc tịch thu và đốt sách. Thiêu hủy tất cả những tư tưởng trái nghịch với chủ nghĩa Nazi. Và rồi, sau cùng, kẻ ra lệnh đốt sách cũng đã đốt cả con người. Sáu triệu người, hầu hết là người Do Thái, đã bị đốt cháy trong các lò thiêu người. The Holocaust!
Chủ trương “Đốt sách, Chôn nho” của Tần Thủy Hoàng là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì dân tộc Hán mà cả nhân loại đều lên án.
Thế nhưng, mới năm trước đây, báo mang tên Trí Thức VN, ngày14 tháng 4, đã bênh vực cho thủ đoạn đốt sách giết người của bạo quyền, với bài viết có tựa đề là “Đốt sách chôn Nho: Nỗi oan nghìn năm của Tần Thủy Hoàng”.
Ôi! “Ðỉnh cao trí tuệ”…!
Thật ra, sâu tận trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư và tất cả các bạo quyền chủ trương “đốt sách” như đảng Nazi của Đức Quốc Xả, các đảng cộng sản Nga, Tàu, và Việt Nam đều biết rất là rõ rằng:
Đốt sách không thể nào thiêu hủy được tất cả tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách “khó đốt” nhất lại nằm trong tinh thần con người!
BK Tính 323
"Tự Lực Văn Đoàn" là một gánh cải lương?
Mặc Lâm (RFA)
Ngày 9 tháng 1 năm 2007, trong trò chơi “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3 Hà Nội, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương trình là cô NguyễnThị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.
Câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”
Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:
– Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.
– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?
– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.
– Chị muốn gọi cho ai?
– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.
Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:
– Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.
– Chắc chắn không anh?
– Chắc trăm phần trăm.
– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.
– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.
– Chị quyết định như thế?
– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.
– Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruộtnhà văn Nhất Linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham dự chương trình.
Tự Lực Văn Đoàn. (Photo : RFA)
Câu chuyện về cô giáo giảng viên trường Đại học sư phạm thành phố Thái Bình thật ra không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam bởi lẽ chương trình giáo dục không hề có bốn chữ Tự Lực Văn Đoànmặc dù đây là một nhóm tác giả quan trọng bậc nhất trong nền văn học hiện đại của Việt Nam. Điều làm cho Tự Lực Văn Đoàn bị gạt ra khỏi dòng văn học là chủ trương chính trị của nó. Nguyễn Tường Tam, thủ lãnh của nhóm cũng là một chính khách với quan điểm chính trị đi ngược lại hoàn toàn quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đổi mới văn học, nâng cao dân trí, chống cường quyền phong kiến, bài thực dân, trong đó không quên những người cùng khổ và bị áp bức dưới bất cứ hình thức nào. Sức mạnh của Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu từ sự ủng hộ của trí thức tiểu tư sản sau đó lan rộng trong quần chúng bình dân và ảnh hưởng trực tiếp tới nền báo chí An Nam đang có xu hướng hòa nhịp cùng đời sống đô thị.
Chẳng những tại miền Bắc, Tự Lực Văn Đoàn bị cấm xuất hiện nhưng sau năm 1975 ngay cả khi hai miền Nam Bắc đã hoàn toàn thống nhất thì số phận của nó cũng không may mắn gì hơn, vẫn bị vùi dập, che dấu và cấm đoán ngay trong từng tù sách gia đình. Những tên tuổi như Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Hoàng Đạo… hoàn toàn biến mất trong mái trường xã hội chủ nghĩa, mãi tới hơn hai mươi năm sau một vài tác phẩm của họ mới được in lại từ những chiếc máy in của nhà nước với nội dung bị cắt xén cho vừa với tầm nhìn của cách mạng vô sản, vốn bất đồng với các tác giả này.
Aki Tanaka
Vậy mà từ nước Nhật xa xăm, lại xuất hiện những con người yêu văn hóa Việt Nam trong đó Tự Lực Văn Đoàn được nhắc tới như một dấu son của nền văn học Việt. Một trong những người ấy là cô sinh viên Aki Tanaka.
Từ Tokyo, Aki Tanaka đã lặn lội tới Việt Nam, tìm hiểu về Tự Lực Văn Đoàn với mục đích học chữ Việt để rồi mê đắm nó đến nỗi bỏ hơn 13 năm theo dõi, nghiên cứu, viết tham luận rồi luận án về Tự Lực Văn Đoàn. Aki đã bay sang Hoa Kỳ nơi có khá nhiều tư liệu lẫn thân nhân của các tác giả để từ đó thấy yêu mến thêm nhóm tác giả đặc biệt này.
Mặc Lâm có duyên may gặp Aki Tanaka tại California trong lần cô sang Mỹ tìm kiếm thêm tư liệu về nhà văn Khái Hưng, người mà Aki Tanaka đặc biệt yêu thích. Cuộc phỏng vấn ngắn nhằm mang cô sinh viên người Nhật này tới gần với người Việt Nam hơn bởi cô đáng được người Việt mở lòng ra đón nhận như một người bạn chân thành của văn hóa Việt.
Mặc Lâm: Aki Tanaka, trước tiên cho biết thời gian đầu cô tới Việt Nam.
Aki Tanaka: Khoảng năm 2000 khi sang Việt Nam tôi đã gặp ông Huy Tưởng thì ông ấy nói nếu Aki muốn học tiếng Việt thì nên tìm đọc Tự Lực Văn Đoàn để biết được tiếng Việt chính xác cho nên tôi đã tìm mua các cuốn sách về Tự Lực Văn Đoàn. Ban đầu thì tôi không hiểu hết, chỉ hiểu sơ sơ thôi nhưng mà đã cảm thấy tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn rất hay cho nên tiếp tục mua sách Tự Lực Văn Đoàn. Ước mơ của tôi là muốn nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn nhưng lúc đó cảm thấy là điều thực tế chỉ là ước mơ thôi.
Mặc Lâm: Aki vừa nói là tìm mua những cuốn sách Tự Lực Văn Đoàn trong nước, không biết là sách cũ đã được in từ xưa hay những cuốn vừa được in lại trong nước?
Aki Tanaka: Tôi chỉ mua được sách tái bản thôi lúc đó không để ý là sách của nhà nước in hay sách cũ nó có gì khác nhau hay là sự khác biệt như thế nào cho nên chỉ mua được sách tái bản thôi.
Mặc Lâm: Sau này khi nghiên cứu sâu về Tự Lực Văn Đoàn thì Aki có thấy sự khác biệt nào giữa bản in gốc và bản in đã được in lại sau năm 1975 và nếu có thì những khác biệt ấy có quan trọng không?
Aki Tanaka: Dạ có. Tôi có học với thầy giáo người Nhật thì thầy này sử dụng sách cũ là sách trước 75 còn tôi thì cầm sách tái bản mới. Cuốn tôi thất vọng nhất là cuốn "Đời mưa gió". Khi hai người đọc chung với nhau thì chúng tôi phát hiện sách tái bản và sách gốc nó khác biệt nhau. Tôi thấy nếu mình nghiên cứu văn học Việt Nam mà có sự khác biệt quá nhiều như thế này, mà mình là người phân tích mà tài liệu sai thì rất nguy hiểm cho việc nghiên cứu của mình.
Mặc Lâm: Khi Aki sang Mỹ để tìm gặp thân nhân những người trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì Aki đã gặp được ai và câu chuyện gặp gỡ ấy như thế nào?
Aki Tanaka: Hai năm trước có một buổi hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Mỹ lúc đó gia đình con cháu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn tập họp lại cho nên lúc đó tôi gặp được nhiều người nhưng lúc đó tôi không có dịp nói chuyện nhiều với họ. Tháng Ba năm nay tôi có dịp thăm riêng ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của ông Khái Hưng và Nguyễn Tường Thiết là con trai út của ông Nhất Linh. Tôi đã thăm được hai người này.
Mặc Lâm: Về ông Nguyễn Tường Thiết là con ruột thì đã đành rồi riêng về ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của Khái Hưng thì Aki có nắm vững những nhận định hay lời kể lại của ông Triệu có chính xác và phù hợp với những gì Aki tìm hiểu không?
Aki Tanaka: Aki cũng biết được sơ sơ thôi vì lúc ông Khái Hưng mất thì ông Triệu còn rất nhỏ cho nên ông Triệu không biết gì nhiều. Tuy nhiên ông Triệu có cung cấp một số tài liệu cho Aki.
Mặc Lâm: Trong khi nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn và có dịp gặp gỡ hay thông qua tư liệu thì tác già nào trong nhóm làm cho Aki ấn tượng và yêu thích nhất?
Aki Tanaka: Tôi rất thích ông Khái Hưng. Lý do ông là người có tư tưởng sâu sắc nhất trong Tự Lực Văn Đoàn cho nên đọc tác phẩm của ông thì thấy rất hay.
Mặc Lâm: Nhưng rất nhiều người cho rằng ông Nhất Linh là người lãnh đạo của nhóm và là linh hồn của Tự Lực Văn Đoàn… Aki thấy thế nào về tác phẩm của ông?
Aki Tanaka: Theo tôi thì Nhất Linh là một người hành động, ông có cái ý tưởng cách mạng tuy nhiên so với ông Nhất Linh thì ông Khái Hưng là người suy nghĩ và theo sự tìm hiểu của tôi thì ông Khái Hưng không quan tâm mấy đến chính trị.
Mặc Lâm: Trong một thời gian khá dài sống ở Việt Nam Aki quan sát và thấy giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là sinh viên khoa văn họ có chú ý tới Tự Lực Văn Đoàn hay không?
Aki Tanaka: Tôi thấy họ không chú ý đâu. Tôi nói chuyện với bạn bè đồng nghiệp với cái ý là tôi thích Tự Lực Văn Đoàn nhưng bạn bè đồng nghiệp của tôi lại không biết Tự Lực Văn Đoàn là ai nữa! Bây giờ ở Việt Nam không giảng dạy tác phẩm của nhóm này cho nên không ai biết, không được ai quan tâm đến.
Mặc Lâm: Có một thời gian rất dài Aki đã sang Mỹ tiếp xúc với người viết văn hay hoạt động văn hóa… Aki thấy họ có còn tha thiết khi nói về Tự Lực Văn Đoàn nữa hay không hoặc thời gian đã quá lâu khiến họ dần dần quên Tự Lực Văn Đoàn luôn, không giống như cách đây 40 năm?
Aki Tanaka: Do tôi tiếp xúc với nhiều người làm văn nghệ cho nên họ thường bảo rất còn quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn và họ muốn bảo tồn tác phẩm của nhóm này cho con cháu để sau biết được việc làm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho đời sau. Tôi cảm thấy như vậy
Mặc Lâm: Aki cũng có bạn bè người Nhật yêu mến văn hóa Việt Nam trong số họ có ai nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn như Aki hay không?
Aki Tanaka: Thầy cũ của tôi đã nghỉ hưu rồi ông ấy hồi trước cũng có nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn trong trường đại học của tôi và ông cũng đã dạy Tự Lực Văn Đoàn cho sinh viên Nhật. Nhưng bây giờ vị giáo sư mới không quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn nên không dạy nữa cho nên sinh viên không biết gì về Tự Lực Văn Đoàn nữa.
Mặc Lâm: Một lần nữa xin cám ơn Aki Tanaka rất nhiều và hy vọng những công trình nghiên cứucủa Aki về Tự Lực Văn Đoàn sẽ mang lại nhiều kết quả mong đợi.
2015-09-05
Mặc Lâm (RFA)
Đăng ngày 21 tháng 09.2019