banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Chùm nho uất hận

Ts Lê Đình Thông

Thời nào cũng vậy, nước mất nhà tan quy vào một chữ "hận". Hận vì lòng dân oán than, ông Trời cũng nghe theo: vox Dei. Bốn chục năm về trước, tháng tư bắt đầu bằng nhiều ưu tư, xao xuyến; kết thúc bằng ngày 30. Lòng dân ba chìm bảy nổi dấy lên cái tên Quốc Hận:
- ba chìm là hàng triệu người chìm sâu dưới đáy biển;
- bảy nổi là những người lao đao khổ cực trong núi rừng Việt Bắc; cả những người biệt xứ ra đi.
Hôm nay là ngày 1 tháng 4. Tôi hồi tưởng chuỗi ngày xót xa, ngồi viết Chùm Nho Uất Hận.

Quốc hận tiếng nói của dân gian (vox populi) là một loại bia miệng:
Ngàn năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Không phải 40 năm về trước, nhưng vào năm 1940, John Steinbeck được trao giải Pulitzer nhờ tác phẩm The Grapes of Wrath, Võ Lang dịch là Chùm Nho Uất Hận (Khai Trí xuất bản, 1972). Steinbeck viết 30 chương sách nhưng lúng túng trong việc đặt tên tác phẩm. Chính vợ nhà văn nói thay tiếng nói dân gian, đặt tên sách là The Grapes of Wrath, mượn câu thơ The Battle Hymn of the Republic của Julia Ward Howe:
Mắt tôi thấy vinh quang sự hiện đến của Chúa
Ngài sẽ chà đạp vườn nho, nơi chứa những chùm nho uất hận.
Trong tác phẩm Chùm nho uất hận, Steinbeck viết về nỗi thống khổ của nhà nông, gạt nước mắt, bỏ lại ruộng vườn Oklahoma, lưu lạc đến California. Tính theo đường "chim bay", khoảng cách từ Oklahoma đến California là 1 252,5 dặm mà còn uất hận, nói chi đến đường "cá lặn", từ Việt Nam đến các nước tây phương, thiết tưởng không có tên nào chính xác hơn Quốc Hận.
Nói đến Chùm Nho Uất Hận còn quá xa xôi. Gần gũi ta hơn có Hận Đồ Bàn. Năm 1471, binh lính vua Lê Thánh Tông vây hãm, hạ được thành Đồ Bàn (Vijaya) của vua Trà Toàn. Nhờ vậy mà nước Việt mới có thêm xã Nhơn Hậu, tỉnh Bình Định. Từ đó mới có Hận Đồ Bàn.

Quốc Hận của ta có năm có tháng, có tờ lịch đã phai màu:
Quốc Hận, nói lên lòng dân oán than, là lời bia miệng. Không một định chế nào, kể cả cơ quan lập pháp của một quốc gia, có thể thay đổi được. Huống hồ văn kiện lập pháp chỉ áp dụng cho nước sở tại, quốc tế tư pháp gọi là lex fori. Quốc Hận như sóng thần, tràn ngập khắp nơi. Ý định xóa bỏ chỉ là đội đá vá trời:
Ai mà đội đá vá trời
Đổi tên Quốc Hận tiếng cười thế gian.

Tôi viết bài này trong một thư viện đại học ở Paris, vào đầu tháng Tư 2015. Ngoài trời nhiều gió lộng. Không gian và thời gian gợi nhớ nước mắt sinh viên người Việt tại Paris, vào tháng Tư 1975. Trong ký sự "Câu chuyện về một tấm hình", nhà báo Tường An của đài RFA (10/03/2015) đã in lại tấm hình đen trắng, nói lên cuộc diện miền Nam đổi trắng thay đen:

Tôi xin trích vài đoạn trong ký sự đẫm lệ của nhà báo Tường An:
"Những ngày cuối tháng 4, khi các chiến trường ở Việt Nam còn mịt mờ khói súng, khi các thây người tiếp tục ngã, và khi các dấu chấm đỏ dần dần tiếng về miền Nam trên bản đồ hình chữ S thì cũng là lúc ngổn ngang tâm trạng của các sinh viên trong các khu đại học Paris và vùng phụ cận.
Cuộc biểu tình xuất phát lúc 3 giờ trưa từ cư xá sinh viên Đất Việt. Dẫn đầu cuộc biểu tình là lá cờ VNCH với bình nhang. Gần 300 sinh viên chít khăn tang trắng lặng lẽ, trang nghiêm đi xuyên qua các trục lộ chính của Paris.
Anh Nguyễn Sơn Hà kể lại: «Cuộc biểu tình ngày 27/4 chít khăn tang, đi từ cư xá sinh viên, ngang qua Quốc hội Pháp đưa thỉnh nguyện thư ; đến tòa đại sứ Mỹ để phản đối, tố cáo. Anh em đã gửi rất nhiều thư cho chính giới, từ ông Tổng thống Giscard d’Estaing cho đến lưỡng viện Quốc hội, ông Jacques Chirac, nhưng tất cả đều không trả lời, tất cả đều làm ngơ.
Anh Trần Văn Bá kêu gọi một số anh em sinh viên cùng các đoàn thể sinh viên khác tiếp tục giương cao lá cờ vàng chính nghĩa đó để xác định với Quốc tế và dân tộc Việt Nam cùng nhau ghi ơn các chiến sĩ bảo vệ tự do. Đó là lý do tại sao có cuộc biểu tình ngày 27/4. Cho thấy tuổi trẻ Việt Nam chúng ta vẫn còn đây.
Từng thước vải đen kẻ đòng chữ trắng: “Vinh Danh Các Chiến Sĩ Đã Nằm Xuống Cho Tự Do", “Miền Nam Tự Do Bất Diệt", "Ngày Đại Tang" v.v. bằng tiếng Pháp được căng lên. Vành trắng chít trên đầu để tang cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến.
Anh Vũ Quốc Thao, lúc đó là một thanh niên còn rất trẻ, vẫn còn rất lạc quan về tương lai đất nước. Anh nhớ lại ngày 27/4 của 40 năm về trước:
«Năm đó tôi mới 18 tuổi có tham dự đoàn biểu tình. Vào lúc đó thì 18 tuổi không giống như tuổi trẻ bây giờ đâu, còn ngây ngô lắm, các anh lớn kéo đi đâu thì mình đi theo. Tại cư xá Đất Việt ở đường Lutèce trong quận 5 được coi như là trụ sở thứ nhì của Tổng hội Sinh viên lúc bấy giờ. Chính cái cư xá đó được dùng làm địa điểm xuất phát cuộc biểu tình, anh em tập họp tiến ra đường Gay Lussac, đi lên phía công viên Luxembourg, đi ngang qua rue d’Assas có tòa đại sứ VNCH, đi ngang qua Thượng viện Pháp. Tại thượng viện Pháp, tình hình bắt đầu căng thẳng vì phía cực hữu và cực tả lợi dụng vấn đề Việt Nam giằng co với nhau, mình ở giữa, mình chỉ muốn nói về vấn đề Việt Nam mà thôi, nhưng rồi sau đó thì cũng yên.
Riêng tôi thì tôi không nghĩ là chế độ sẽ sụp đổ mau chóng như vậy, thành ra tôi cũng biểu tình nhưng không đến nỗi đau nhiều, mặc dù cũng có để tang, để tang này là để tang cho những nạn nhân chứ không phải để tang cho đất nước, bởi vì lúc đó chưa biết rằng mình sắp mất nước. Anh em đi rất trang nghiêm, nhưng không phải là thất vọng».
Tấm hình “Sinh viên Paris xuống đường” được anh Trần Đình Thục chụp ở đường Gay Lussac trưa ngày 27/4.Tấm hình trắng đen với vận mệnh dân tộc nổi trôi đã nằm im một thời gian dài trong ngăn kéo để rồi 39 năm sau xuất hiện trở lại trên bìa tuyển tập “Ngậm ngùi tháng tư” của nhà văn Huy Phương ở quận Cam, California, Hoa kỳ. Tấm hình được nhân bản và lưu truyền trên internet".
Nhà báo Tường An vừa nói đến anh Vũ Quốc Thao. Anh Thao nối tiếp truyền thống của thân phụ là Giáo sư Vũ Quốc Thúc, một lòng vì nước vì dân.
Tôi viết bài này để tưởng niệm tất cả bà con thân yêu, những người góp xương máu, biến biển Đông trở thành đại dương uất hận. Trong số có người bạn thân thân yêu là nhà thơ Trần Đại.

Paris, ngày 1 tháng Tư năm 2015
Lê Đình Thông


Nhân 76 năm tác phẩm nổi tiếng The Grapes of Wrath, xuất bản 14-4-1939

The Grapes Of Wrath

Tác Phẩm Sinh Đôi Của Văn Hào John Steinbeck

http://www.vietthuc.org/wp-content/uploads/2015/04/2015-APR-5-JohnSteinbeck_TheG_600-CCC.jpg
 
John steinbeck sinh ngày 27-2-1902 tai Salinas, California, mất 20-12-1968.
Ông và Hemingway là hai cây bút thuộc vào hàng cự phách của nền văn học Mỹ cũng như trên văn đàn thế giới. 
Hemingway, một tác giả quen thuộc của Sàigòn năm xưa với các tác phẩm Lão Ngư ông Và Biển Cả (The Old Man and The Sea) Giã Từ Vũ Khí (Farewell to Arms), Mặt Trời Vẫn Mọc (The Sun also Rises). . .Tác giả sống tại ngoại quốc lâu năm nên các đề tài của ông đều đã bắt nguồn từ các nước non xa lạ bên Âu Câu, Phi Châu, nào chiến tranh, đấu bò, đánh cá...
 
Trong khi Hemingway mải mê với các chân trời xa lạ, John Steimbeck quay về với các đề tài ngay tại quê hương ông.
 Cuối thập niên 30, ông chú trọng tới giai cấp lao động qua các tác phẩm In Dubious Battle (1936), Of Mice And Men (1937) và The Grapes Of Wrath (1939). Trong số ba tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là The Grapes of Wrath, East of Eden (1952) Of Mice And Men, cuốn The Grapes Of Wrath được đề cập tới nhiều hơn cả. Of Mice and Men chỉ là một truyện ngắn quay thành phim nhiều lần, gần đây nhất là năm1992, khá hay nhưng khó hiểu. John Steinbeck sinh tại Salinas, California năm 1902, có theo học Ðại học văn khoa tại Stanford University mấy năm nhưng không đỗ đạt gì, ông đi làm lao động chân tay sinh sống, sau viết báo, làm quản gia. . tác phẩm của ông phản ảnh hiện thực đời sống của giới lao động Mỹ.
The Grapes Of Wrath xuất bản ngày 14-4-1939 được coi như tác phẩm hay nhất của John Steinbeck ( . . the book considered by many his finest) cũng có dư luận coi nó như tác phẩm hay nhất của nền văn chương Mỹ, ít có truyện nào sánh kịp (…. has few peers in American fiction – Robert Demott). Cuốn truuyện đã được giải National Book Award và Pulitzer năm 1940, dài 600 trang, cuốn sách bán chạy nhất trong năm 1939, trên 400 ngàn cuốn, đã được dịch ra trên 30 thứ tiếng, được giảng dậy như sách giáo khoa tại các trường trung học, đại học từ cấp học sinh cho tới bậc sinh viên tiến sĩ. Năm 1962 John Steinbeck được phát giải Nobel văn chương.
Truyện cũng đã tạo nhiều tranh luận sôi nổi nhất tại Mỹ từ trước đến nay, hồi trước tại nhiều nơi người ta đã đem đốt hoặc cấm lưu hành tác phẩm này vì cho rằng nó mang tính chất tuyên truyền cho chủ nghĩa Cộng Sản, phảng phất cái không khí đấu tranh giai cấp. Cuốn sách cũng đã được nhiều người bênh vực vì nó phản ảnh, nói lên được những nỗi cay đắng uất hận của bọn di dân Ohklahoma đi tìm cơm áo tại miền đất hứa California cũng như đã tranh đấu cho nhân phẩm và quyền sống của con người.
Ngay năm sau 1940, truyện đã được hãng 20th Century-Fox quay thành phim, đạo diễn John Ford, tài tử Henry Fonda, tiền bản quyền là 70 ngàn đồng thời ấy. Phim vẫn giữ nguyên nội dung mang khuynh hướng xã hội của nó như tác giả đã yêu cầu. Cuốn phim đoạt 2 giải Oscars và sau này được xếp trong số mười phim hay nhất mọi thời đại của Mỹ (American film institute list of the all-time best American film), giá trị nghệ thuật rất cao, John Steinbeck phải khen “hay quá, y như phim tài liệu vậy”.
Một tác phẩm văn chương bất hủ biến thành cuốn phim hay nhất mọi thời đại, một tác phẩm đã được hai lần bất hủ đó là trường hợp hy hữu, đặc biệt vì những phim được xếp trong số những phim hay nhất mọi thời đại hoặc hay nhất thế giới như Rashomon (Nhật, 1951), Bẩy Người Hiệp Sĩ (Nhật, 1953), La Strada (Ý, 1954), La Grande Illusion (Pháp, 1937)...  đều được quay từ những truyện không ai biết tới, thậm chí Rashomon do một truyện ngắn mà thành. Lại nữa những tác phẩm lớn bất hủ như Anna Karenine (Nga), Les Frères Karamazov (Nga), Notre Dame De Paris (Pháp), Giờ thứ Hai Mươi Lăm (Lỗ Ma Ni)… đã được quay thành những phim hay nhưng không vào hạng xuất sắc.
Trước 1975 chúng ta vẫn thường gọi truyện này là “Chùm Nho Uất Hận” do một bản dịch từ tiếng Pháp ra Les Raisins de la Colère, nghe thì cũng hay nhưng không được sát nghĩa. Chữ Colère trong tiếng Pháp và Wrath tiếng Anh có nghĩa là cơn phẫn nộ, còn uất hận để chỉ sự căm hờn. Chữ Wrath diễn tả cơn giận sôi sục của bọn di dân nghèo đói đứng nhìn bọn điền chủ cho đổ thực phẩm xuống sông để giữ giá hàng.
John Steinbeck đã làm sống lại cuộc di cư vĩ đại và bi thảm đầy nước mắt của các nhà nông Oklahoma đã bị truất hữu đất đai tài sản trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, họ đã kéo nhau trên các xe vận tải hướng về California hy vọng tìm được việc làm tại các nông trại vượt qua khó khăn gian khổ trước mắt.
 
http://www.vietthuc.org/wp-content/uploads/2015/04/2015-APR-5-The-Grapes-of-Wrath.-John-Steinbeck-.300.jpg
 
Xin sơ lược truyện.
Tom Joad mới ở tù ra, tội giết người tự vệ, án bẩy năm, nhưng được về sớm mấy năm hiện còn trong thời kỳ quản chế. Về tới nơi thấy nhà cửa trống trơn, chàng cùng ông đạo (preacher) Casy sang nhà ông chú, tại đây đại gia đình ông bà nội ba (pa) mẹ (ma), em trai, em gái và hai đứa út. . đã tụ tập đông đủ chuẩn bị lên đường. Ðất đai cằn cỗi, trồng bông gòn không sinh lời nên ngân hàng quyết định lấy lại đất, cho xe ủi hết nhà cửa để bán lại cho cơ sở khác, sống chết mặc bay.
Thu góp được hơn hai trăm mua chiếc xe vận tải cũ kỹ hơn bẩy chục rồi bầu đoàn thê tử lên xa lộ hướng về miền Tây. Chưa ra khỏi tiểu bang ông nội chết vì già yều quá, gia đình quyết định chôn ngay bên đường với mảnh giấy giải thích “nhà nghèo không có tiền lo mai táng”.
Hàng đoàn xe vận tải chở bọn di dân đói rách lũ lượt kéo nhau về miền đất hứa California, ban đêm họ tụ tập cắm trại tại bờ sông, bờ hồ, nơi có nước nấu ăn. Họ chia xẻ nhau từ miếng bánh cho đến niềm hy vọng vào ngày mai ở xứ lạ xa xôi. Họ đoàn kết, hoà hợp nhau thành một đơn vị, giúp đỡ nhau để cùng hướng về một lối thoát, cùng chung một hy vọng.
Cuộc hành trình gian nan, chiếc xe nhỏ bị hư hỏng dọc đường phải sửa chữa vất vả. Ðến biên giới tiểu bang Arizona, họ bị cảnh sát nhắc nhở phải tiếp tục con đường còn lại không được trú ngụ tại đây. Họ bị khinh miệt, xua đuổi, bị gọi bằng cái tên khinh thị Okies.
Tới California cả gia đình mừng rỡ, họ nhìn những đồn điền trồng cây xinh tươi mênh mông bát ngát, nơi thu hút nhiều nhân công hái trái cây, ai nấy trong lòng chứa chan hy vọng. Bà nội cũng mất vì giá yếu, mẹ Tom nói: “bà cụ sẽ được chôn cất ở nơi xinh tươi xanh tốt. . cụ phải được nằm xuống tại california”
Ðất Cali xưa thuộc Mễ, những người Mỹ đi khai phá miền Tây võ trang súng đạn chiếm đất đuổi bọn bản xứ về phía Nam. Nay canh tác trở thành kỹ nghệ, nông trại ngày càng lớn mạnh, chủ nhân càng ít đi. Bọn di dân ngoại quốc Tầu, Nhật, Phi Luật Tân, Mễ. . bị đối xử như nô lệ, bị đánh đập, bắn giết. .
Bọn di dân từ Kansas, Oklahoma, New Mexico, Texas. . kéo đến hàng mấy trăm ngàn người như đàn kiến tìm kiếm việc làm, cơm ăn áo mặc. Lũ người rách rưới đói khát cạnh tranh lẫn nhau vì miếng cơm manh áo. Người Cali bắt đầu sợ và ghét dân Oklahoma đói khát, rách rưới vì họ cạnh tranh lao động với đồng lương rẻ mạt, vì đói rách dễ sinh ra trộm cướp. Bọn vô gia cư khốn khổ ngày kéo về ngày một đông.
Gia đình Tom Joad đã tới miền đất hứa, họ dừng chân tại trại Hooverville, đó là một khu tụ tập gần bờ sông của các gia đình di dân, họ làm lều, nhà giấy các tông, lợp cỏ tạm bợ sống qua ngày chờ việc. Những trại tạm cư tự lập thường thấy tại California dơ bẩn, đông đúc, khiến chính quyền lo sợ, Bộ y tế thường cho lệnh giải tỏa, đốt trại để xua đuổi bọn nghèo đói đi, sống chết mặc bay.
Bà mẹ Tom Joad đem đồ ra nấu ăn, bọn trẻ đói khát kéo lại gần nhìn bằng cặp mắt thèm thuồng, bà cụ không nỡ xua đuổi chúng, chia phần cho mọi người trong gia đình xong bà chừa lại một chút dưới đáy nồi cho bọn trẻ, chúng xúm lại múc vét. .
Có hôm đẹp trời, một ông chủ ăn mặc lịch sự lái xe đến trại tìm người hái quả, một anh thanh niên, bạn mới quen của Tom Joad hỏi ông chủ:
-Ông trả chúng tôi bao nhiệu?
Ông ta nói mập mờ:
Khoảng mấy chục xu.
-Ông phải nói rõ ông mướn chúng tôi bao nhiêu? Nếu không ông không có quyền mướn người!
Nói qua nói lại, ông chủ sai cảnh sát ngồi trong xe bắt anh này về tội phá rối, anh ta bỏ chạy, cảnh sát bắn theo lại trúng một bà già. Tom chạy lại ôm chân ông cảnh sát, ông đạo Casy, bạn chàng đá vào đầu người cảnh sát chết giấc. Một lúc sau xe cảnh sát tới bắt Casy, chiều ấy gia đình Tom Joad phải kéo nhau ra đi vì chính quyền cho người đốt trại.
Gia đình đến ở tạm tại một trại của chính phủ thuộc bộ canh nông. Sở định cư có lập một số trại có điện nước, có tiêu chuẩn vệ sinh, tự quản không có cảnh sát an ninh ăn hiếp di dân. Họ rất thích không khí tại đây song không tìm được việc lại phải dời trại.
Tom và gia đình tìm được việc hái đào (peach) tại trại Hooper Ranch, họ trả rẻ mạt song trước mắt phải có tiền độ nhật, bốn người trong gia đình nhận việc, ai nấy hy vọng trong mấy tháng sẽ kiếm được tiền thuê nhà.
Không khí tại đây thiếu tự do thoải mái như ở trại chính phủ, có an ninh kềm kẹp, số người di dân đến xin việc ngày một đông, chủ trại được thể bóc lột nhân công xương tủy. Một buổi tối Tom đi rong chơi rồi lạc bước đến một cái lều và tình cờ gặp lại bạn cũ, ông đạo Casy, người đánh cảnh sát nay được thả vào làm việc tại đây. Tối ấy Casy bàn chuyện đình công vì họ hạ lương xuống còn một nửa chưa đủ ăn cho một miệng người. Cảnh sát biết tin bèn tìm đến, mọi người bỏ chạy, Tom và Casy lần xuống một con lạch, một tên cảnh sát hung dữ dùng gậy đập chết Casy, Tom giựt cây gậy đập chết tên này để trả thù cho bạn rồi thoát được về nhà, chàng bị đánh ở mặt, sưng một bên má.
Sáng hôm sau gia đình phải rời trại ngay vì Tom đang bị lùng bắt, chàng chui dưới tấm nệm trong xe nên thoát nạn.
Họ đến làm việc tại một trại hái bông gòn, thu nhập đỡ hơn, Tom Joad phải trốn ngoài đồng, ngày chui vào ống cống, đêm ngủ ở vườn nho, tối nào bà mẹ cũng đem đồ ăn tiếp tế vì chàng bị truy nã, khi nào vết thương ở mặt lành mới dám vào trại.
Cuộc sống khả quan hơn, bà mẹ mua thịt, bột mì, khoai về làm đồ ăn, cả nhà hy vọng vào ngày mai, bỗng một hôm đứa con gái nhỏ trong gia đình vô tình nói với bọn trẻ hàng xóm anh nó Tom Joad đã giết người đang trốn. Bà mẹ sợ quá vội tìm chàng, tối ấy bà đưa cho chàng bẩy đồng nói chàng phải đi ngay vì sợ bại lộ, Tom từ biệt mẹ chàng nói.
… Con sẽ ở khắp mọi nơi chỗ nào mà mẹ muốn tìm. Chỗ nào tranh đấu cho người nghèo đói có ăn, con sẽ có mặt! Chỗ nào có công an cảnh sát đánh người, con sẽ đến nơi . . chỗ nào có tiếng trẻ em nghèo đói thấy bữa ăn, khi người dân ăn miếng bánh họ làm ra và ở trong căn nhà họ dựng lên, con sẽ tới nơi . (. .Wherever they’s (tức there is) a fight so hungry people can eat, I’ll be there. Wherever they’s a cop beating up a guy, I’ll be there. . )
Gia đình chuyển đến một trại bông gòn nhỏ hơn, họ trả khá hơn song rất nhiều người tới làm, chỉ một lúc là hết việc.
Mùa hái trái cây, bông gòn đã qua…
Hết việc, không tiền không thực phẩm, mưa gió dầm dề, nước ngập vào trong lều, bọn di dân đành chịu trận nhìn nước bò dần vào.
Rose Of Sharon, em gái Tom có bầu, mới sanh, cô và gia đình phải dọn đến một nhà kho. Truyện kết thúc khi Rose lấy sữa của mình cứu sống một ông bị kiệt sức đang nằm trong góc.”
 
Trong số những tác phẩm văn chương nổi tiếng của văn học Mỹ như Cuốn Theo Chiều Gió, Lão Ngư Ông Và Biển Cả, Truyện Quái Ðản của Edgar Poe, Godfather…The Grapes Of Wrath là cuốn tiểu thuyết mà tôi thích nhất.  Đây là một tác phẩm hiếm có của văn học Mỹ, vô cùng hiện thực đã diễn tả quá đầy đủ về giai đoạn cay đắng gian khổ nhất của xã hội Mỹ cũng như của con người. Tác phẩm đã thể hiện tiếng nói của John Steinbeck, tiếng nói của lẽ phải, công bằng, tiếng nói đấu tranh cho nhân phẩm và quyền sống của con người.
Người ta thường nói nước Mỹ là thiên đường vật chất khi nhìn cuộc sống sung túc giầu có và nền kinh tế phồn thịnh của nó. Nhưng không phải rằng của cải vật chất ấy tự trên trời rơi xuống, không phải rằng nước Mỹ đã được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc, mà những con người cần cù của đất nước rộng rãi bao la này đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu xương máu để tạo nên một nền kinh tế thịnh vượng như chúng ta thấy hiện nay. Họ cũng đã trải qua bao nhiêu phấn đấu cam go gian khổ và bao nỗi thăng trầm. The Grapes Of Wrath đã làm sống lại giai đoạn cam go, cay đắng đầy nước mắt ấy.
 
Khi mới xuất bản, cuốn truyện đã bị nhiều dư luận chỉ trích kịch liệt, nhất là những người đã bị đụng chạm. Một số trí thức cho là truyện không có nghệ thuật, không thuyết phục được ai, một số trường học thư viện cấm lưu hành vì sợ nó xúi dục bạo loạn và dùng ngôn ngữ trắng trợn. Các ông lớn, tu sĩ hữu khuynh, hiệp hội nông dân, chính trị gia… tố cáo tác phẩm có khuynh hướng thân Cộng Sản, không có giá trị đạo đức, suy thoái, sai sự thật. Một vị dân biểu Oklahoma cho rằng truyện này láo khoét, sự sáng tạo của một bộ óc điên loạn, một tu sĩ dòng Tên kết án nó tuyên truyền cho Cộng sản.
 
John Steinbeck cho rằng khi tài sản tập trung trong tay một số ít người nó sẽ bị lấy đi, khi đa số người dân là nghèo đói thì họ sẽ dùng vũ lực để chiếm lấy (When a majority of the people are hungry and cold they will take by force what they need).
Lịch sử đã chứng tỏ như vậy, các ông điền chủ bỏ nhiều tiền mua các phương tiện vũ lực chống nổi dậy vì họ sợ rằng mấy trăm ngàn người đói rách này nếu có người lãnh đạo thì họ sẽ sụp đổ. (three hundred thousand – if they ever move under a leader – The end)
Bạo lực vũ khí không thể đè bẹp đám đông được, người ta không lưu ý tới nguyên nhân sự nổi dậy (có thể), không quan tâm tới kế hoạch đổi thay kinh tế.
 
Nhóm khuynh tả ca ngợi đây là một thắng lợi của văn chương vô sản. Nhưng cuốn sách ũng lại được các sử gia trí thức nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích và bênh vực cho giá trị tả chân hiện thực của nó, tác phẩm đã phản ảnh tiếng nói của lớp người bị đẩy vào bước đường cùng. Tổng thống Roosevelt và phu nhân khen truyện trung thực vô tư, năm 1940, phu nhân tổng thống đi thăm các trại và tuyên bố “John Steinbeck không nói ngoa chút nào”
 
Cuốn tiểu thuyết được viết trong mấy tháng nhưng Steinbeck đã bỏ nhiều năm thu thập dữ kiện và sửa soạn, năm 1938 ông đi thăm các trại di cư ở Visalia và Nipomo, mấy ngàn gia đình đói khát bệnh tật, nhiều người chết vì đói, tỉnh và tiểu bang không giúp gì họ vì cho đó là những người ngoài.
Di dân đi xin trợ cấp, Sở cứu trợ cho biết họ phải ở đủ một năm, người lớn lo sợ, trẻ nít đói khóc đòi ăn, nhiều người đi xin ăn, trộm cắp. Tại các tỉnh nhỏ mới đầu người ta thương di dân sau đâm sợ, tuyển cảnh sát thêm, mua thêm súng để đề phòng bọn nghèo đói nổi dậy, những điểm này đã được ông diễn tả trong phần cuối truyện, tấn thảm kịch lớn lao thời khủng hoảng kinh tế.
Các điền chủ lớn ngày càng phát tài, thịnh vượng, họ có máy đóng hộp đào, lê, táo để tới năm sau cũng được. Chủ nhỏ nhiều người phải bán rẻ dất đai cho chủ lớn vì không có máy đóng hộp không giữ được sản phẩm, tài sản ngày càng tập trung trong tay một số ít người, đó là đặc điểm của nền kinh tế tư bản.
Các điền chủ có những quyết định kinh tế có lợi cho họ nhưng lại vô nhân đạo, không còn tình dân tộc nghĩa đồng bào. Sản phẩm không bán được bị đem hủy đi để giữ giá hàng. Họ chất cam vàng óng thành một đống rồi tưới dầu hỏa lên hay đổ khoai tây xuống sông, đặt người canh gác hai bên bờ, cấm không cho bọn nhà nghèo được vớt. Họ giết lợn, đào hố chôn tập thể. Dân thiếu ăn đói khát vớt khoai ăn bị lính bắt phải đổ xuống sông chỉ có nước thèm nhỏ dãi đứng nhìn khoai tây trôi bồng bềnh trên sông hoặc nghe tiếng lợn bị giết kêu eng éc. John Steinbeck cho đó là một tội ác vô nhân đạo và vô lý.
Trong con mắt của những người di dân đói khát, niềm phẫn nộ dâng lên, trong tâm trí của bọn điền chủ chùm nho phẫn nộ dâng cao vì vụ mùa nho thất bại (…The Grapes of Wrath are filling and growing heavy)
Ðó là ý nghĩa của The Grapes of Wrath.
 
Mặc dù tác giả chỉ đề cập đến những người di dân da trắng không nói đến bọn di dân Tầu, Nhật, Mễ… số này khá đông, nhưng truyện cũng được coi như có giá trị nhân bản, tranh đấu cho nhân phẩm và quyền sống của con người: Một gia đình di dân vật lộn với cuộc sống gian truân để tới miền đất hứa, nhiều ngàn vạn người khác cũng di cư tìm đất hứa, đây cũng là truyện di cư của nước Mỹ, nhìn xa hơn ta cũng có thể coi nó như cuộc di cư của nhân loại đi tìm đất hứa.
Nay đa số các nhà phê bình phân tích cho rằng The Grapes of Wrath chỉ là một tác phẩm văn chương không phải là một tài liệu tuyên truyền, nó đã diễn tả và phá tan huyền thoại “đất hứa California”. Con người, tiêu biểu là chàng thanh niên đầy nhiệt huyết Tom Joad ước mơ một xã hội công bằng, tự do, tôn trọng nhân phẩm, con người tự gặt hái thành quả của chính mình.
The Grapes Of Wrath một tác phẩm nghệ thuật có giá trị văn chương  cao đã diễn tả chân thực những ảo tưởng tan vỡ, những nỗi đau khổ của con người, những niềm hy vọng treo trên sợi chỉ mành mong manh. Trên thế giới vẫn còn quá nhiều khổ đau, The Grapes Of Wrath cũng đã đóng góp một phần trong sự diễn tả một cách hiện thực những nỗi cay đắng của con người ngay cả tại phần đất đã được coi như phồn thịnh nhất thế gian này.
 
Toàn bộ tác phẩm dài 600 trang gồm nhiều đoạn đối thoại dài lê thê nhất là lúc mới vào truyện, Tom Joad gặp lại ông đạo Casy và người bạn Muley, những mẩu chuyện hàn huyên không liên hệ với nội dung là mấy. Lời văn bình dị, không chau chuốt nhưng cảm động đầy nước mắt, John Steinbeck bắt chước ngôn ngữ bình dân trong văn đối thoại cho thêm phần hiện thực. Truyện có nhiều tiếng lóng tiếng lái vừa dễ hiểu mà cũng khó hiểu, trong bản thảo có nhiều tiếng chửi thề đù má đù mẹ, người ta đề nghị bỏ đi vì sợ vô phép với độc giả, ông đã đồng ý. Tên truyện do bà vợ đầu của ông đặt ra, rút từ một bài hát, nó không phù hợp với nội dung chủ đề là mấy. Ðộc giả nhiều người không hiểu tại sao lại gọi là The Grapes Of Wrath, theo tôi biết nó chỉ được nhắc lại có một lần trong toàn bộ tác phẩm
(In the eyes of the hungry there is a growing wrath, in the souls of the people the grapes of wrath are filling and growing heavy, growing heavy for the vintage)
Ý nói người nghèo đói giận dữ vì thực phẩm đổ xuống sông, điền chủ phẫn nộ vì vụ mùa nho thất bại, làm rượu không kết quả. 
 
The Grapes Of Wrath không phải chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một tài liệu lịch sử giá trị về xã hội kinh tế của thời khủng hoảng với đầy đủ dữ kiện chân thực và sống động. Những người bị đụng chạm đã lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ vì những quyền lợi riêng tư của họ. Bênh vực cho những người nông dân nghèo đói bị kết án khuynh tả, tuyên truyền cho Cộng sản là không đúng vì bênh vực cho những người nghèo đói không phải là độc quyền của Cộng sản.
The Grapes Of Wrath vẫn sống mãi trong tâm khảm của người đọc, hình ảnh Tom Joad, một người hùng hiên ngang, can đảm đương đầu với bạo lực vì lẽ phải, công bằng và nhân phẩm của con người. Người Mỹ rất mê những nhân vật anh hùng, khi nói tới truyện hoặc phim, những lời Tom từ biệt mẹ già thường được nhắc tới như một danh ngôn bất hủ.
“. . Chỗ nào có đấu tranh cho người nghèo đói có ăn, con sẽ có mặt! Chỗ nào có công an cảnh sát đánh người, con sẽ tới nơi. .”
Những lời ấy đã rung cảm người đọc từ bao lâu nay, nó cũng đã khiến bao người ứa lệ vì chân thực và cao đẹp biết bao. John Steinbeck đã thành công mỹ mãn vì tạo dựng được một mẫu người quá đẹp khiến cho tác phẩm của ông trở lên mỹ miều diễm lệ.
Điều đáng nói là người tỵ nạn kinh tế trong truyện từ tiểu bang này sang tiểu bang kia tại Mỹ bị xua đuổi, kỳ thị, bị đối xửa tàn nhẫn cũng giống như bên Trung Hoa năm 1942 qua phim ảnh những người tỵ nạn chiến tranh từ tỉnh này sang tỉnh khác bị xua đuổi, đối xử thậm tệ. Tôi nhớ lại tại miền nam VN trước 1975 những người tỵ nạn chiến tranh từ tỉnh này, vùng nọ chạy tới đều được tiếp đón ân cần.
Năm 1940 truyện đã được quay thành phim, hãng Twentieth Century Fox mua bản quyền 70 ngàn đồng, cam kết giữ nguyên nội dung xã hội của tác phẩm. Bất chấp mọi phản đối, Darryl F. Zanuck thuê Johnson, ký giả viết lại truyện phim và John Ford đạo diễn. Sau này này nhà đạo diễn cho biết tại quê hương ông bên Ái Nhĩ Lan người ta cũng truất hữu đất đai của bọn tá điền nghèo khiến cho họ lang thang ngoài đường đói rách y như bọn Oklahoma, ông cũng thích đề tài này, thích gia đình Tom đi tìm đất hứa. nhưng không trúng giải, diễn xuất của anh trong phim thật là tuyệt vời. Cuối cùng phim chỉ được hai giải: Giải đạo diễn John Ford và giải diễn xuất cho
Phim được đề cử 7 giải Oscars, Henry Fonda vai Tom Joad được đề cử Jane Darwell trong vai phụ mẹ Tom, sau này The Grapes Of Wrath đã được xếp trong số mười phim hay nhất mọi thời đại (all time best) của Mỹ, đồng thời với La Grande Illusion của Pháp (quay 1937, Jean Renoir) và Cuốn Theo Chiều Gió (1939), ba cuốn phim đã đánh dấu bước tiến dài của nghệ thuật thứ bẩy cuối thập niên 30.
Mặc dù chỉ là phim đen trắng đơn sơ nhưng sự diễn tả cũng đầy ý nghĩa, với kỹ thuật thô sơ non kém từ nửa thế kỷ qua nhưng giá trị hiện thực của nó thật tuyệt vời, nhờ tài dàn cảnh của nhà đạo diễn lỗi lạc John Ford cũng như diễn xuất điêu luyện của các vai chính vai phụ từ trẻ em cho đến ông bà già. Mặc dù không nói lên được nhiều như tác phẩm 600 trang nhưng cũng đủ làm sống lại một giai đoạn đen tối của xã hội Mỹ thời khủng hoảng kinh tế, nó thể hiện bằng cách tả chân nỗi nhục nhằn cay đắng của đám di dân đi tìm đất hứa bị kỳ thị, khinh miệt, chà đạp, bóc lột xương tuỷ.
Nhà làm phim bỏ bớt đi những đoạn dài dòng văn tự vì phim ảnh không thể quay sát hoàn toàn một cuốn tiểu thuyết tràng giang đại hải được. Mặc dù đơn sơ ngắn gọn nhưng hình ảnh của nó đôi khi lại hiện thực và linh động hơn tác phẩm như cảnh bọn trẻ đáng thương đói khát lem luốc thèm thuồng miếng ăn vây quanh bà cụ đang nấu nướng hoặc cảnh trại Hooverville, người cảnh sát bắn thường dân bị Casy đánh chết giấc, hoặc buổi tối ở trại Hooper Ranch bọn an ninh đánh chết Casy. Những hình ảnh sống động ấy cho ta thấy một xã hội còn đầy rẫy bất công, đàn áp, kỳ thị địa phương.
Trong truyện gia đình ở trại chính phủ sau mới sang trại hái đào và cuối cùng đi hái bông gòn, Tom Joad trốn ở ngoài đồng nhưng trong phim người ta đổi ngược lại, gia đình ở trại hái đào, Tom Joad đánh chết cảnh sát và gia đình trốn đến trại của chính phủ, trong truyện chàng từ biệt mẹ ngoài đồng nhưng trong phim từ biệt mẹ tại trại chính phủ. Nhưng những lời chàng từ biệt mẹ đã được giữ nguyên văn y như trong truyện không sai đến một câu một chữ vì người ta cho đó là những lời hay nhất ý nghĩa nhất của tác phẩm.
Có thể nói đây là một cuốn phim hiếm hoi của nền điện ảnh Mỹ với giá trị hiện thực không khác gì trong các phim xã hội Ý, người Ý rất sở trường về đề tài hiện thực xã hội và bây giờ đạo diễn Hoa Lục Trương Nghệ Mưu cũng rất say mê chiều hướng này và đã đạt được những bước tiến xa. Tôi chưa thấy cuốn phim Mỹ nào hiện thực như vậy, nó đã làm sống lại chặng đường gian khổ đầy nước mắt mà xã hội Mỹ đã trải qua cùng những ảo tưởng tan vỡ của đám di dân đi tìm đất hứa.
Cuốn phim cũng là tiếng nói bênh vực cho nhân quyền, nhân vị của những người thấp cổ bé họng đã bị chèn ép, áp bức, khinh thị tủi nhục, ta không thể nào quên được Tom Joad, hình ảnh của người hùng đứng lên đương đầu với bạo lực vì công bằng, nhân phẩm con người. The Grapes Of Wrath rất xứng đáng được xếp trong số mười phim hay nhất của Mỹ từ trước đến nay, với hình ảnh đen trắng đơn sơ nhưng nghệ thuật điêu luyện, nội dung cảm động sâu sắc diễn tả được tất cả những nỗi khổ đau của con người. Tiếng khóc nghẹn ngào của bà mẹ từ biệt con và nhìn chàng ra đi cũng quá đủ để nói lên tất cả và những lời chàng từ biệt mẹ khiến cho khán giả không cầm được nước mắt.
“Con sẽ ở khắp nơi, chỗ nào mẹ muốn tìm. Chỗ nào có đấu tranh cho người nghèo đói có ăn, con sẽ có mặt. Chỗ nào có công an cảnh sát đánh người con sẽ tới nơi. . .chỗ nào có tiếng cười của trẻ em đói khát khi thấy bữa ăn, khi người dân ăn miếng bánh họ làm ra và ở trong căn nhà do họ dựng lên, con sẽ đến tận nơi”.
Trọng Ðạt

 http://www.vietthuc.org

 

Đăng ngày 02 tháng 04.2015