ĐH Fulbright VN & Tôn nữ thị Ninh
Xin hỏi bà Ninh Tôn nữ: động cơ nào...
Cánh Cò- Blog RFA
Ông Obama đến Việt Nam mang theo hai món quà, thứ nhất là bỏ cấm vận vũ khí sát thương, thứ hai là Đại học Fulbright Việt Nam.
Món thứ nhất cần phải mua, còn món thứ hai hoàn toàn biếu không từ ngân sách của Quốc hội Mỹ và các nguồn tài trợ do vận động gây quỹ của các tổ chức hay tư nhân tại Mỹ. Trường được vận hành phi lợi nhuận, không có cổ đông và vì vậy không có việc chia lãi cho người góp vốn xây dựng ngôi trường này. Trường được huy động vốn hoạt động qua một quỹ tín thác và Chủ tịch Hội đồng Quản trị Fulbright Việt Nam được giao cho ông Bob Kerrey.
Trên danh nghĩa ông Bob Kerrey là người trực tiếp vận động để quỹ này có tiền và có lẽ danh tiếng của ông mới là yếu tố quan trọng nhất để được chọn làm công việc khá nhiêu khê nhưng không lương này.
Nhìn tổng quát thì trường Đại học Fulbright Việt Nam là mô hình đáng ghi nhận thiện chí của người Mỹ và chính phủ Mỹ. Từ nhiều năm qua, chính phủ Mỹ đã đào tạo cho Việt Nam rất nhiều TS để trở về làm việc tại Việt Nam. Chữ Fulbright trên văn bằng của họ là niềm kiêu hãnh không cần che dấu. Những đóng góp của các chương trình Fulbright rất thiết thực cho hoàn cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hòa nhập vừa qua và không ai có thể nghi ngờ kết quả mà Fulbright mang lại cho Việt Nam.
Đó là những học bổng đơn lẻ và con số sinh viên Việt Nam được học bổng có thể nói đếm trên đầu ngón tay hằng năm. Trường Đại học Fulbright mở ra tại Việt Nam sẽ thu hút số sinh viên đáng kể và nó chính là làn sóng giáo dục mới thúc đẩy ước mơ cho giới trẻ Việt Nam và ngôi trường này sẽ nhanh chóng làm đối trọng cho những ngôi trường khác, công hay tư, phải xem xét lại chính mình.
Tuy nhiên sau một lúc phấn khởi, một vài nhân vật trí thức Việt Nam lại bày tỏ sự không hài lòng khi biết được rằng ông Bob Kerrey, người được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Fulbright Việt Nam lại có tì vết trong cuộc chiến Việt Nam. Cụ thể ông đã chỉ huy một toán biệt kích hải quân tập kích vào Thạnh Phong, một ấp nhỏ thuộc tỉnh Bến Tre và giết chết 24 người trong đó có 14 phụ nữ, trẻ em và một người già.
Ông Kerrey xác nhận mình là người chỉ huy mặc dù ông không giết người nào trong số này. Thế nhưng trong bao năm qua ông đã nỗ lực làm mọi việc để giúp Việt Nam và hơn hết là giúp cho chính ông thoát được ám ảnh về cuộc hành quân đó.
Trong các trí thức chống lại ông, nổi cộm lên là phát biểu gay gắt hơn ai hết của bà Tôn Nữ Thị Ninh. Tuy cố chứng minh là bà quen biết khá nhiều người Mỹ và không hề thành kiến nhưng bà đặt câu hỏi về lòng hối hận của ông Kerrey và yêu cầu ông nên rút lui khỏi Fulbright.
Trả lời báo chí bà nói: “Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ”.
Hãy nhìn lại cách mà bà Ninh phán xét. Thứ nhất bà cho rằng không ai chứng nhận được sự hối hận vì nó nằm trong lòng của ông Kerrey. Như vậy là bà cực đoan và nguy hiểm. Cực đoan, vì là một trí thức, lại là “trí thức lớn”, trước khi phán xét bà phải biết thế nào là research, tham khảo mọi nguồn từ con người cho tới tài liệu xem người mà bà nghi ngờ có được chứng minh ngược lại hay không. Nguy hiểm, vì sự nghi ngờ xem ra có cơ sở ấy lại là mảnh đất màu mỡ cho lòng tị hiềm có cơ hội trồi lên trước khi niềm hy vọng về một nền giáo dục đầy tiềm năng đơm hoa kết trái.
Bà Ninh từng vận động thành lập ngôi trường mang tên Đại học Trí Việt nhưng sau nhiều năm xin hết đầu này tới đuôi nọ, nguồn tài chánh từ nước ngoài vẫn là giấc mơ, cùng lúc hồ sơ thành lập trường vẫn nằm trong ngăn kéo của các cơ quan trách nhiệm. Bà đã quá rõ vai trò của người vận động cho số tiền lớn và liên tục mỗi năm không phải là việc dễ dàng. Trong lập luận chống đối ông Bob Kerrey bà không ngại dùng hạ sách: “hôn nhân dị chủng”.
Bà nói: “Nếu phía Mỹ khăng khăng giữ quyết định của mình, thì đối với tôi, không còn có thể coi đây là một dự án chung như nhóm sáng lập vẫn khẳng định. Vì rằng như trong một cuộc hôn nhân, hai bên cần phải lắng nghe, tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của nhau”
Cuộc hôn nhân đã thành hình, đã ký giấy hôn thú, đã nhận của hồi môn từ Mỹ, đã tiệc tùng liên tục tại Hà Nội lẫn Sài Gòn vậy mà bà Tôn Nữ Thị Ninh lại cho rằng không thể coi đó là dự án chung, và bà thất vọng.
Bà có quyền thất vọng, và có lẽ đó là cái quyền “hợp lý” nhất dành cho bà. Bởi lẽ khi bà nghi ngờ một con người ở phía bên kia cuộc chiến có thật tâm hối hận việc họ tàn sát người dân Việt Nam hay không, thì người Việt cũng có quyền đặt câu hỏi về sự hối hận của những người bà gọi là đồng chí, họ có hối hận về các vụ thảm sát người dân Việt trong cuộc chiến hay không.
Bà là người Huế, là danh gia vọng tộc, lại là một cán bộ ngoại giao, văn hóa cao cấp sao lại không biết vụ thảm sát Mậu thân với bao nhiêu cái chết oan khuất mà đến nay chưa một ai lên tiếng nhận trách nhiệm về mình như ông Bob Kerrey nhận tại Thạnh Phong?
Bà có biết trong trận chiến cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh vào sáng ngày 21-4-1975, tại ấp Phú Mỹ, xã Tân Lập, huyện Xuân Lộc (nay là ấp Phú Mỹ, xã Xuân Lập, thị xã Long Khánh), một cuộc tàn sát tập thể do các “anh lính cụ Hồ” gây ra làm hơn hai trăm thường dân thiệt mạng oan khốc. Cựu chiến binh Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 QĐNDVN đã là chứng nhân cho cuộc thảm sát này và quan trọng nhất: anh ta vẫn còn sống.
Giữa những cuộc thảm sát có mục đích ấy, theo bà ai cần sám hối hơn ai? Người chỉ huy trận đánh Xuân Lộc hay ông sĩ quan Bob Kerrey?
Chỉ cần hai câu chuyện này thôi bà nên nghiên cứu lại để lần sau có phát ngôn thì nên kiệm lời.
Nước Việt luôn có những bài học tươi rói hàng ngày, bởi khi bà vừa phát biểu xong thì VTV lại có chương trình “động cơ nào….” Để nói về vụ cá chết.
Giống như “chị” Tạ Bích Loan, tôi muốn hỏi nhỏ bà: Động cơ nào khiến bà gay gắt một cách khó hiểu đối với ông Bob Kerrey như vậy? Và động cơ nào khiến một người ham nói như bà lại im lặng trước hàng ngàn cái chết từ từ ngay tại quê hương Huế của bà sau khi vụ Vũng Áng xảy ra làm người dân lo tái mặt?
Cánh Cò
Tôn Nữ Thị Ninh, đại biểu xuất sắc
của “trí thức xã hội chủ nghĩa”
Trần Trung Đạo
Khi phê bình đảng CS, có người mạnh miệng nhận xét “Đảng CS thực tế chỉ là một đảng Mafia”. Ý nói đảng CS chỉ là tổ chức tội ác giết người cướp của trên một tầm vóc quốc gia chứ chẳng còn ý thức hệ CS như thời Liên Xô chưa tan rã. Thật ra, nói vậy không đúng và nếu có cũng chỉ một góc cạnh “giết người cướp của”. Nếu đảng CS là đảng Mafia thì đã sụp đổ lâu rồi.
Định nghĩa đúng nhất cho trường hợp chế độ CS Trung Cộng và Việt Nam là định nghĩa của giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard khi ông gọi là chủ nghĩa CS hiện nay là một loại chủ nghĩa Lenin không có Marx.
Chủ nghĩa Lenin do hai bộ phận cấu thành (1) một nhà nước chuyên chính sắt máu và (2) tuyên truyền lý luận tư tưởng tinh vi.
Bộ phận nhà nước chuyên chính rất rõ nét và gần như ai cũng thấy, nhưng đảng CS không tồn tại chỉ bằng nhà tù sân bắn mà còn được che chở bằng một hàng rào lý luận tuyên truyền vô cùng tinh vi thâm độc. Tuyên truyền là cột xương sống của chế độ CS. Như người viết đã có dịp trình bày trong những bài trước, sau cách mạng CS Nga 1917, công việc đầu tiên Lenin là thành lập cơ quan tuyên truyền Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính ông ta đích thân lãnh đạo. Tại Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.
Tầng lớp “trí thức xã hội chủ nghĩa”
Bộ máy tuyên truyền sẽ không chạy được nếu thiếu đi một tầng lớp có học, có địa vị xã hội tự nguyện làm xăng nhớt. Thành phần đó gọi chung là “trí thức xã hội chủ nghĩa”.
Trước khi viết tiếp, người viết xin dừng lại ở đây để bày tỏ lòng biết ơn dành cho những trí thức chân chính và xứng đáng được kính trọng. Họ là những người có trình độ văn hóa giáo dục cao, những văn nghệ sĩ đang công khai hay âm thầm tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, tốt đẹp, tự do và dân chủ trong điều kiện và hoàn cảnh riêng của họ. Họ không thuộc thành phần mà người viết sắp bàn.
Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” chia sẻ ba đặc điểm chung: (1) có học, khoa bảng (2) chủ nghĩa cơ hội, (3) bồi bút, uốn lưỡi bảo vệ đảng trung thành.
Một đại biểu xuất sắc trong tầng lớp này và có đủ ba đặc điểm vừa nêu là bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh thỏa mãn đặc điểm thứ nhất dễ dàng vì bà thuộc thành phần khoa bảng, mang họ hoàng tộc. Phần lớn thời tuổi trẻ của bà lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa và được đi du học tại các trường nổi tiếng tại Pháp, Anh. Bà về nước dạy đại học Sư Phạm Sài Gòn và từng là Phó Ban Anh Ngữ của trường.
Trong thời gian ở Pháp, bà Ninh quen biết các thành viên của phái đoàn CS “Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” và phụ giúp công việc phiên dịch tại những buổi gặp gỡ không chính thức của họ. Như bà kể lại trong bài báo Paris: 'Vườn ươm' lực lượng, bà “không được chứng kiến các cuộc đàm phán chính thức”, phần lớn những gặp gỡ đều qua trung gian của các “hội yêu nước” và được bà Nguyễn Thị Chơn, vợ ông Trần Bạch Đằng, “bồi dưỡng chính trị”. Thành phần có học nhưng bị lá bùa “độc lập, tự do” của CS mê hoặc tại Pháp thời đó rất nhiều như bà thừa nhận với phóng viên Hoàng Thi trên báo Nhân Dân “tại Pháp, tôi đã tham gia phong trào phản chiến đang diễn ra rất sôi nổi nơi đây”.
Sau 30-4-1975, bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng chỉ sinh hoạt trong “Hội trí thức yêu nước” như phần lớn các nhà giáo, văn nghệ sĩ thuộc “thành phần thứ ba” ở Sài Gòn như Lý Quí Chung, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, nữ nghệ sĩ Phùng Há, nhà báo Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba chứ không đóng vai trò gì quan trọng. Thành phần này, trong đó có bà, được đảng thưởng công bằng chuyến “tham quan” các nước CS như Lý Quí Chung kể lại trong hồi ký của ông ta.
Đường công danh dưới chế độ CS của bà Ninh chỉ thật sự bắt đầu khi tình cờ gặp ông Xuân Thủy năm 1978. Từ đó, trong giai đoạn giao thời đảng đang cần người có khả năng giao tiếp với thế giới mà họ chưa từng biết qua, và bà nắm lấy cơ hội. Không giống như những người CS theo đuổi mục đích CS, vào tù ra khám hiến thân cho canh bạc của cuộc đời họ, bà chỉ là một kẻ cơ hội chủ nghĩa.
Hai đặc điểm, khoa bảng và chủ nghĩa cơ hội nói trên, dù không mấy tốt đẹp, cũng chỉ có tính cách cá nhân và không phải là tội ác, đặc điểm bồi bút trung thành và uốn cong ba tấc lưỡi để bảo vệ đảng CS của bà Ninh mới thật sự là một tội ác trí thức vì đã gây tác hại đến nhiều người. Dưới đây là vài ví dụ chứng minh bà Ninh bẻ cong ngòi bút.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh và nguyên tắc dân chủ kiểm soát và cân bằng (checks and balances)
Trong Tạp Chí Cộng Sản số tháng 6, 2007, bà Tôn Nữ Thị Ninh viết về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam: “Cần có một cơ chế "đối trọng" (phương Tây gọi cơ chế này là checks and balances). Đối trọng của ta là trong phạm vi chế độ, là sự kiểm tra giám sát của các đoàn thể quần chúng, chứ không phải là đối trọng về chính trị. Quốc hội có vai trò, tư pháp cũng phải độc lập, đoàn thể phải vào cuộc, nếu không hệ thống chính trị của ta sẽ không có cơ chế tự điều tiết.”
Hẳn nhiên, với trình độ giáo dục cao và tiếp cận nhiều với sinh hoạt chính trị dân chủ Âu Châu trước đây, bà Ninh biết rõ khái niệm kiểm soát và cân bằng (checks and balances) nhằm sự kiểm soát lẫn nhau để giữ sự cân bằng và công bằng giữa các ngành trong các chế độ dân chủ pháp trị. Nguyên tắc này ra đời nhằm giới hạn quyền hành của chính phủ (hành pháp) thường rất dễ bị lạm dụng. Sự đối trọng giữa các ngành trong cơ chế chính trị chỉ hữu hiệu khi các ngành đó có được sự độc lập về quyền hạn và trách nhiệm. Một sinh viên lấy lớp chính trị học nhập môn cũng nắm vững định nghĩa căn bản đó.
Thế nhưng bà uốn cong định nghĩa “checks and balances” giữa các ngành trong chế độ dân chủ pháp trị thành một khái niệm giữa quần chúng (không có tiếng nói) và nhà nước (nắm hết quyền lực). Tại Việt Nam ai đối trọng với ai, ai kiểm soát ai và ai cho phép tạo nên sự cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị bị chỉ đạo bởi một đảng duy nhất là đảng Cộng sản?
Một người có hiểu biết căn bản nào cũng trả lời được, dưới chế độ CS không ai, không một tập thể, không một thành phần nhân dân nào đứng trên quyền lực của đảng CS. Thời gian 2006 bà Ninh là “Đại biểu Quốc hội” đơn vị Vũng Tàu và hơn ai hết bà biết chức “Đại biểu Quốc hội” của bà chẳng phải do người dân Vũng Tàu nào tự nguyện bầu bà lên mà chỉ là hư danh do đảng CS trả công cho bà.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh chống đối Bob Kerrey
Theo phóng sự điều tra của Gregory L. Vistica trên New York Times phát hành ngày 25 tháng Tư, 2001, vào đêm 25 tháng Hai, 1969, đội SEALs (đơn vị đột kích tinh nhuệ của hải quân Mỹ viết tắt của chữ Sea, Air and Land Teams) dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Bob Kerrey, 25 tuổi, tiến vào làng Thạnh Phong với mục đích tiêu diệt một phiên họp của Việt Cộng với sự tham gia của một lãnh đạo quân sự. Sau khi thanh toán mục tiêu thứ nhất bằng dao để khỏi lộ mục tiêu, đơn vị SEALs bị trong làng bắn ra. Với tin tức tình báo nhận được, đội SEALs đinh ninh một phiên họp của lãnh đạo CS cao cấp đang diễn ra và đã bắn trả quyết liệt. Đừng quên, lúc đó đã sau 9 giờ tối trong một đêm không trăng tại ngôi một làng hẻo lánh tối tăm chứ không phải trưa ban ngày giữa đồng rộng hay đường lớn để có thể nhận diện dễ dàng. Bob Kerrey kể lại ông ta không thấy ai hết. Khi phản công chấm dứt, toán SEALs tiến vào các chòi lá và hình ảnh mà Bob Kerrey sẽ nhớ đến giờ chết là không có một chỉ huy Việt Cộng nào mà chỉ toàn là thường dân, đàn bà và trẻ con bị giết. Tuy nhiên, Gerhard Klann, một đội viên SEALs dưới quyền Kerrey kể khác rằng trong chòi lá thứ nhất không chỉ có đàn ông mà còn có đàn bà và trẻ em, và chính Bob Kerrey không những ra lịnh mà còn tham gia vào việc giết những người trong chòi lá thứ nhất. Lời kể của Klann trùng hợp với kể của nhân chứng Việt Nam Pham Tri Lanh. Bob Kerrey không đồng ý với Klann nhưng nhận lỗi lầm với tư cách chỉ huy. Các đội viên khác có người ủng hộ lời kể của Bob Kerrey và có người từ chối trả lời. Nói chung các lời kể rất rời rạc, trước sau không thống nhất. Kerrey nhắc lại nhiệm vụ chính của các toán SEALs là tiêu diệt một mục tiêu được giao phó và nhiệm vụ của đội SEALs vào làng Thạnh Phong đêm đó là tiêu diệt chứ không phải bắt tù binh.
Sau khi bị thương và giải ngũ về nhà, Kerrey kể lại thảm sát Thạnh Phong cho mẹ nghe và mẹ ông ta khóc.
Với nhiều người khác, biến cố là một tai nạn giết lầm, đổ thừa cho tình báo, cho cấp chỉ huy, cho chiến tranh và rồi ăn ngon ngủ kỷ. Nhưng với Bob Kerrey, lương tâm ông bị cắn rứt và đã làm rất nhiều trong lãnh vực giáo dục để xoa dịu vết thương giữa hai dân tộc cũng như đau đớn tinh thần của riêng ông. Với kinh nghiệm chín năm làm chủ tịch của New School University ở New York, ông hy vọng sẽ áp dụng những vốn liếng đó vào việc lãnh đạo Fulbright University Vietnam và nâng trường lên đẳng cấp quốc tế. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng nhấn mạnh yếu tố chuyên môn kết hợp với tình cảm cá nhân trong diễn văn đầy tinh thần hòa giải của ông khi giới thiệu Fulbright Vietnam. Bob Kerrey với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, một cựu Thượng Nghị Sĩ, cựu ứng cử viên tổng thống, nhà chính trị có quan hệ rộng rãi với chính giới Hoa Kỳ và gắn bó tinh thần với Việt Nam xứng đáng để lãnh đạo Fulbright University Vietnam.
Thay vì thuận theo tinh thần hòa giải được khơi dậy trong diễn văn của Ngoại trưởng John Kerry và mở rộng hơn cánh cửa giáo dục cho các thế hệ Việt Nam, máu cơ hội ”chống Mỹ cứu nước” trong bà Tôn Nữ Thị Ninh sôi sục lên và bà phán: "Ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này không thể chối cãi và chính ông Kerrey cũng thừa nhận. Có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều mức độ khác nhau, cả phía Việt Nam và phía Mỹ. Nhưng một điều chắc chắn, sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó."
Khi nhắc đến câu “không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật”, không biết bà có nhìn quanh thử mình đang sống ở đâu không. Bà đang sống trong một đất nước mà nơi đó sự thật chỉ là chiếc bánh tuyên truyền rẻ tiền và hư thối đến nỗi một đứa bé đói khát cũng không thèm cầm lấy. Chắc bà không lạ gì những nhãn hiệu “Nhà Xuất bản Sự Thật”, “Báo Sự thật” v.v...
Nếu bà thật sự quan tâm đến sự thật và căm ghét những kẻ đã giết dân vô tội, hãy về Huế một lần trong dịp Tết để hỏi thăm đồng bào Huế của bà những ai là kẻ giết người và những ai là người có thân nhân bị giết, không phải 24 người mà nhiều ngàn người. Những kẻ chôn sống nhiều ngàn dân Huế không nói tiếng Anh như Bob Kerrey mà có một giọng nói rất giống bà.
Nếu bà quan tâm đến sự thật hãy tìm đến các “Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân” và hỏi họ đã giết bao nhiêu “Mỹ Ngụy” còn mặc tả ở nhà hàng Mỹ Cảnh, bao nhiêu mái đầu xanh ở rạp hát Kinh Đô, bao nhiêu em bé chết trong tay còn ôm cặp ở tiểu học Cai Lậy v.v.. Hàng ngàn cuộc thảm sát do CS gây ra trên đất nước Việt Nam đang cần được đưa ra dưới ánh sáng sự thật và công lý.
Bob Kerrey có lỗi với ai?
Bà Ninh phát biểu bằng một giọng trịch thượng và hằn học “Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ”. Việc bà “không thể biết” là tại bà kém thông tin nhưng cựu TNS Bob Kerrey hay Ngoại trưởng John Kerry không cần phải báo cho bà biết.
Người viết không binh vực cho Bob Kerrey. Bob Kerrey dù trực tiếp ra tay, ra lịnh hay không vẫn là người có lỗi. Nhưng ông ta chỉ có lỗi với nhân dân Việt Nam, với thân nhân những người bị toán SEALs của ông giết chứ không có lỗi gì với đảng CS và nhà nước CS mà bà Ninh đang cung phụng. Dước các chế độ dân chủ, vai trò, chức năng và sự phân định giữa nhân dân và chính phủ rõ ràng chứ không đánh lận con đen đảng cũng chính là dân tộc, đảng cũng chính là tổ quốc như dưới chế độ CS.
Một lỗi lầm của Bob Kerrey trong chiến tranh không làm cuộc chiến bảo vệ tự do của miền Nam mất đi chính nghĩa và cũng không giúp đảng CSVN có chính nghĩa.
Hôm 27 tháng Năm vừa qua, trong chuyến viếng thăm Hiroshima, Nhật Bản, TT Barack Obama bày tỏ lòng thương tiếc đối với nạn nhân bom nguyên tử của Mỹ và cảm tình đối những người sống sót nhưng ông không xin lỗi. Cuộc chiến chống Phát Xít Nhật là cuộc chiến chính nghĩa. Những kẻ phải chịu trách nhiệm cho điêu tàn của nước Nhật và chết chóc của nhân dân Nhật là lãnh đạo chế độ quân phiệt Phát Xít Nhật thời đó chứ không phải Mỹ.
Tương tự, trong lúc không thể so sánh nỗi đau bằng một nỗi đau, thảm sát Thạnh Phong cũng phải được nhìn từ nguyên nhân đến hậu quả của cả cuộc chiến Việt Nam.
Cái chết của 24 người dân làng Thạnh Phong, phân tích cho cùng, cũng không khác gì cái chết của năm ngàn người dân Huế, của 32 học sinh trường tiểu học Cai Lậy, của 13 cô gái Thanh niên Xung phong ở Ngã Ba Đồng Lộc, của Nguyễn Văn Thạc, của Đặng Thùy Trâm, của bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc và nói rộng hơn của ba triệu người dân Việt khắp hai miền do âm mưu Bolshevik hóa Việt Nam bằng bạo lực của đảng CS.
Chủ trương CS hóa Việt Nam đã được in đậm trong cương lĩnh đầu tiên của đảng CS từ 1930 chứ không phải sau khi Mỹ đổ bộ xuống Đà Nẵng 1965. Dù Mỹ có đến hay không thì mục tiêu tối hậu của đảng CSVN vẫn không thay đổi. Bà Ninh hãy trả lời giùm câu hỏi “Nếu đảng CSVN không chủ trương thôn tính miền Nam bằng võ lực thì thảm sát Thạnh Phong có xảy ra không?”
Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” như bà Tôn Nữ Thị Ninh chẳng những không đóng góp được gì vào việc làm thăng tiến xã hội, thúc đẩy nhanh hơn cuộc cách mạng tự do và nhân bản đất nước, giúp đưa dân tộc chúng ta vượt qua những bế tắc tư tưởng và chính trị để hội nhập vào dòng thác tiến bộ của nhân loại, mà với khả năng bồi bút, uống cong ba tấc lưỡi, thành phần này đã trở thành bức tường chắn ngang tiến hình khai phóng đất nước và đó là một tội ác.
Trần Trung Đạo
Góp ý của Gs Mai Thanh Truyết
Thưa Ông Trần Trung Đạo,
Xin mạo muội bổ túc và góp ý về Bà Tôn Nữ Thị Ninh.
1- Vào thời điểm trước 30/4/1975, Bà chỉ là Giảng Nghiệm viên sinh ngữ của Ban Pháp văn và Anh văn ở Trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn.
Chức vị "Phó ban" gì đó nếu có chỉ là sau 30/4 mà thôi.
2- Ngay sau 30/4, Ông nói: "phần lớn các nhà giáo, văn nghệ sĩ thuộc “thành phần thứ ba” ở Sài Gòn như Lý Quí Chung, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, nữ nghệ sĩ Phùng Há, nhà báo Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba chứ không đóng vai trò gì quan trọng"là không đúng. Vì sao?
Ông ghép GS Trần Văn Tấn, khoa trưởng ĐH Sư Phạm thuộc thánh phần thứ ba là không đúng
Nếu có phản biện lại, xin Ông cho ra bằng cớ.
Vào thời điểm sau 30/1975, và trong thời gian gọi là "học tập chính trị", cá nhân tôi và GS Tấn cùng "phải đi học" khắp nơi từ những buổi học tập và đóng góp ý kiến hay "làm bảng Thu hoạch" tại trường; nhưng mỗi khi có cán bộ "lớn" cở như Xuân Diệu, Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Kiết (lúc đó là Bộ trưởng Giáo dục CPCMLTVN)... được tổ chức ở những nơi như Rạp Rex, Rạp Thống Nhứt (nơi làm xổ số thời VNCH ở đường Thống Nhứt trước Dinh Độc Lập) hay Giảng đường II của Đại học Khoa học Sài Gòn. Khi họp Mặt trận Tổ quốc (VC bắt tất cả giáo chức Đại học phải gia nhập MTTQ vào thời điểm đó) do GS Lê Văn Thới làm Chủ tịch (chỉ định) thì họp ở 80 Nguyễn Thông (cư xá Phục Sinh cũ).
Chưa bao giờ tôi Thấy hay gặp các tên Ông kể ở NHỮNG NƠI NẦY.
3- Bà không sinh hoạt như: "bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng chỉ sinh hoạt trong “Hội trí thức yêu nước” như phần lớn các nhà giáo,..." đâu. (trích email của Ông).
Vì sao?
Ngay ngày 1-5-1975, khi tôi đi vào "trình diện" ở trường, tôi thấy Bà đã đeo băng đỏ, tượng trưng cho "cách mạng 30" rồi. Và những ngày sau đó, Bà chễm chệ là Tổ trưởng những lớp "học tập chính trị" tập trung và "lên lớp" các đồng nghiệp giáo chức và cả thượng cấp của Bà như GS Tấn, GS Cẩn. (Tôi cũng là "thượng cấp" của Bà về chức vị Trưởng ban và là Giảng sư!) Bà đi họp thường xuyên với lãnh đạo Quân quản sau đó Lãnh đạo trường ở Đại học Vinh vào.
Và sau đó tương lai Bà lên như diều gặp gió sau khi gặp TT CS Phạm Văn Đồng cho Bà làm "thông ngôn" trong các chuyến đi ra ngoại quốc. Cũng như sau cùng, qua PVĐ, bà lấy một giáo sư Toán ở ĐH Hà Nội. Bà đã từng làm Đại sứ VC tại Liên Hiệp Quốc và nhiều chức vị khác nhau theo thời gian.
Câu hỏi được đặt ra là: "Vì sao con đường "hoạn lộ" của Bà lên như diều gặp gió?"
Giản dị, chỉ vì mẹ của Bà là... người tình xa xưa của Thủ tướng mà thôi!
Mục đích email nầy là để đính chánh cho GS Tấn (đã qua đời) là Ông chưa bao giờ nằm trong "danh sách" thành phần thứ 3 nào hết như ông đã gán ghép.
Thứ nữa là để cho Ông biết thêm về Bà TNTN, người mà trong thời gian "Chủ tịch nước" Nguyễn Minh Triết qua Mỹ, Bà đã cố gắng liên lạc để được gặp tôi, nhưng tôi ...từ chối.
Xin thêm, một trong nhiều kỷ niệm xưa tôi kể ra đây để "trình" cho Ông biết mối "liên hệ" giữa Bà Ninh và tôi trước 30/4 là Bà đã cùng tôi (và các bạn giáo chức) "nhậu thịt chó" ở Trung tâm Sinh ngữ ĐH Sư Phạm năm nào do tôi tổ chức...(Ông có thể kiểm chứng lại với Bà những thông tin tôi đã nêu trên).
Mai Thanh Truyết
Cựu Trưởng ban Hóa học trường Đại học Sư phạm Sài Gòn trước 30/4/1975
Thư của KTS Nguyễn Đạt
Gửi chị Tôn Nữ Thị Ninh:
1. Tôi vừa đọc xong thư của chị gửi người Việt Nam và các bạn Mỹ về vụ ông BK. Tôi cũng là người VN nên xin có vài lời với chị về vụ này. Tôi sẽ không có ý kiến gì về vụ $20 triệu dollars vì chị đã nói rõ:20 triệu USD còn lại từ chương trình VEF (Quỹ Giáo dục Việt Nam - đã được thực hiện từ năm 2000, trích 5 triệu USD/năm trên tổng số 100 triệu USD cho chương trình học bổng) là món tiền chính quyền Sài Gòn nợ chính quyền Hoa Kỳ trước 1975, mà nhà nước CHXHCN Việt Nam thống nhất nhận trả phía Mỹ theo thông lệ quốc tế.
Quý vị lật đổ chế độ VNCH, chiếm miền Nam VN thì chính quyền mới có nhiệm vụ phải làm đúng theo Công pháp quốc tế, không thể quịt nợ, cà chớn là mất nhiều hơn, khỏi bàn cãi lôi thôi, mất thì giờ.
Từ sự giải thích của chị, tôi cũng hiểu rõ vai trò của một Hội đồng Tín Thác và người đứng đầu Hội đồng này không đơn giản bó hẹp trong nhiệm vụ gây quỹ mà là quyết định định hướng chiến lược của trường, và đề ra chủ trương với hàng loạt vấn đề phức tạp liên quan đến những bên có lợi ích khác nhau trong xã hội. Chính Hội đồng lựa chọn và bổ nhiệm Hiệu trưởng.
Chị không đồng tình với ý kiến muốn trấn áp sự phản đối việc bổ nhiệm ông BK đứng đầu BOT/FUV.
Chị "cũng không tán thành kiểu khép những người phản đối việc bổ nhiệm BK là bảo thủ không hướng về tương lai, “không ủng hộ hòa giải”.
Đọc đến đây tui thấy chị tỏ ra nóng nảy khi dùng chữ "trấn áp" y như công an trấn áp sự phản đối của người dân bất đồng chính kiến. Chị không thích bị trấn áp nên tôi xin hỏi chị: Chị là một trí thức tên tuổi của VN, một kẻ sĩ mà tại sao chị lại im re khi công an trấn áp sự phản đối của người dân bất đồng chính kiến? Chị quá hèn khi đồng tình với mọi hành động sai trái của đảng cầm quyền và chính quyền nhưng tại sao chị lại phản đối ầm ĩ khi cho rằng chị bị trấn áp?
Ở đây, tôi không đồng ý với cách dùng chữ của chị khi cho rằng ý kiến phản bác là "muốn trấn áp sự phản đối việc bổ nhiệm ông BK đứng đầu BOT/FUV".
Tôi cũng không hiểu tại sao chị lại giận quá nên mất khôn khi quá hung hăng con bọ xít theo kiểu bảo thủ, quá khích cực đoan mà phản đối ầm ĩ phe "đối lập" khi cho rằng: "việc bổ nhiệm BK sẽ gây tranh cãi, mở lại quá khứ đau buồn, đi ngược với định hướng chủ đạo của chuyến thăm là đồng thuận hướng về tương lai." 41 năm rồi, chị Ninh ạ. Tôi không hiểu chị có thân nhân nào bị ông BK giết hại hay cầm tù không mà sao chị thù dai như vậy? Chị sinh ra và lớn lên ở miền Nam VN, dưới chế độ VNCH mà sao chị thù Mỹ Nguỵ hơn cả CS Bắc Việt hay MTGPMN nữa, lạ thiệt! Căm thù kẻ địch sâu sắc như vậy chắc là phải có lý do. Mong chị nói rõ hơn cho tôi biết được không?
"Ủng hộ hòa giải, hướng về tương lai không phải là độc quyền của những ai ủng hộ BK làm Chủ tịch BOT/FUV. Nếu BK không có quá khứ nặng nề đối với nhân dân Việt Nam, thì chắc không ai bình luận gì. Nếu người được bổ nhiệm là cựu chiến binh như cựu Hạ nghị sĩ, Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson hoặc là chính ông Thomas Vallely, cũng là cựu chiến binh, là người có công lớn nhất trong việc thành lập FUV thì không ai sẽ có ý kiến gì."
41 năm rồi, chị Ninh thừa hiểu là không ai thay đổi được quá khứ kia mà. Cha tôi "học tập cải tạo" và chết trên quê hương mà ông đã nhất định ở lại thay vì ra đi trước ngày 30/4/1975. Lẽ ra tôi phải thù VC y hệt như chị thù ông BK vậy chứ? Tôi muốn chị hãy hiểu là không ai có thể quay ngược lại bánh xe lịch sử. Chị học cao, hiểu rộng nên tôi nói ít, mong chị hiểu nhiều hơn.
2. Tôi cũng mong chị hiểu rằng tôi không care gì ông BK, ôngPete Peterson,hay ôngThomas Vallely sẽ lênlàm Chủ tịch BOT/FUV để tránh cho chị hiểu lầm rằng tôi thuộc pheủng hộ BK vàochức vụ đó nên lên tiếng.
Tôi cũngkhông đồng tình với ý kiến củaJonathan London được BBC trích dẫn ngày 2/6, hay là TS. Mark Ashwill nhưng ai cũng có quyền tự do ngôn luận,, tự do tư tưởng nên tôi tôn trọng sự khác biệt như văn hào Pháp Voltaire (1694-1778) đã nói một câu để đời: “ Tôi có thể không đồng ý với những gì anh nói ra, nhưng tôi sẽ bảo vệ quyền phát biểu của anh cho đến cùng” ("I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it")
Tôi mong chị cũng nhớ câu nói bất hủ này của Voltaire,hãy tôn trọng sự khác biệt. Đừng độc tài, đừng sống với quá khứ thù hận nữa. Hãy thật sự hướng về tương lai. Chính chị phải thay đổi tư duy, phải coi lại đầu óc của chị có còn tỉnh táo, sáng suốt nữa hay không?
Tôi cũng không muốn kêu gọi chị phải theo Mỹ, theo Tàu hay theo Nga mà hãy nhớ đặt quyền lợi sống còn của dân tộc lên trên hết.
Chị Ninh, tôi và chị đều đã sống qua 2 chế độ, đều hiểu rõ cả Pháp, Mỹ lẫn Nga, Tàu và cộng sản. Tôi xin nhắc lại câu chị viết: "một số không nhỏ công dân mạng kêu gọi “hãy rộng lượng, bao dung, tha thứ, hãy hướng về tương lai, vì tương lai của Việt Nam…”, họ nói không sai đâu, chị Ninh ạ. Trong chiến tranh, người ta sẳn sàng giết hại và tiêu diệt đối phương để làm "anh hùng" kia mà! Chị là người Huế, tôi tin chị còn nhớ rõ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, pháo kích vô trường tiểu học Cai Lậy, mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, etc... Chị muốn người VN phải thù ghét ông BK thì tôi cũng phải nhắc lại những chuyện không thể quên này cho chị nhớ là nhiều người Cộng Sản cũng tàn ác, dã man lắm, chị Ninh ơi. Chị đừng dối lòng mà quên rằng đảng CSVN của chị đã đày ải biết bao trí thức VNCH trong các trại tập trung cải tạo(trong đó có cha tôi), đã khiến hàng triệu người VN phải bỏ mình trên biển, trong rừng khi trốn chạy chế độ độc tài CSVN. Chị muốn nhắc quá khứ nữa không? Chị muốn kể tội nữa không? Tôi mong đảng CSVN của chị hãy sớm nói một lời "xin lỗi" chân thành với tất cả nạn nhân của CSVN, và chính bản thân chị cũng sẽ sớm sám hối khi cộng tác với chế độ phi nhân và độc ác này như ông BK đã và đang sám hối từ đáy lòng ông ta.
3. Tôi cũng biết "Hiện giờ quả bóng đang nằm về phía nhóm sáng lập Đại học Fulbright. Vì đây là một dự án giáo dục với ý nghĩa và hệ lụy sâu rộng", tôi hy vọng người Mỹ và người VN sẽ sáng suốt nhận ra cái gì cần làm cho tương lai VN khá hơn chứ không quá cố chấp, câu nệ, bảo thủ để rồi đánh mất cơ hội trong tầm tay.
Tôi cũng sẳn sàng trao đổi thêm với chị về những việc góp phần thúc đẩy quan hệ Mỹ – Việt vì lợi ích nhân dân hai nước, những đề tài giáo dục và xã hội có lẽ thú vị hơn là tranh cải những chuyện tào lao vô vị.
Tôi cũng mong Tôn Nữ Thị Ninh phải là một trí thức VN sẳn sàng vì dân tộc chứ không phải chỉ biết vì Đảng CSVN.Tôi xin chức chị Tôn Nữ Thị Ninh luôn khoẻ mạnh và sáng suốt.
KTS Nguyễn Đạt
Ngày 7/6, Infonet đã nhận được bức thư ngỏ của bà Tôn Nữ Thị Ninh - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại QH, nay là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TPHCM nêu quan điểm về sự kiện Bob Kerrey và ĐH Fulbright VN đang được dư luận quan tâm.
Báo điện tử Infonet xin được đăng tải nguyên văn bức thư ngỏ này của bà Tôn Nữ Thị Ninh.
TPHCM, 6/6/2016
Thư ngỏ gửi người Việt Nam và các bạn Mỹ
1. Ngày 1 tháng 6, tôi đã bày tỏ cô đọng quan điểm về việc ông Bob Kerrey (BK) giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Tín Thác (Board of Trustees - BOT) Đại học Fulbright Việt Nam (FUV). Nay tôi xin gửi thư ngỏ đến người Việt Nam và các bạn Mỹ quan tâm đến vấn đề này với mong muốn diễn giải rõ hơn, đầy đủ hơn quan điểm của tôi.
2. Trước hết, tôi xin nêu một số thông tin để làm rõ hơn về nguồn tài chính và vai trò Hội đồng Tín Thác của một đại học kiểu Mỹ như FUV:
2.1. 20 triệu USD vốn ban đầu cho việc xây dựng FUV được nhắc đến như đóng góp mới của chính phủ Mỹ. Thực tế là: đó là khoản 20 triệu USD còn lại từ chương trình VEF (Quỹ Giáo dục Việt Nam - đã được thực hiện từ năm 2000, trích 5 triệu USD/năm trên tổng số 100 triệu USD cho chương trình học bổng) là món tiền chính quyền Sài Gòn nợ chính quyền Hoa Kỳ trước 1975, mà nhà nước CHXHCN Việt Nam thống nhất nhận trả phía Mỹ theo thông lệ quốc tế. Nói cách khác, thực chất đây là việc chuyển một món tiền có sẵn – từ mục đích cấp học bổng hàng năm sang mục đích tài trợ ban đầu cho FUV – chứ không phải do BK mới gây quỹ đặc biệt cho FUV.
2.2. Đối với một đại học kiểu Mỹ như FUV, vai trò của một Hội đồng Tín Thác và người đứng đầu Hội đồng không đơn giản bó hẹp trong nhiệm vụ gây quỹ mà là quyết định định hướng chiến lược của trường, và đề ra chủ trương với hàng loạt vấn đề phức tạp liên quan đến những bên có lợi ích khác nhau trong xã hội. Chính Hội đồng lựa chọn và bổ nhiệm Hiệu trưởng. Điều này để phủ định ý kiến cho rằng đây là vị trí với vai trò hạn hẹp, hàm ý không đáng để dư luận quan tâm, tranh cãi.
3. Tôi không đồng tình với ý kiến muốn trấn áp sự phản đối việc bổ nhiệm ông BK đứng đầu BOT/FUV bằng cách gắn việc này với chuyến thăm của Tổng thống Obama. Tôi không tin Tổng thống Obama sẽ đồng ý việc kết hợp này nếu biết trước việc bổ nhiệm BK sẽ gây tranh cãi, mở lại quá khứ đau buồn, đi ngược với định hướng chủ đạo của chuyến thăm là đồng thuận hướng về tương lai.
4. Tôi cũng không tán thành kiểu khép những người phản đối việc bổ nhiệm BK là bảo thủ không hướng về tương lai, “không ủng hộ hòa giải”. Ví dụ như, tôi theo quan điểm phản đối nhưng bạn bè Mỹ của tôi không hề kết luận là tôi không hướng về tương lai, “không ủng hộ hòa giải”. Ủng hộ hòa giải, hướng về tương lai không phải là độc quyền của những ai ủng hộ BK làm Chủ tịch BOT/FUV. Nếu BK không có quá khứ nặng nề đối với nhân dân Việt Nam, thì chắc không ai bình luận gì. Nếu người được bổ nhiệm là cựu chiến binh như cựu Hạ nghị sĩ, Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson hoặc là chính ông Thomas Vallely, cũng là cựu chiến binh, là người có công lớn nhất trong việc thành lập FUV thì không ai sẽ có ý kiến gì.
5. Tôi không hiểu tại sao nhất thiết phải bổ nhiệm BK vào vị trí quan trọng của FUV trong giai đoạn mở đầu mang ý nghĩa biểu tượng cao? Những người Mỹ đã bày tỏ quan điểm với tôi (trong đó có cựu chiến binh) hoặc công khai trên báo chí và các mạng xã hội đều không tán thành, thậm chí phê phán thẳng thừng.
Chẳng hạn như PGS. Jonathan London được BBC trích dẫn ngày 2/6: “…đó là một quyết định phải nói là vô trách nhiệm. Muốn thành lập một đại học mới ở Việt Nam thì ít nhất phải nhạy cảm với lịch sử của hai nước. Tôi nghĩ đây là một sai lầm hết sức buồn.” Hay là TS. Mark Ashwill, chuyên gia giáo dục, sống và làm việc lâu năm tại Việt Nam, trả lời báo điện tử Trí Thức Trẻ ngày 3/6, nhận xét đây là “một nỗi hổ thẹn (disgrace)”. BK nên “từ chức ngay lập tức.
Chắc chắn Fulbright có thể tìm được lãnh đạo tốt hơn những người như BK, một biểu tượng của quá khứ đen tối”. Lẽ nào người Việt Nam chúng ta tỏ ra bình thản hơn cả người Mỹ đối với một biểu tượng của quá khứ đen tối?
6. Trước một số không nhỏ công dân mạng kêu gọi “hãy rộng lượng, bao dung, tha thứ, hãy hướng về tương lai, vì tương lai của Việt Nam…”, tôi muốn nói rõ như sau:
6.1. Việc tha thứ hay không tha thứ cho vai trò của BK trong vụ thảm sát ở thôn Thạnh Phong là quyền của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, có thể tha thứ nhưng đồng thời không tán thành việc BK giữ vị trí lãnh đạo một trường ĐH tại Việt Nam (việc ông lãnh đạo một ĐH của Mỹ bên Mỹ là chuyện khác).
6.2. Tôi cũng khẳng định chúng tôi phản đối không phải vì chỉ xuất phát từ cảm xúc, cảm tính, không phải vì thiếu “lý trí tỉnh táo và sáng suốt”. Ngược lại, vì tỉnh táo và sáng suốt mong muốn cho đại học Fulbright có một khởi điểm lành mạnh, đồng thuận, suôn sẻ và một con đường phát triển bền vững, chúng tôi mới lên tiếng. Lẽ ra những người quyết định mời BK đảm nhiệm vị trí lãnh đạo FUV nên “tiến lên phía trước ở Việt Nam nhưng ghi nhớ những bài học của Việt Nam” trong đó bài học thứ ba là “biết từ tốn khi nghĩ rằng đã hiểu biết văn hóa nước khác” (Bài xã luận trên New York Times ngày 23 tháng 6, 2016).
7. Chúng ta đang chứng kiến một dạng kêu gọi nhau thi đua bày tỏ “vị tha, cao thượng”. Nhân dân Việt Nam không còn phải chứng tỏ, chứng minh một lần nữa tính nhân văn của mình trong quan hệ với kẻ thù trước đây mà dư luận quốc tế, đặc biệt bản thân các cựu chiến binh Hoa Kỳ, đã công nhận từ lâu.
Tôi ngạc nhiên về những tình cảm cảm thông sâu sắc dành đặc biệt cho sự khổ tâm của BK với “những lời thốt ra từ gan ruột”, ca ngợi ông “rất can đảm khi quyết định nhận cương vị hiện nay”! Trong khi đó, tôi nhớ đến lời của một người ở Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, nơi đang trưng bày chứng tích về vụ thảm sát ở Thạnh Phong, thương xót cho các nạn nhân chưa hề được người có tội trở về thắp cho họ một nén hương. Người đó không thể tưởng tượng cảnh hàng trăm hàng ngàn sinh viên Việt Nam Đại học Fulbright sẽ gọi ông BK một cách tôn kính là “Thầy” theo phong tục Á Đông và đặc biệt ở Việt Nam. Và tôi lại nghĩ, đến một ngày nào đó, ảnh của ông BK sẽ được treo tại ĐH Fulbright ở vị trí trang trọng nhất dành cho các vị sáng lập của Trường!
8. Tôi nghĩ đến nay đã có thể kết luận là việc chọn ông BK làm Chủ tịch Hội đồng Tín Thác Đại học Fulbright Việt Nam đã thành một vấn đề gây tranh cãi thay vì tạo nên sự đồng thuận cần thiết cho dự án quan trọng này cất cánh thuận buồm xuôi gió.
Hiện giờ quả bóng đang nằm về phía nhóm sáng lập Đại học Fulbright. Vì đây là một dự án giáo dục với ý nghĩa và hệ lụy sâu rộng, tôi hi vọng nhóm sẽ nghĩ lại và cùng ông BK đưa ra giải pháp ổn thỏa: chọn một người khác đảm nhiệm vị trí lãnh đạo Hội đồng Tín Thác FUV.
Bản thân tôi sẵn sàng gặp lại Bob Kerrey, người cựu chiến binh Mỹ, để trao đổi về những việc góp phần thúc đẩy quan hệ Mỹ – Việt vì lợi ích nhân dân hai nước.
Tôn Nữ Thị Ninh
Ông Kerrey nói sẵn sàng rút lui nếu việc tham gia
gây bất lợi cho Đại học Fulbright Việt Nam
Chủ tịch Đại học Fulbright ở Việt Nam Bob Kerrey nói ông đã vận động để thành lập trường này từ đầu thập niên 1990 nhưng nay ‘sẵn sàng rút lui’.
Trang mạng có tiếng ở Việt Nam, Zing, hôm 30/5 chất vấn việc chọn ông Kerrey, một người họ nói từng “tham gia thảm sát” phụ nữ và trẻ em trong cuộc chiến Việt Nam.
Trong điện thư trả lời BBC Tiếng Việt hôm 31/5, ông Kerrey viết:
“Tôi tham gia dự án này từ năm 1991 khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt và chúng tôi phân bổ tiền [từ quỹ] Fulbright Hoa Kỳ để lập trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh mà đứng ra tổ chức là một trung tâm ở [Đại học] Harvard. Chúng tôi tăng cường chương trình đại học theo [khuôn khổ] pháp lý hồi năm 1995 vốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và đã được mở rộng thêm nữa hồi năm 2000 với điều luật mà tôi đồng bảo trợ.
“[Trường] Harvard và New School, lúc đó tôi là lãnh đạo, đã thực hiện hai nghiên cứu cho Bộ Giáo dục của Việt Nam về vấn đề Việt Nam cần làm gì để có một đại học độc lập ưu việt. Đại học Fulbright Việt Nam là kết quả.”
Cựu Thượng Nghị sỹ bang Nebraska cũng nói những người tham gia thành lập trường đã cố gắng để thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp ngân khoản để trường có thể hoạt động. Cuối cùng Quốc hội đã đồng ý với điều kiện Việt Nam góp vốn tương ứng mà trong trường hợp này bằng việc cấp đất cho trường ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Kerrey cũng nói có nhiều khả năng Quốc hội sẽ cung cấp thêm tiền cho trường và bản thân trường cũng đã bắt đầu những cố gắng riêng để gây quỹ, nhất là quỹ để hỗ trợ tài chính cho sinh viên.
Vị Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam cũng nói ông được Hiệu trưởng Đàm Bích Thủy và những người liên quan đề nghị làm chủ tịch và giải thích thêm:
“Chức danh này, tôi tin là hợp lý khi nói nó to tát hơn ở Việt Nam so với ở Hoa Kỳ nơi chức danh dành cho người đóng vai trò chính trong việc gây quỹ cho Hiệu trưởng.
“Tôi chắc chắn là có nhiều người đủ khả năng để làm chủ tịch và tôi sẽ vui lòng rút lui nếu tôi thấy vị trí của tôi ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển của trường.”
‘Hành động kinh khủng’
Nói về sự cố trong chiến tranh mà trong đó ông bị cáo buộc chỉ huy nhóm đặc nhiệm gây ra vụ “thảm sát” hơn 10 phụ nữ và trẻ em, ông Kerrey viết cho BBC:
“Hành động của tôi ở Việt Nam là kinh khủng và tôi tin là đã được xem xét kỹ…
“Đó không phải là Mỹ Lai. Tuy nhiên, như phim tài liệu của Ken Burns sẽ sớm được phát cho thấy: Chiến thuật của chúng tôi đã khiến ít nhất một triệu người vô tội thiệt mạng.”
Ông nói thêm: “Chúng ta phải đối diện quá khứ một cách thành thật. Nhưng chúng ta không được sống trong quá khứ. Tương lai là tất cả những gì chúng ta có.”
Trước đó trong điện thư trả lời trang Zing ông cũng viết:
“Tôi đã xin lỗi người Việt về những gì tôi gây ra trong chiến tranh và giờ tôi xin lỗi lại một lần nữa. Một cách chân thành và cùng những nỗi đau của ký ức mãi mãi ám ảnh, tôi xin lỗi những người mà tôi đã gây hại tới…
“Nhưng một lời xin lỗi sẽ luôn là không đủ. Nó giống như món súp cá mà thiếu con cá vậy. Vì thế, tôi cố gắng giúp người Việt mỗi khi có thể. Như đóng góp chấm dứt đạo luật TWEA (coi Việt Nam như nước thù địch), bình thường hoá quan hệ, ủng hộ đàm phán BTA, và đặc biệt là ủng hộ nỗ lực cải thiện hệ thống giáo dục Việt Nam thông qua chương trình Fulbright.”
http://www.bbc.com/vietnamese
Đăng ngày 07 tháng 06.2016