banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn tạm ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Hai vạch mốc thời gian

NTTK

Ngày 30 tháng Tư lại lừng lững trở về. Con số này mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho hàng triệu triệu người ở ngoài cũng như còn trong nước. Riêng tôi, tình cờ, nó lại là con số không chỉ đánh dấu 1 biến cố đảo lộn hết mọi thứ trong cuộc đời của tôi, mà tới 2 lần.
30/04/1975, tôi chưa đủ 10 tuổi để hình dung được cái gì sẽ xảy đến cho gia đình, những người thân yêu, chòm xóm và bạn bè, huống chi là hiểu được cái gì sẽ xảy ra với thành phố mến thương, nơi tôi sinh ra rồi lớn lên, với cái to lớn hơn tôi được dạy gọi là “quê hương”.
Phải đợi đúng bốn năm sau, khi tôi cầm tấm bảng đen nhỏ trên tay, (trên đó một người chị nào đó viết bằng phấn trắng họ tên, con số của chiếc ghe đã đưa tôi ra khỏi quê hương, ngày đến đảo và ngày sinh của tôi), giơ lên trước ngực rồi nhìn vào một ống kính để chụp tấm hình lập hồ sơ cho UNHCR, tôi chính thức thành một “thuyền nhân tị nạn cộng sản”. Lúc đó tôi mới dần dần hiểu thấu được ý nghĩa của một “Boat people”.

Trước đó chữ “boat people” chưa hề có mặt trong bất cứ cuốn từ điển nào trên thế giới. Lịch sử loài người đã có rất nhiều các cuộc di cư, di tản, tị nạn. Gia đình Joseph và Maria xứ Nazareth chính là những người lưu vong xa xứ khi sắp sửa cho đứa con đầu tiên của họ chào đời,  mà sau này người con đó lập ra một tôn giáo rất quan trọng trên hành tinh này. Nhưng chưa bao giờ có một làn sóng người đông đúc đã chọn cách trốn tránh đàn áp, lao khổ, trên những chiếc ghe, thuyền đóng bằng gỗ mong manh, dật dờ nhiều ngày trên biển khơi đầy phong ba, bão tố và hải tặc!!! Thế mà sau cái ngày định mệnh 30 tháng Tư đó không lâu, hàng triệu người đã chọn lối thoát đó. Nhiều đến nỗi lần hồi thế giới biết đến hoàn cảnh bi đát ấy và bắt đầu gọi họ là “thuyền nhân”.

Tôi nghe nói, hai chữ “người Tàu” mà người Việt Nam mình dùng để gọi những người Minh Hương đến định cư tại Việt Nam, đặc biệt rất nhiều ở vùng Hà Tiên, là vì các con cháu và bộ hạ đi theo vị tướng soái Mặc Cửu  của họ đã cập bến miền Nam trên những chiếc TÀU (buồm?), vì họ không muốn đầu hàng triều đại nhà Thanh đã lật đổ triều đại nhà Minh trên cố hương của họ. Không biết tôi hiểu như vậy có đúng không? Thời đó chưa có Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), nhưng tôi phỏng đoán, nếu có, chưa chắc họ sẽ mang tên “boat people” như chúng tôi bây giờ. Vì hai chữ “thuyền nhân” rất đặc thù, luôn luôn chỉ được dùng cho nhóm người Việt Nam phải tị nạn chế độ cộng sản, mặc dù quê hương của họ vừa mới được tái lập hòa bình, được thống nhất Bắc Nam!
Đó mới là điều đau lòng nhất cho quê hương và giống nòi của tôi! “20 năm nội chiến từng ngày”, bao nhiêu tấn bom đã dội lên mảnh đất màu mỡ phì nhiêu, bao nhiêu cây cầu bị mìn giựt sập, bao nhiêu trường học bị pháo kích, bao nhiêu đau thương và mất mát đã xảy ra hằng ngày… thế mà không có một người miền Nam ở dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa tìm đường bỏ nước ra đi. Thế mà chỉ mới 1-2 năm sau “ngày thống nhất, hòa bình” đó, người ta lại lũ lượt tìm mọi cách để thoát thân! Bằng đủ mọi cách: Băng rừng lội suối, vượt qua Campuchia để đến Thái Lan; Lên những chiếc ghe ọp ẹp gọi là “đi chui” hay “đi bán chính thức”. Tất cả đều đầy bất trắc, nguy hiểm như nhau!

Cách đây không lâu, có một tài tử Hollywood tên Quan Kế Huy nhận lãnh giải thưởng Oscar. Điều Ông gây ấn tượng nhất cho tôi là khi Ông lãnh giải, bên cạnh những xúc động bộc lộ qua đôi mắt long lanh ngấn lệ, giọng run run, Ông bắt đầu ngay với hai câu tự sự:
“Cuộc hành trình của tôi bắt đầu trên một chiếc ghe. Tôi sống qua một năm trong một trại tỵ nạn. Và bây giờ …”
Không biết manager của ông có căn dặn Ông đừng đá động gì đến 4 chữ nhạy cảm “tị nạn cộng sản” hay không, để tránh tạo những khó khăn không cần thiết với chính quyền Trung Quốc là gốc gác của gia đình Ông, nhưng với hai câu nói đó thôi, Ông đã khẳng định được 2 điều:
1/ Ông là một thuyền nhân.
2/ Ông đã từng ở trại tị nạn.
Hai điều đó kết hợp với nhau tạo thành một lý lịch không thể chối cãi hay bẻ cong được rằng ông là người tị nạn cộng sản, một “boat people”.
Vậy mà chỉ vài ngày sau, trên Instargram, tôi thấy được một Meme của một cơ quan ngôn luận nghiêm túc của Đức (Funk) chiếu đi chiếu lại cảnh ông Huy tay cầm chặt tượng vàng, gần như là khóc nức nở kêu “Mẹ ơi! Con trai mẹ vừa mới thắng giải Oscar đây”. Họ đem ra làm trò cười, chua thêm những lời chú thích diễu cợt đại loại: “Tôi, lúc vừa về nhất Mario Cart / Tôi, lúc vừa ăn hết một TK-Pizza / Tôi, lúc vừa viết được điểm 4- trong môn Toán / Tôi, lúc vừa dọn dẹp xong phòng ốc của mình“! Vì họ không hiểu được cảm xúc của một người tị nạn phải bắt đầu từ con số không tại một đất nước xa lạ. Họ cũng không để ý đến đoạn đầu tiên trong lời cảm ơn của ông, đến 2 câu tự sự “khai lý lịch” của Ông. [Sau một thời gian, có rất nhiều phê bình nhận xét thấy việc diễu cợt đó không lấy gì là lịch sự nên cơ quan truyền thông đó có lên tiếng cắt nghĩa, nhưng vẫn không chịu gỡ xuống clip đó!]
Cái Meme đó nhận khá nhiều lời bình luận nên tôi cũng tò mò đọc lướt qua. Tôi đã hết sức ngỡ ngàng, nếu không muốn nói là bất bình hay chua cay vì thấy người Tây Phương vẫn có một cái nhìn về cuộc chiến Việt Nam hết sức phiến diện. Có khá nhiều bình luận đại ý như: “Ồ, bây giờ ông ta, (tức Quan Kiến Huy) lại hết lòng cảm ơn nước Mỹ là nước đã đem bao nhiêu súng ống, đạn dược đến để thực hiện chiến tranh tại Việt Nam” v.v... và v.v... Họ không hiểu được đất nước tôi vô phúc bị chọn làm chiến trường cho cuộc chiến tranh giữa 2 khối cộng sản và tư bản.

Mới đây thôi, con gái tôi rủ tôi xem một phim trên Netflix với tựa đề “A Tourist’s Guide To Love”, một phim “hài, vui nhộn, trộn với tình cảm lãng mạn” (romantic comedy). Phim do Rachael Leigh Cook sản xuất, đồng thời thủ vai chính, kịch bản do Eiren Tran Donohue viết và đạo diễn là Steven K. Tsuchida. Trong mắt tôi, phim thuộc hạng dưới mức trung bình vì cốt truyện lẫn making-of rất nhạt nhẽo, sử dụng những clichés khuôn sáo có sẵn, để tả về một Việt Nam là một nước du lịch tuyệt vời. Bà Cook muốn giới thiệu về Việt Nam không chỉ có thiên nhiên xinh đẹp mà điểm đặc biệt nổi bật của Việt Nam là lối sống và cách cư xử của người dân Việt rất vui vẻ, hiếu khách, tiến bộ, nhưng đồng thời vẫn giữ được những nét đẹp của văn hóa xưa (điều này tôi rất quý). Nhưng đi xa hơn, mục đích của Mrs.Cook là muốn nhắc cho khán giả biết rằng Việt Nam giờ đã khác xa với một Việt Nam luôn làm đa số người Mỹ chỉ nhớ đến chiến tranh, đã có thời làm cả nước họ xuống đường biểu tình, làm lung lay cả Toà Bạch Óc cuối thập niên 60!

À há! Người đồng minh phản bội năm xưa, không những chưa bao giờ lên tiếng xin lỗi nước đồng minh bạn, mà giờ lại còn muốn rêu rao “Việt Nam bây giờ xinh đẹp, dễ thương vô cùng, chẳng ai nhắc lại một tí gì về chiến tranh đâu… Quý vị hãy về và nhớ ráng đi tìm những tổ chức du lịch  tiếp cận, sẽ tìm được nhiều góc cạnh tuyệt vời về đất nước và con người Việt Nam lắm!”
Hỡi ôi cho sự ngây thơ hoặc hời hợt của cô đào điện ảnh Mỹ Leigh Cook! Mục đích của Cook xét ra cũng “tốt bụng”, nhưng rất may rằng phim không được đánh giá tốt lắm. Bình luận hầu hết thẩm định: “Phim chỉ có cảnh đẹp, ngoài ra thì quá nhiều clichés không kể xiết; Phim chỉ đem cho người xem vài giây phút giải trí rồi sẽ quên đi …”
Mong rằng quan điểm của Cook không phải là quan điểm chung, đại diện cho đa số người Mỹ hiện nay.

Tôi thực sự không thuộc loại người suốt đời chỉ thích trách móc người phản bội, càng không phải người không có khả năng buông xả. Vâng, tôi yêu chuộng hòa bình, luôn cố gắng tạo những giao hảo tốt giữa các con người với nhau, là một người đi đầu của “hoà hợp, hoà giải dân tộc”. NHƯNG xin chỉ hoà hợp, hoà giải thực lòng và rốt ráo - điều mà Ba Mẹ tôi cũng như bao nhiêu người cùng thế hệ ông bà đã mong đợi và tin cậy sẽ nhận được - nhưng hy vọng khiêm nhượng, nhỏ nhoi đó đã bị chế độ mới phá bỏ không thương tiếc!
1954, ba mẹ tôi đã phải một lần bỏ xứ sở quê hương, bà con, người thân thương ruột thịt, chòm xóm láng giềng lại hết sau lưng và làm lại từ đầu.
1975, hai vị lại phải đứng trước một quyết định nặng nề, nghiêm trọng. Nhưng ba mẹ tôi đã chọn ở lại, không di tản dù có khả năng dễ dàng. Sau này tôi có dịp hỏi cả hai “Sao ba mẹ không chọn đường chạy sớm lúc 30/04?”, thì được biết: Ba mẹ cũng đã mệt nhoài với trên 20 năm nội chiến, huynh đệ tương tàn; Ba mẹ không tin có trả thù ác nghiệt từ phe chiến thắng, vì dù gì cũng là người cùng một tổ tiên, màu da và tiếng nói cơ mà; Thôi thì cũng là hoà bình, thống nhất Bắc Nam!…

Thế nên chúng tôi cũng như mấy chục triệu người của “chế độ cũ” mới phải chua cay nhận ra niềm hy vọng mình có được là vì quá ngây thơ! Một sớm một chiều, gia đình chúng tôi trở thành “Ngụy quân, có nợ máu với nhân dân, là tay sai cho thực dân, đế quốc”, v.v… Ba bị đưa ra tận núi rừng Việt Bắc mịt mùng không biết ngày nào được về. Mẹ một mình xoay xở với bầy con chỉ biết ăn học chứ chưa bao giờ biết lao động theo ý nghĩa Mác-Lê. Nói là xoay xở cho oai chớ thực tế bà chỉ có một cách là bán dần tư trang, của cải dành dụm được để chúng tôi không đói rách quá. Chưa ai trong nhà phải lao ra chợ trời buôn bán.
Nhưng tôi nhớ rõ rằng trong những năm đầu đó, mẹ và chị em chúng tôi vẫn sẵn sàng và thực sự chịu đựng được những đói khổ, thiếu thốn về vật chất. Chỉ về mặt tinh thần thì chúng tôi gục ngã thảm bại! Một không khí nghi kỵ, ngột ngạt, bất trắc, phập phồng lan tỏa khắp nơi, không chỉ giữa làng xóm với nhau mà nó như một khối ung thư tiếp tục len lỏi vào giữa họ hàng ruột thịt, bà con xa gần! Bà tổ trưởng tổ dân phố luôn làm như thân mật, quan tâm thăm hỏi mẹ con chúng tôi, nhưng thật ra là muốn dụ dỗ mẹ tôi: “Chị chấp nhận đi Kinh Tế Mới là ông nhà được về liền”. Rất may Mẹ không nhẹ dạ tin theo lời đường mật đó, nhưng những đe dọa vu vơ, bóng gió đó trở thành áp lực thường xuyên và ngày càng rõ rệt và gia tăng. Mẹ không lo sợ sao được khi phải dự một khóa “bồi dưỡng nghiệp vụ” học về Mác-Xit, Lê-Nin-Nít, phải chịu tẩy não cấp tốc và nhồi sọ gắt gao xong mới được trở lại phấn trắng bảng đen, trước khi “lên lớp” phải trình giáo án cho giám học là một cán bộ mặt lạnh như tiền. Rồi học tập, thu hoạch, báo cáo, lao động xã hội chủ nghĩa triền miên tại trường, tại tổ dân phố. Khi thấy các con lần lượt xong trung học nhưng không đậu được vào bất cứ một đại học nào vì lý lịch. Khi thấy đứa con út xấp xỉ 12 tuổi về nhà kể đã đi xem “Triển lãm tội ác Mỹ Ngụy” với Đội thiếu niên khăn quàng đỏ. Khi thấy các cô cậu thanh niên đeo băng đỏ đập cửa đòi lấy sách đem đốt trong chiến dịch “Bài trừ văn hóa đồi trụy” v.v...

Một năm sau, họ hàng ngoài Hà Nội bắt đầu lục tục vào Nam thăm gia đình chúng tôi. Không một ai dám lên tiếng đỡ đầu cho một đứa cháu nào xin được một chỗ trong trường đại học. Đa số chỉ vào để xin xỏ đồ đạc. Xin nhiều chắc thấy mất công và xấu hổ, nên thỉnh thoảng vài món trong nhà không cánh mà bay đi mất. Như máy nghe radio và cassette với đúng cái băng có bài “L’amour, c’est pour rien” còn nằm trong đó, bất ngờ chễm chệ trên tủ của họ ngoài Hà Nội, đứng cạnh vài chai rượu ngoại nhìn thật quen, rất đắt tiền và khó tìm thời ấy! Bác gái ruột không gian manh vì Bác ấy ngù ngờ, rụt rè , bỡ ngỡ với đủ mọi máy móc kỹ thuật trong Nam hầu như nhà nào cũng có. Tôi nhớ hoài hình ảnh bác giật thót mình khi chúng tôi bật tivi lên xem. Bác thú thật với các cháu lần đầu tiên thấy cái máy vô tuyến đó, “bác tưởng như có một người lạ nào nhảy vào trong cái hộp đó”. Rồi bác cứ trầm trồ, mở to mắt, há hốc mồm trước cái tủ lạnh, quạt máy điện trên trần lẫn quạt đứng, cái máy giặt “quay vòng vòng mà giặt thật sạch tất cả áo quần cho gia đình”, cái tủ quần áo chật ních và thơm phức của ba mẹ tôi, tủ sách lớn đầy kín những sách vở xưa, có nhiều cuốn do chính tay Ông Ngoại (tức cha ruột của bác) mua về, cho đóng bìa cứng, mạ chữ vàng ở gáy sách. Mấy ngày cuối trước khi lên đường trở ra Bắc, tôi hay lăng xăng theo Bác gói quà cáp, vật dụng Bác mua về. Tôi còn nhỏ nên rất tự nhiên hỏi Bác sao lại đem vải vụn và những bịch dây thun về ngoài đó? Bác đỏ mặt nói với tôi “những cái này cũng quý lắm cháu ạ”. Trong đầu óc non nớt của đứa trẻ 11 tuổi, tôi không hình dung được “ngoài đó” ra thế nào, nhưng tôi mơ hồ thấy có cái gì hơi kỳ kỳ, là lạ.Bác trai thì hơi khác: Bác chỉ có mỗi hai thú vui là mượn xe đạp của chúng tôi tìm những tiệm “để ăn một bát phở đúng hương vị ngày xưa” và buổi trưa thì tất tả đến trước cổng trường Gia Long hoặc Trưng Vương để ngắm các tà áo dài trắng của các nữ sinh tan trường, mà theo bác “đẹp như một đàn bướm trắng đang bay ra khắp các nẻo đường”. Chỉ có một lần, bác bâng quơ nói “sợ sắp tới không còn được ngắm những cảnh đẹp này đâu!”
Tôi không biết hai bác có tâm sự hay khuyên lơn gì Mẹ nên sớm lo cho tương lai các con hay không.

Cuối năm 1978, nhà nước thúc đẩy người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức. Mẹ tôi nắm ngay cơ hội đó, đẩy 6 đứa con gái xuống tàu. Canh bạc đó Mẹ thắng lớn, chúng tôi đi trót lọt, (lọt qua được 3 tàu hải tặc Thái Lan với mất mát vật chất, của cải chớ không mất danh dự hay mạng sống như bao câu chuyện thương tâm khác). Khi bước chân lên đảo Mã Lai, nhìn quanh khắp chốn tôi mới ý thức được Mẹ thương chúng tôi biết chừng nào, vì người ta ngạc nhiên tại sao chúng tôi “chỉ là” con gái, đâu có bị bắt đi nghĩa vụ quân sự đâu mà lại vượt biển chi với bao nhiêu tốn kém và nguy hiểm!?! Vâng, Mẹ lo cho tương lai chúng tôi, hy sinh ở lại chờ ngày Ba được thả về, (nếu Mẹ đi luôn, coi như mất nhà, mất hộ khẩu, Ba có được ra tù thì sẽ thành vô gia cư không nơi nào chứa chấp, kể cả các anh chị em ruột còn khá nhiều ngoài Hà Nội!)
[Một chi tiết nhỏ: khi được thả về, Ba tôi bắt ngay chuyến xe lửa sớm nhất để về Sài Gòn, không thèm vương vấn một tí gì với gia đình, họ hàng tại Hà Nội, hay ít nhất một lần tạt ngang nhìn lại căn nhà mình được chào đời và lớn khôn tại đó. Về đến Sài Gòn, Ba tôi giục Mẹ tìm đường cho ông vượt biển ngay. Lúc đó ông phải chọn đường “đi chui”, nếu bị bắt coi như tàn đời, nhưng Ông bất chấp. Thật may mắn, Ông cũng đi thoát trót lọt]

Trở lại việc chúng tôi là một lũ con gái đi vượt biển, cả chục năm sau, tôi có một cơ hội đối đáp thẳng thừng với một người cô ruột, khi cô nhận xét, có ý khen ngợi “Mẹ là một phụ nữ can đảm thật, dám cho 6 cô con gái đi vượt biển như thế”, tôi đã dõng dạc nói: “Can đảm chắc cũng không nhiều lắm đâu ạ! Tại chế độ hà khắc quá nên Mẹ phải buộc lòng đẩy chúng cháu xuống thuyền, rủi nhiều hơn may, nhưng vì không thể ở lại nổi nữa. Đơn giản chỉ có thế thôi ạ! Trong Nam, người ta nói “cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng tìm cách vượt biên” là không ngoa đâu cô!”
Đứng dưới bàn thờ Mẹ và nói câu đó, tôi tin Mẹ không giận vì tôi đã không tặng cho Mẹ lời khen can đảm, vì Mẹ hiểu tôi muốn cho những người tự nhận mình đứng trong phe thắng cuộc, đừng tưởng rằng mình đã đi “giải phóng, cứu miền Nam thoát khỏi Đế quốc Mỹ, tên Sen đầm quốc tế xừng xỏ, gian ác …” Họ cần hiểu ra được một ít sự thật từng bị bưng bít, chối bỏ hay cố tình bẻ cong (“Bọn bỏ trốn ra nước ngoài là bọn phản động, chạy theo bơ sữa, đu càng giặc Mỹ, đánh phá cách mạng” v.v..)

Chồng tôi khuyên đừng nói các chuyện đó với những người bên kia làm gì, vì họ suốt đời không thể hiểu được. Tôi lại nghĩ khác: Nếu không là chúng ta, những nhân chứng của thời tao loạn, bị cướp hết mọi cơ sở để sống ngay thẳng, thì còn ai có thể làm việc ấy? Các con tôi đã dần lớn, trên đầu tôi cũng đã có hai thứ tóc, trí nhớ tôi còn minh mẫn sắc bén, thì tôi chỉ việc kể lại những gì đã thật sự xảy ra. Tôi không kêu gọi hận thù, chia rẽ, khủng bố nhau, nhưng tôi, chúng ta, cần nhắc đến sự thật. Không nhắc đến để sống yên thân - đối với tôi - là một hành động phản bội tiền nhân, phản bội lương tâm.

Bạn bè thì đủ mọi thái độ và hành động khác nhau. Người vẫn còn “lửa nung sôi trong máu”, người chọn cuộc sống khép kín, lặng lẽ vui hưởng tuổi già và thành công của con cái. Cũng có kẻ chạy theo cám dỗ của vật chất nên quay trở về hợp tác với chế độ đã từng xua đuổi họ. Thậm chí họ còn trịch thượng dạy dỗ, nhắn nhủ chúng tôi rằng chỉ có những người ở trong nước mới có thể tạo ảnh hưởng lên những xấu xa của chế độ. Vâng, tôi biết chứ. Nhưng tôi hy vọng họ hợp tác làm việc, thực sự tạo những ảnh hưởng tốt cho tiến trình xây dựng một xã hội công bằng, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, phát ngôn và tư duy. Hay là họ đang tự ru ngủ chính bản thân rằng họ đang đem lại cơm áo cho đồng bào trong nước, đem lại kiến thức, khoa học, kỹ thuật cho xã hội đây mà. Nhưng song song với việc đó, họ che mắt, bịt tai và ngậm miệng trước những bất công đầy dẫy đang xảy ra với đồng bào thua kém họ về tài sản lẫn trí tuệ tại quê nhà. Với những người vì chịu ơn mưa móc của đảng, một mặt trung thành với chế độ, nhưng mặt kia lại kín đáo khôn ngoan gửi con cháu cùng tài sản ra nước ngoài, chuẩn bị để “đáp cánh an toàn”… Với những người đó, tôi khinh họ! Tôi từ chối thẳng, không ngồi nghe những luận điệu cũ sàm, thuộc như vẹt nên rất trâng tráo của họ.

Nếu có đối thoại, tôi thích đối thoại với những người chịu khó đi tìm sự thật, điểm sai của cả đôi bên. Họ mới là hy vọng của Việt Nam, một đất nước tôi vô cùng yêu mến. Đã bao lần tôi cứ nghẹn ngào khi thấy tại sao người Đức lại có cái diễm phúc lớn như vậy? Họ cũng từng bị chia đôi đất nước, nhưng họ đã may mắn không tốn một giọt máu nhưng cũng được thống nhất. Đông Đức thoát ách cộng sản, đất nước được hưởng chế độ dân chủ và bây giờ ngày càng phát triển, hùng mạnh hơn. Còn dân tôi!?! Có độc lập không? Có tự do không? Có hạnh phúc chân thực không?
Con số 30/04 chưa bao giờ ngưng thôi khuấy động bao ưu tư về quê hương và nòi giống trong tôi.

ChùaLá, 24/04/2023, Nttk.

Trang Văn Chương Miền Nam
https://www.facebook.com/groups/395853348109312/





Sau 48 năm nhìn lại

30-04-1975, ai thắng ai bại?

Huy Vũ

Mỗi năm khi ngày 30 Tháng Tư đến gần là một câu hỏi to tướng: “AI THẮNG AI?” lại đến với nhiều người trong đó có tôi. Để có thể trả lời câu hỏi này một cách minh bạch, khách quan và trung thực sau 48 năm đã trôi qua,  thiết nghĩ, trước hết chúng ta cần phải xác định thực chất của cuộc chiến giữa Miền Bắc Cộng Sản (MBCS) hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) và Miền Nam Quốc Gia (MNQG) hay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

*Nhiều người cho rằng cuộc chiến tranh 1955-1975 giữa MBCS hay VNDCCH và MNQG hay VNCH là một cuộc NỘI CHIẾN, hay là một cuộc chiến Huynh Đệ Tương Tàn tương tự như cuộc nội chiến vào thế kỷ 17 giữa Nhà Nguyễn (Đàng Trong) và Nhà Trịnh (Đàng Ngoài).  

*Nhiều người khác cho rằng cuộc chiến tranh giữa Nam và Bắc VN vào thời gian 1955-1975, không hẳn là nội chiến, vì trong cuộc chiến tranh này, sự “tác động” từ thế giới bên ngoài, Thế Giới Tự Do (TGTD) và Thế Giới Cộng Sản (TGCS). Hai thế lực này đối nghịch với nhau như nước với lửa. Trong khi đó, sông Bến Hải hay vĩ tuyến 17th là ranh giới mong manh, ngăn cách giữa hai khối Cộng Sản và Tự Do.
Mặt khác, khối CS luôn luôn dùng bạo lực để bành trướng. Do TGCS đã dùng MBCS như một bàn đạp đế tấn công lấn chiếm khối TGTD. Trong khi đó, khối TGTD cũng không thể không ngồi yên, nên đã dùng MNQG như một tiền đồn để chặn đứng sự lấn chiếm của khối TGCS. Do đó, họ gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh ỦY NHIỆM. Nói khác đi là MBCS được sự ủy nhiệm của TGCS và MNQG được sự ủy nhiệm của TGTD.


Bộ đội Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975

* Lại cũng có nhiều người khác bảo rằng cả hai đặc tính Nội Chiến và Ủy Nhiệm người ta đều thấy hiện diện trong cuộc chiến này. Song đó chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm trôi trên mặt biển thôi. Còn phần chìm của nó  mới là phần cốt lõi, lại không dễ dàng gì nhìn ra được. Theo những người này, thì phần chìm của cuộc chiến tranh giữa MBCS và MNQG là Ý THỨC HỆ. Một bên mang ý thức hệ cộng sản (Communist Ideology) và một bên là ý thức hệ quốc gia (Nationalist Ideology) còn được gọi là ý thức hệ chống cộng sản (Anti-Communist Ideology).  

- Bên Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN (YTH/CS) thì tin rằng, CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (CNCS) là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại và chỉ có CNCS mới có thể giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi sự kìm kẹp và bóc lột của các đế quốc tư bản, và tạo cơ hội cho nhân dân Việt Nam sánh vai cùng nhân dân các nước trên thế giới, tiến tới THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG (TGĐĐ). TGĐĐ là thiên đường hạ giới, nơi đây không ranh giới quốc gia và dân tộc, không có người bóc lột người, và mọi người làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu.

- Bên Ý THỨC HỆ QUỐC GIA (YTH/QG) hay CHỐNG CỘNG SẢN (YTH/CCS) thì tin rằng, CNCS là một chủ nghĩa không tưởng, nó được hình thành từ đầu óc của những kẻ không bình thường, và cũng chỉ có những người không hiểu CNCS, mới tin tưởng vào chủ nghĩa này sẽ đưa dân tộc Việt Nam đến bến bờ vinh quang.  Bên YTH/QG cũng tin rằng nếu không chống lại CNCS thì đất nước VN sẽ mãi mãi sống trong đói nghèo và dân tộc này sẽ đắm chìm trong triền miên tăm tối và “thế giới này sẽ không còn Việt Nam”. 

 

Những nữ sinh Sài Gòn trên đường đi học năm 1970

* Nói tóm lại, cuộc chiến tranh giữa MBCS và MNQG, thực chất là một cuộc chiến tranh ý thức hệ và một khi đã thừa nhận cuộc chiến tranh này là chiến tranh ý thức hệ thì người ta cũng phải thừa nhận các hệ quả của nó:

1- Ngày 30-04-1975, không phải là ngày kết thúc cuộc chiến, mà chỉ là ngày thay đổi hình thức đấu tranh từ đấu tranh có vũ khí sang đấu tranh không vũ khí, hay từ đấu tranh bạo lực sang đấu tranh bất bạo lực.  

2- Thắng hay bại trong cuộc chiến tranh ý thức hệ không thể tính bằng diện tích và dân số trên vùng đất đã chiếm được mà phải tính bằng “lòng dân” đối với ý thức hệ của mỗi bên.  

3- Chiến tranh ý thức hệ chỉ có thể coi là kết thúc khi ý thức hệ của một bên nào đó bị phá sản hay không còn được người dân tin theo nữa.   

*Dựa vào những hệ quả trên đây, dù là chủ quan, người ta cũng không thể không thừa nhận rằng, trong giai đoạn chiến tranh có vũ khí, Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa (QCC/VNCH) đã thất bại nặng nề. Nguyên nhân của sự thất bại, không phải vì họ hèn nhát, hay thiếu tổ chức, mà vì một lý do đơn giản và dễ hiểu, là vũ khí của họ bị cạn kiệt.

Trong một cuộc chiến tranh bằng vũ khí, tất nhiên vũ khí đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thắng hay bại của mỗi bên. Khi cuộc chiến bước vào một giai đoạn quyết liệt, thì bên VNDCCH được Liên Xô và Trung Cộng viện trợ và cung cấp vũ khí vô cùng dồi dào.
Còn bên VNCH lại bị đồng minh Hoa Kỳ cắt bỏ hoàn toàn viện trợ vũ khí. Do đó việc thất bại của VNCH trong giai đoạn này là một điều không thể tránh khỏi.   Tương tự như cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine hiện nay. Nếu Ukraine không nhận được vũ khí và đạn dược của Mỹ và khối NATO, thì chỉ trong vòng một hai tháng, Ukraine buộc phải đầu hàng Nga.


Dân Miền Nam chạy giặc năm 1975

- Sau thất bại 30/04, QCC/VNCH bị CSVN trả thù một cách vô cùng dã man tàn bạo. Hãy nghe ông Nguyễn Hộ, một ủy viên trung ương của đảng CSVN, đã tuyên bố tại đại hội mừng chiến thắng ở Saigon vào ngày 17-05-1975:  “Bọn Ngụy, nhà cửa, tiền tài, ruộng vườn của chúng ta tịch thu, con của chúng ta sai, vợ chúng nó ta xài, chồng của chúng nó ta đày đi tù rục xương nơi rừng thiêng nước độc để chúng trả nợ máu cho nhân dân.”

- Tuy bị trả thù một cách không thương tiếc, song không có nghĩa là Quân-Cán-Chính của VNCH cùng ý thức hệ chống cộng của họ để bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ và nhân quyền cho nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đã hoàn toàn bị triệt tiêu. Bản thân họ, con cháu họ và ý thức hệ chống cộng sản của họ vẫn tồn tại và đâm chồi nẩy lộc khắp đó đây, ở hải ngoại, và ở ngay trong lòng của người Việt đang sống ở trong nước càng ngày càng phát triển rộng lớn hơn. Vì lẽ đó, QCC/VNCH vẫn có thể hiên ngang tuyên bố thẳng vào mặt đảng CSVN rằng: “Anh không chết đâu em, anh vẫn còn đây, anh vẫn hăng say tranh đấu cho một ngày toàn dân Việt  Nam thật sự có tự do, dân chủ và đầy đủ nhân quyền”.  

* Sau gần nửa thế kỷ nhìn lại, người ta thấy rõ một điều là, kể từ ngày 30-04-1975, ngày thay đổi hình thức đấu tranh từ vũ khí sang đấu tranh không vũ khí, QCC/VNCH đã đạt được nhiều thắng lợi. Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài viết, tôi chỉ có thể đề cập đến một số những chiến thắng điển hình mà thôi.  

- Sau ngày 30/04/1975 nhân dân Miền Nam đã thấy rõ bộ mặt thật của MBCS, vì ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSMB đã cho thực thi ngay những gì mà họ đã và đang thực thi ở Miền Bắc, với mục đích gọi là để nâng cao trình độ “thấp kém” về mặt dân trí và “lạc hậu” về mặt xã hội của nhân dân Miền Nam cho ngang bằng với trình độ “ưu việt” về mặt dân trí và “tiên tiến” về mặt xã hội của nhân dân Miền Bắc.
Do đó, chỉ ít tháng sau được “ưu ái học tập về đường lối và chính sách của đảng CSVN và cho tham gia và chứng kiến việc thực thi những biện pháp siêu việt để cải thiện xã hội tư bản thối nát Miền Nam như tù cải tạo, đổi tiền, đánh tư sản, kiểm kê tài sản, tờ khai hộ khẩu, vùng kinh tế mới, vân vân và vân vân, đã làm cho người dân Miền Nam chẳng những đã “sáng mắt, sáng lòng” để nhận ra được rằng MBCS thực chất chỉ là bọn ăn cướp và là tay sai của Quốc Tế Cộng Sản.  


35 người Việt liều chết vượt biên bằng một chiếc thuyền nhỏ bé

- Sau ngày 30/04/1975, vì được sống chung với CSMB nên đại đa số người dân Miền Nam đã nhận ra rằng, lời nói của TT Thiệu: “đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”, mà trước đây họ nghĩ đó chỉ là những lời lẽ tuyên truyền bôi bẩn đối phương. Song sau ngày 30/04 họ đã nhận ra đó là một sự thật phũ phàng không thể chối cãi. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý này sẽ không bao giờ thay đổi.

- Sau ngày 30/04/1975, người dân Miền Nam cũng nhận ra được rằng,  trước ngày 30-04-1975, QCC/VNCH chiến đấu chống lại CSMB là muốn tránh cho dân chúng Miền Nam phải hứng chịu những điều xấu xa và tồi tệ mà CSMB sẽ áp đặt lên đầu lên cổ họ trong tương lai, và cũng nhằm để bảo vệ cho người dân Miền Nam được sống trong một xã hội có nhân phẩm, nhân quyền, và tự do dân chủ.   

- Sau ngày 30/04/1975, phải sống dưới ách thống trị hà khắc và man rợ của CSMB, hầu hết người dân Miền Nam đã nhận ra rằng: “Thà chết còn sướng hơn sống với cộng sản”. Vì thế người dân Miền Nam đổ xô nhau đi tìm đường vượt biên, từ thành thị đến thôn quê, từ hang cùng đến ngõ hẻm, đâu đâu người ta cũng thấy dân chúng túm năm, tụm ba thì thầm bàn tán, tính toán chuyện vượt biên.
Người chọn đường biển, kẻ chọn đường bộ, dù biết rằng đường nào cũng nguy hiểm cả và tỷ lệ đến được bến bờ tự do chỉ độ 50%. Phần còn lại là bị đắm tàu, bị cướp biển Thái Lan hay bọn thảo khấu Cao Miên giết hại, hoặc nhà cầm quyền CS bắt giữ. Một thanh niên Miền Nam trước khi bước xuống thuyền vượt biên đã căn dặn người mẹ thân thương của mình rằng:
“Nếu đến được bến bờ tự do, con nuôi má
Nếu chết ngoài biển cả, con nuôi cá
Nếu bị công an bắt, má nuôi con”.

– Sau ngày 30/04/1975, Công an nhân dân của thành phố mang tên lão Hồ, cũng có một nhận xét về thái độ của dân chúng trong thành phố này đối với chính quyền cộng sản:
“Theo chẳng ra theo
Chống không ra chống
Chỉ lóng ngóng chờ vượt biên”.

– Sau ngày 30/04/1975, một sự kiện đã cho thấy đại đa số người dân Miền Nam, chẳng những đã sáng mắt mà còn sáng cả lòng nữa, đó là một tin đồn lan ra một cách nhanh chóng và rộng rãi trên toàn cõi miền Nam là: “Nhờ bác và đảng vào giải phóng miền Nam mà nhạc sĩ Văn Vĩ đã sáng mắt”. Danh cầm cổ nhạc Văn Vĩ, tên thật là Đinh Văn Dậm sinh năm 1929, bị khiếm thị vì bệnh đậu mùa khi mới ba tuổi.
Cho tới nay tại các nước có một nền y học tiên tiến nhất thế giới vẫn chưa tìm được cách cứu chữa cho trường hợp khiếm thị này. Vì lẽ đó, tin đồn này theo nghĩa đen hoàn toàn vô lý, song theo nghĩa bóng quả là nó đã mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc về sự thức tỉnh của đại đa số dân chúng Miền Nam sau nhưng năm tháng dài mơ hồ về con người và chủ nghĩa cộng sản.  


Gia đình ông bà Nguyễn Trung Can và Mai Thị Kim Hương công khai tố cáo tội ác của nhà cầm quyền

– Sau ngày 30/04/1975, một sự kiện khác, cũng đã minh chứng được là, người dân Miền Nam sau gần nửa thế kỷ sống với CSVN đã tỉnh ngộ và hối hận vì trước đây đã không có nhận định chính đáng về QCC/VNCH, nên đã tiếp tay cho CSVN thành công trong việc đánh chiếm Miền Nam, để rồi ngày nay bọn cộng sản trở mặt cướp đất đai và nhà cửa của họ.  Trong vụ giải tỏa khu đất gần chợ Tuyên Nhơn huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An, một toán cán bộ thị trấn Thạnh Hóa thay mặt cho chính quyền địa phương đã tới nơi cư trú của gia đình ông bà Nguyễn Trung Can và Mai Thị Kim Hương, vào ngày 13-04-2015, để  thông báo lệnh giải tỏa. Trước mặt đám cán bộ này, bà Mai Thị Kim Hương đã thẳng thừng nói như tát nước vào mặt đám cán bộ rằng: “Ngày xưa gia đình nhà tao lầm đường lạc lối, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Bây giờ để cộng sản cướp đất cướp nhà tao…. Bây giờ bốn mươi năm rồi… tao quyết tâm tiêu diệt cộng sản…” 

– Sau ngày 30/04/1975, không phải chỉ có người dân Miền Nam mà cả người dân Miền Bắc cũng đã nhận ra được rằng họ bị đảng CSVN lừa gạt và bịp bợm. Theo nhà thơ Phan Huy, thì dân chúng Miền Bắc trước ngày 30/04/1975:  
“…chẳng biết gì ngoài bác, đảng kính yêu
Xã hội sơ khai tẩy não một chiều
Con người nói năng như chim vẹt
Mở miệng ra là: ‘Nhờ ơn Bác và Đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh”...

Nói khác đi là thi sĩ Phan Huy đã cho ta thấy rõ dân chúng Miền Bắc sống trong một xã hội bưng bít, bịt bùng và bịp bợm bởi đảng CSVN, nên chỉ thấy những gì mà đảng CSVN muốn cho họ thấy, chỉ được nghe những gì mà đảng CSVN muốn cho họ nghe, và chỉ được làm những gì mà đảng CSVN bảo họ làm. Có thể nói là, người dân Miền Bắc đã bị đảng CSVN đầu độc để trở thành những zombies hay là những xác chết chỉ biết lao đầu vào một  cuộc chiến tranh, không vì quyền lợi của quốc gia dân tộc, mà vì nghĩa làm tay sai của đảng CSVN cho Liên Xô và Trung Cộng.  

- Sau ngày 30/04/1975, nhờ chiếm được miền Nam mà cán binh, cán bộ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo và thường Miền Bắc đã có cơ hội vào  công tác, tiếp quản, tham quan, hay thăm viếng thân nhân ở miền Nam, và được va chạm với thực tế, mới nhận ra được rằng, những lời dậy bảo nhân dân Miền Bắc của ông Hồ và đảng CSVN về Miền Nam chỉ là những lời lẽ tuyên truyền giả dối và láo khoét để khai thác lòng yêu nước của người dân Miền Bắc và đẩy họ vào Miền Nam để chém giết anh em và đồng bào của họ, và để phục vụ cho mục tiêu bỉ ổi của đảng CSVN là đánh thuê cho Liên Xô và Trung Cộng. Chính Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng CSVN cũng đã xác nhận điều này khi tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.  

* Dưới đây là một số nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà trí thức ở Miền Bắc đã nói lên sự man trá của đảng CSVN.   

Nhà văn Dương Thu Hương:

“Ở Miền Bắc tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”  

Nhà thơ Phan Huy:

Trong bài thơ có tiêu đề là “Tâm sự một đảng viên”, ông Phan Huy, một nhà thơ sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc XHCN, một xã hội nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy bác và đảng vĩ đại, vì thế đã không thấy điều gì khác hơn là “bác và đảng”. Trong cái khung trời bít bùng ấy ông đã được bác và đảng nhồi nhét và dạy bảo:  
“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng.

Phan Huy có cơ hội bước chân vào Miền Nam, sau ngày 30/04/1975 nên ông đã sớm nhận ra rằng, cuộc sống của người dân Miền Nam hoàn toàn khác với những lời dậy bảo dối trá của bác và đảng, khiến niềm tin của ông vào đảng và bác sụp đổ hoàn toàn:
“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản”.


Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang:

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, đã viết một lá Thư Ngỏ gửi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vào ngày 03-02-2010 từ nhà riêng của ông ở Hà Nội, trong thư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang tuyên bố ông sẽ tự thiêu nếu nhà cầm quyền Hà Nội tiếp tục có những hành vi xúc phạm tới ông và gây áp lực lên những người thân quen của ông.

Dưới đây là một trích đoạn vạch mặt những người CSVN trong lá thư này:  
“Cảm ơn các đấng anh linh đã cho tôi hưởng đến nay đã 74 tuổi trời. Tôi không còn ân hận, cũng không nuối tiếc gì nhiều nữa mà sẵn sàng bật cháy lên ngọn lửa căm phẫn ngất trời để mọi người nhanh chóng nhìn rõ những bộ mặt, những tâm địa xảo trá bất lương cuả những kẻ bất chấp công lý, đạo lý, đầy đọa mãi nhân dân tôi trong những nối đắng cay, oan khuất trường cửu”.

 

Nghệ sĩ Kim Chi:

Nguyễn Thị Kim Chi tập kết ra Bắc vào năm 1954, khi mới 11 tuổi, và mười năm sau khi 21 tuổi, nghe theo lời tuyên truyền của ông Hồ vả đảng CSVN, Kim Chi vượt Trường Sơn để vào “giải phóng đồng bào Nam Bộ của cô đang bị Mỹ-Ngụy kìm kẹp”.

Vào ngày 30-04-1975, cô Kim Chi sung sướng vui mừng đến phát khóc vì “lời bác dạy nay đã thành chiến thắng huy hoàng”. Nhưng sau nhiều năm hồi tưởng lại ngày 30-4, Kim Chi thấm thía viết: “Bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do ‘nghệ thuật tuyên truyền…”   

Và Kim Chi viết tiếp:  “Bây giờ mỗi lần 30 Tháng Tư, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng  Cộng Sản Việt  Nam và chế độ Xã Hội  Chủ Nghĩa hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời”.  

 

Ca sĩ Ái Vân:
Vào ngày 29-04-2015, nhà báo Bùi Văn Phú đã có dịp hàn huyên với ca sĩ Ái Vân, một người đến được Thế Giới Tự Do không qua Biển Đông, cũng không qua Cambodia mà qua bức tường Bá Linh ở Đông Đức, và hiện đang sống hạnh phúc cùng chồng con trên đất Mỹ. Một trong những câu hỏi mà ông BVP đã hỏi AV là: “AV nghĩ sao về vấn đề hòa giải dân tộc? Câu trả lời của AV như sau:   
“Bên này có nhiều người ra đi, không phải là “tường nhân” mà là “thuyền nhân”. Họ mất mát quá nhiều. Có những người mất hết. Nghe những mảnh đời của họ thì hiểu sự căm hận hoàn toàn có lý. Họ bị tù đày, những con người rất dễ thương lại bị gọi là “ác ôn”, “nợ máu”. Khi mình ở Miền Bắc, thông tin lệch lạc, đến khi vào Nam mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây cũng thế, gặp những người sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà thì họ cũng dễ thương, có nhiều cái hay mình phải học. Như thế Vân cho là sự mất mát hay hận thù của họ là hoàn toàn hiểu được”. 
Ngoài ra, Ái Vân còn cho biết thêm cảm nghĩ của cô về việc thống nhất nước Đức: “Vân đã ở Đức sau khi Tường Berlin đổ. Về lại Đức, Vân thấy tủi thân vì nước Đức không tốn một viên đạn, không đổ một giọt máu mà người ta thống nhất Đông Tây để trở thành nước đứng đầu châu Âu. Còn Việt  Nam 40 năm qua, phải nói là phú quí giật lùi, nhiều người vẫn lầm lũi mưu sinh”. 

- Sau ngày 30/04/1975, người dân Miền Bắc cũng đã nhận ra được bộ mặt trơ trẽn và dối trá của ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì thế mà người dân Miền Bắc cũng đổ xô tìm đường vượt biên không thua kém gì người dân ở Miền Nam. Khách quan mà nói, trong việc tìm đường trốn chạy khỏi nanh vuốt lũ thú rừng cộng sản Việt Nam, người dân Miền Bắc thật sự đáng thương hơn người dân Miền Nam, vì ít ra người dân Miền Nam cũng đã được hưởng tự do, dân chủ và no ấm dưới thể chế pháp trị VNCH đã hơn hai mươi năm (1954-1975).
Còn người dân Miền Bắc đã phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị đã gần ba mươi năm (1945-1975). Trong thời gian sống với bác và đảng, hầu như người dân Miền Bắc không có được một ngày nào sống trong tự do, no ấm như người dân Miền Nam. Trong số hàng trăm ngàn người Việt trốn chạy CSVN tới các trại tỵ nạn ở Hồng Kông thì hơn 90% là người đến từ Miền Bắc.    

* Sau ngày 30/04/1975, giới trẻ trong nước cũng đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đảng CSVN:

Nhạc sĩ Việt Khang:
Việt Khang tên thật là Võ Minh Trí, sinh năm 1978 tại Định Tường. Việt Khang sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị. Trong số những bản nhạc này, có hai bản rất nổi tiếng và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau là “Anh Là Ai” và “Việt Nam Tôi Đâu”. Trong hai bản nhạc này, Việt Khang đã thẳng thắn vạch trần bộ mặt thật của CSVN, thực chất chỉ  là những kẻ tay sai bán nước, khiến nhà cầm quyền CSVN vô cùng tức giận, nên đã kết án Việt Khang ba năm tù ở và hai năm quản chế.

Trong bản “Anh Là Ai”, Việt Khang đã nói thẳng là  CSVN là tay sai của Trung Cộng và đã hỏi ngay vào mặt chúng rằng:  
“Dân tộc anh ở đâu?
Sao đang tâm làm tay sai cho Tàu?
Để ngàn sau ghi dấu
Bàn tay nào nhuộm máu đồng bào”

Trong bài “Việt Nam Tôi Đâu”, Việt Khang đã gọi đích danh CSVN là quân bán nước và kêu gọi dân chúng vùng lên chống lại chúng:
“Từng đoàn người đi chẳng nề chi
Già trẻ gái trai giơ cao tay
Chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược
Bán nước Việt Nam”.

Lê Thị Công Nhân:
Lê Thị Công Nhân sinh năm 1979 tại Gò Công Tây, Tiền Giang, tốt nghiệp Đại học Luật khoa Hà Nội vào năm 2002, sau đó học thêm hai năm nữa để trở thành luật sư. Tuy sinh ra và được hun đúc từ trong trứng nước dưới mái trường XHCN từ tiểu học, trung học và đại học, Lê Thị Công Nhân cũng đã sớm nhận ra bộ mặt man rợ, dối trá và độc ác của nhà cầm quyền CSVN, và xã hội VN đầy dẫy những bất công do chính nhóm cầm quyền gây ra, nên Lê Thị Công Nhân chẳng nề hà phận gái “liễu yếu đào tơ” đã dấn thân tranh đấu chống lại nhà cầm quyền cộng sản. Vào hồi 3 giờ 40 phút sáng (giờ Việt Nam) ngày 26-2-2007, Lê Thị Công Nhân đã có dịp ngỏ lời tâm huyết với người Việt Hải Ngoại trong một cuộc biểu tình tại nam California, Hoa Kỳ:   
“Thực sự tôi không thể đoán được việc gì có thể xảy ra đối với tôi. Nhưng tôi khẳng định với tất cả lương tâm, trách nhiệm của mình đối với đất nuớc Việt Nam và dân tộc VN, tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn có một mình tôi đấu tranh. Và CSVN đừng có mong chờ bất cứ một điều gì là thỏa hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi. Tôi không thách thức, nhưng nếu CSVN đã quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân VN và muốn dìm VN trong tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về văn hóa, kéo dài cho đến trọn đời con cháu của chúng ta cũng như của chính những người CS, thì họ cứ việc hành xử với những gì mà họ có.
“Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù. Tôi xin khẳng định một lần nữa, đó chưa phảỉ là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra…
“…Tôi đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho VN hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, với dân tộc VN và đối với đấng tạo hóa đã sinh ra tôi…”

Trong một lá thư gửi cho công an vào ngày 12-02-2015 tố cáo và phản đối công an đã đốt những đồ vật mà gia đình cô để trước nhà để khủng bố tinh thần, có một đoạn Lê Thị Công Nhân viết: “Mười năm nay từ khi tôi dám thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình, nói lên chính kiến của mình chống lại nền chính trị độc tài cộng sản của Việt Nam và đòi tự do, dân chủ – đa nguyên đa đảng thì tôi và gia đình đã bị cắt 5 số điện thoại cố định, gần 100 số di động, bị bắt bớ, câu lưu, hành hung và đe dọa rất nhiều lần cho đến bây giờ. Tôi không cho rằng sự việc đồ vật bị đốt cháy trước cửa nhà tôi ngày hôm nay là điều ngẫu nhiên. Tôi không dám tưởng tượng điều gì có thể tiếp tục xảy đến, bởi vì ở Việt Nam giờ đây nhà cầm quyền coi người dân như nô lệ – là đối tượng để hành hạ và bóc lột, cho nên sinh mạng con người cũng chỉ là rơm rác”.


Nguyễn Viết Dũng (hàng đứng bên trái) và bạn bè công khai biểu dương Quốc kỳ VNCH tại Nghệ An

Nguyễn  Viết Dũng:
Nguyễn Viết Dũng sinh ngày 19 tháng 6 năm 1986, là con trai của ông Nguyễn Viết Hùng và bà Nguyễn Thị Diệu Hồng, ở xóm Trần Phú, xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Sau thời gian học trung học tại quê nhà, Dũng thi đậu vào Đại học Bách Khoa Hà Nội. Nhờ vào thời gian học đại học ở thủ đô Hà Nội, Dũng đã có nhiều cơ hội thấy được đầy dẫy những sự bẩn thỉu, phi nhân của nhà cầm quyền cộng sản cũng như những sự thối nát, bất công, vô lý của xã hội cộng sản và cũng nhận ra được sự thống khổ cùng cực của người dân Việt Nam.
Tuy sinh ra tại Miền Bắc XHCN, sau khi VNCH bị bức tử tới mười một năm trời, song Nguyễn Viết Dũng cũng phong phanh nghe nói về dân chúng Miền Nam trước ngày 30-04-1975 đã có một cuộc sống tốt đẹp như thế nào, nên Nguyễn Viết Dũng đã tìm hiểu về nhà nước Việt Nam Cộng Hòa.  
Là một học sinh xuất sắc lại có trình độ đại học, nên Nguyễn Viết Dũng đã nhanh chóng nhận ra rằng VNCH là một thể chế nhân bản, tôn trọng hầu hết các quyền tự do căn bản của người dân, và người dân sống dưới thể chế này thật sự có tự do, dân chủ và hạnh phúc. Và cũng từ đó Nguyễn Viết Dũng đã nhận ra chế độ CS là một chế độ man rợ và mong muốn xây dựng xã hội Việt Nam có tự do, dân chủ và nhân quyền như thể chế VNCH đã có ở Miền Nam trước ngày 30-04-1975.
Để đạt được mục tiêu này, Dũng và bạn bè của anh bắt đầu dấn thân tranh đấu. Ngày Chủ nhật, 12-04-2015, Dũng cùng một nhóm thanh niên mặc đồ đen mang phù hiệu Quân Lực VNCH, riêng Dũng còn khoác thêm bộ đồ đồng phục của binh chủng nhẩy dù VNCH bên ngoài nữa, xuất hiện tại khu vực Hồ Hoàn Kiếm trong một cuộc biểu tình chống nhà cầm quyền Hà Nội chặt cây xanh trong thành phố.  
Ngày 2/4/2015: Nguyễn Viết Dũng thông báo trên Facebook về việc thành lập Đảng Cộng Hòa và nhóm Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời, Dũng tạm thời đảm đương chức vụ Chủ tịch lâm thời của “Đảng Cộng Hòa” và là chủ nhân của hai trang Facebook “Đảng Cộng Hòa” và “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”.
Ngày 30/4/2014, Nguyễn Viết Dũng đã may và treo lá cờ Việt Nam Cộng Hòa (nền vàng ba sọc đỏ) ngay trên nóc nhà của gia đình tại xóm Trần Phú, xã  Hậu Thành, Yên Thành, Nghệ An. Hành động này của Nguyễn Viết Dũng thật sự là một hành động can đảm đáng khâm phục.

Nguyễn Vũ Sơn

Nguyễn Vũ Sơn:  
Nguyễn Vũ Sơn sinh năm 1991 tại Saigon, có bằng cử nhân về marketing tại Singapore, hiện nay đang là sinh viên du học tại Mỹ để lấy thêm một  bằng cử nhân khác và có ý định học lên nữa để lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ. Nguyễn Vũ Sơn là tác giả nhiều bản nhạc rap nổi tiếng, trong đó có một bài mang tựa đề là Địt Mẹ Cộng Sản (ĐMCS) tuy tục tĩu, song chính những từ ngữ không         mấy thanh lịch này đã lột tả được đầy đủ mức căm giận tột đỉnh của lớp người Việt cùng khổ nhất đang sống dưới ách cai trị của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Dưới đây là một trích đoạn trong ĐMCS:
Tao không vào địa ngục thì ai? ĐMCS
Muốn thay đổi đất nước là sai? ĐMCS
Mày dám bán đất đai tổ tiên? ĐMCS
Giết người, bịt mắt, bịt miệng? ĐMCS
Thảm sát đồng bào tại Huế? ĐMCS
Tao đéo chịu làm nô lệ. ĐMCS      
Tụi mày sẽ sớm bị lật. ĐMCS
Tất cả sẽ biết sự thật. ĐMCS.


Một số người dân đang “tế sống” công an trên đường phố

- Sau ngày 30/04/1975, dường như hầu hết người Việt đã nhận ra được rằng cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Miền Bắc (CSMB) là hoàn toàn phi nghĩa. Và cuộc kháng chiến chống lại VNDCCH  xâm lăng miền Nam của VNCH là hoàn chính nghĩa.

* Qua những bằng chứng và những sự kiện kể trên, người ta không thể có một kết luận nào khác hơn là sau ngày 30/04/1975, Ý Thức Hệ Cộng Sản đã hoàn toàn phá sản và sụp đổ trong lòng người dân Việt và Ý Thức Hệ Quốc Gia hay Ý Thức Hệ Chống Cộng Sản của QCC/VNCH đã ngời và đã ngự trị trong lòng người Việt. Nói khác đi là, trong cuộc chiến tranh Ý Thức Hệ giữa MBCS và MNQG, QCC/VNCH đã dành được tháng lợi hoàn toàn, sau khi đã thất bại trong một cuộc chiến tranh bằng vũ khí. Để minh chứng sự kiện có vẻ trái khoáy này tôi xin được dẫn chứng ở đây bằng nhận định xét của hai danh tướng, một vào thởi hiện đại và một vào thời cổ đại:

- Vào năm 1966, sau một chuyến viếng thăm VNCH từ ngày 25/5 đến ngày 27/5, tướng độc nhãn Do Thái, Moshe Dayan (1915-1981), được một người Mỹ hỏi là, làm thế nào để giúp đồng minh VNCH đánh thắng được cộng sản ở Miền Nam?  Ông đã trả lời như sau:
“Chiến trường Trung Đông có qui ước rõ địch và ta đối diện nhau và trận địa thẳng tắp, còn chiến trường Việt Nam địa thế sông ngòi chằng chịt, núi non hiểm trở, lại còn người dân vùng nông thôn Miền Nam Việt Nam chứa chấp bọn cộng sản nằm vùng. Các anh không bao giờ thắng nổi Việt Cộng, mà chỉ có một cách duy nhứt là các anh rút ra khỏi Việt Nam để cho người dân họ nếm mùi cộng sản một thời gian, sau đó các anh trở lại khỏi cần đánh cũng thắng!”
Câu trả lời của tướng Moshe Dayan quả là thâm sâu và nó đã minh chứng một cách rõ rệt rằng sự thất bại của QCC/VNCH vào ngày 30/4/1975 là do dân chúng Miền Nam trước tháng 04/1975 không hiều rõ về bộ mặt thật của đảng CSVN. Cứ để cho MBCS chiếm được Miền Nam và nhân dân Miền Nam sống với CS một thời gian thì họ sẽ chán ghét chế độ này.

- Hơn 500 năm trước Tây Lịch, Tôn Tử, một thiên tài quân sự Trung Hoa, đã nói: “Chiếm được thành quách mà không chiếm lòng người thì cũng kể là thất bại”.  

* Nói tóm lại, nhìn lại cuộc chiến sau bốn mươi năm và qua các dẫn chứng kể trên, người ta không thể chối cãi được một điều là, CSVN tuy chiếm được Miền Nam, song hoàn toàn không chiếm “lòng người” Miền Nam, chẳng những thế, sau ngảy chiếm được Miền Nam, CSVN còn mất luôn “lòng người” Miền Bắc.

Nói khác đi là lòng tin của người dân Việt Nam trong cả nước đối với ý thức hệ cộng sản hay đảng CSVN hiện này là con số không to tướng. Sở dĩ đảng CSVN còn đứng vững được đến ngày nay là dựa vào lực lượng công an và quân đội. Cơ đồ của đảng CSVN hiện nay nhìn bề ngoài có vẻ bề thế và hoành tráng, song thực ra nó là một ngôi nhà được xây cất trên một một bãi cát giữa một dòng sông, chỉ cần một cơn nước lũ cũng đủ làm cho cơ đồ đó này sụp đổ tan tành và trôi ra biển Đông.
13 tháng 4, 2023
Huy Vũ

Đăng ngày 29 tháng 04.2023