banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn tạm ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Lý tưởng trên mây

Mậu Tuất, nhắc lại một chuyện liên quan chút ít tới Mậu Thân

anhkhiem

Nguyễn Anh Khiêm

Tôi nhận được giấy mời trình diện ty cảnh sát Rạch Giá một buổi chiều chơi bóng chuyền với đám học sinh người Miên ở trường vừa về đến nhà. Lâu rồi không nhớ nguyên văn nhưng cảm tưởng chung nội dung chừng như nhẹ nhàng, có vẻ lễ độ nữa. Tuy vậy vợ tôi vẫn lo. Nàng nói cảnh sát triệu tập có khi càng nhẹ nhàng càng mệt, coi chừng không phải chuyện giỡn chơi.
Chúng tôi thuê một phòng của vị phụ huynh có con gái học lớp 11, là học trò của tôi. Bà người Bắc, hát hay, dáng bộ rất con nhà, cư xử tử tế, vốn là vợ của ông Trần Cảnh Được, danh thủ bóng bàn lúc hai người cưới nhau. Cuộc hôn nhân về sau có vẻ trắc trở, tôi không nghe bà nhắc tới ông, cũng không thấy ông về thăm. Căn nhà chúng tôi thuê nằm sát mé nước biển, ẩn dưới rừng cây mắm mát rượi trên đường Lâm Quang Ky, ngày đêm sóng vỗ rì rào, chim chóc líu lo rủ nhau về ngủ mỗi lúc bóng chiều len trong lùm cây lá. Nhóm giáo sư trung học trẻ Am Ông Địa thường ghé chơi, chè cháo, hồi đó chúng tôi không biết nhậu như thầy cô bây giờ. (Lúc vợ tôi còn ở Gò Công, tôi cùng họ ở chung ngôi nhà xóm Am Ông Địa).

Không ngờ những ngày vui ấy qua mau, chấm dứt khi tôi bị buộc phải rời nhiệm sở, đầu niên khoá 73-74. Sau 75, tai ương ghé lại chốn bình yên đó, mọi thứ đều bị bôi xoá không còn dấu tích. Bà chủ nhà dẫn ba đứa con nhỏ rất dễ thương vượt biên, mất tích ngoài vịnh Rạch Giá. Thật đau lòng nghĩ tới hình ảnh mấy đứa nhỏ thiên thần bị vùi thân dưới những con sóng dữ, chết chìm ngộp trong nước mặn, giạt trôi thối rữa trong mù khơi vô định. Ôi, cơn dâu biển khốc liệt mang đau thương chia lìa tan nát không ai có thể mường tượng trước. Đã đành nước mất thì nhà tan nhưng mỉa mai quá, cuộc thống nhất được mong đợi lại bất ngờ đem tới bao nỗi phân ly vô tận và hầu như chưa một ngày thảm kịch tan lìa ngưng nghỉ trên rẻo đất miền Nam.

Lý do trực tiếp khiến tôi bị bắt giữ ở ty cảnh sát Rạch Giá, tôi không được biết rõ, có điều khi hỏi cung, viên sĩ quan cảnh sát người Huế chú tâm nhiều bài văn xuôi của Nguyễn Tuân tôi đã đem ra giảng dạy. Tôi hơi ngạc nhiên vì bài này tôi từng trích giảng cho các lớp cấp hai vài năm trước, nay mới có …tiếng vang tai hại. Xin ghi lại vài đoạn :
“Bây giờ ta nói chuyện về một con sông ở nước ta, con sông Bến Hải ấy, lạ thật đó. Lạ mắt, nghịch tai. Nhiều lần tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên về dòng sông bình thường đó của cuộc sống giữa quê hương ta.
Sao mà không lạ được cho một con sông không đủ cả hai bờ mà chỉ có một bờ sông! Sao mà không ngạc nhiên đươc cho một con sông chỉ có một nửa cái cầu với với trên dòng sông như ống tay áo thõng anh thương binh cụt tay ! Sao mà không lạ được cho một con sông mà bất cứ người lái đò nào cũng đều thấy vướng vướng nơi đầu mũi chèo và cứ phải miết thuyền mình vào cái bờ duy nhất của mình. Thà nó là biển cả như Thái Bình Dương ngoài kia mà mình chỉ có được một bờ, một tí bờ thì cũng đành một lẽ. Đằng này hai cái bờ song hành cách nhau có một mái chèo mà sao biền biệt đằng đẵng như mù sương trên bể rộng.
.....................................................................
Một con sông mà hai dòng nước, một nước mà hai cây cờ, bắc nam một nhà mà hai chế độ, một cái cầu bỏ trống, một cái bực đá bến nhớ người đi chợ sang ngang. Người rửa rau bến này lặng lẽ nhìn người vo gạo bến kia, hai gốc đa cổ thụ hai bờ im lìm đọ bóng nhau như chờ một cơn gió nó rung hộ cánh tay lá. Con cá rô biển chốc chốc lại quẫy mạnh vọt lên mặt sông mặn.”

Sau một lúc chăm chú đọc lại bản cung khai tôi viết ngày hôm trước, viên cảnh sát lấy cung cho biết:
- Ông tỉnh trưởng rất bực cách giảng dạy của của giáo sư - lúc bắt đầu tra hỏi, ông vẫn lịch sự gọi tôi là giáo sư nhưng về sau, dường như thấy tôi không xứng đáng để ông chia cho chút trang trọng nào nên ông ít nhắc tới từ này nữa, hoặc có nhắc chỉ trong nghĩa mỉa mai - chúng tôi có đọc ghi chép của học sinh về bài giảng của ông, rõ ràng đây là bằng cớ ông tỏ rõ thân cộng. Tác giả này, ông dư biết, vốn là cán bộ văn nghệ gộc của CS Bắc Việt, ông vẫn ngang nhiên dạy bài của y cho học sinh của mình với mục đích gì? Cháu tôi nó đang học bài của ông đó!
Tôi trả lời rằng tác giả này vẫn có bài trích dạy trong sách giảng văn hiện hành. Ông nói:
- Mấy bài đó viết thời tiền chiến mà.
- Nhưng đại uý cũng thấy bài này chỉ có nội dung tả ước vọng thống nhất đất nước…
Ông ngắt lời tôi:
- Ngoài ra ông hay công khai chống đối chuyện Hoa Kỳ ném bom miền Bắc, giọng điệu như đài phát thanh Hà Nội, điều này liên quan gì tới chương trình giảng văn trung học, ông đem chính trị vào trong việc dạy học để làm gì?
Tôi chống chế:
- Mức độ ném bom tàn khốc, bừa bãi quá, tàn phá đất nước nặng nề quá, tự nhiên sốt ruột nên nói ra, “bất bình tắc minh” vậy thôi, thưa đại uý.
- Trở lại bài dạy của ông, tôi muốn biết ông lấy bài đó ở đâu?
Tôi nhẹ người hẳn nghe ông hỏi vậy, thấp giọng đáp lời:
- Tôi không lấy tài liệu của CS mà bài trích từ tạp chí “Văn Học” của Phan Kim Thịnh, xuất bản trước đây ở Sài Gòn, không tin, đại uý cứ coi lại.
Tôi hơi ngạc nhiên thấy ông là người hiểu nhiều, có vẻ văn nghệ mà không đọc tạp chí đó, hoặc ông có đọc mà bỏ sót bài đó chăng.
Ông im lặng ngó đi chỗ khác, dường như thoáng thở ra chán nản. Ông chăm chăm nhìn tôi:
- Chúng tôi chán quá mấy người ra bộ trí thức như các ông, chuyên thọc gậy bánh xe, phá rối bao nhiêu công sức gian nan chống cộng. Nói thật, chúng tôi chưa có bằng cớ minh bạch ông là CS, nếu có thì khỏi nói gì nhiều. Có điều rõ ràng, ông thiên cộng công khai, tự thị, rất khó chấp nhận. Coi như chúng ta nói chuyện phải quấy, tôi muốn hỏi ông, ông có biết CS luôn kêu gào, đấu tranh cho mục tiêu thống nhất đất nước, nhưng thống nhất kiểu gì không? Kiểu của họ áp đặt, dưới chính quyền “nhân dân”, nhân dân là họ, họ giỏi nghĩ ra từ ngữ để lừa gạt mọi người, trong đó có các “bực thầy” như ông, kể luôn thầy của mấy ông. (Tôi không biết ông đại uý muốn ám chỉ ai). Các ông “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. Tôi đọc tờ khai, biết ba ông cũng học ở Huế, tầm tuổi với ba tôi, ông cũng đậu tú tài tại Huế, nói ngay tôi lúc đầu có chút thiện cảm với ông dù cho quá biết kiểu người như ông vốn “ăn cơm quốc gia thích ma CS”. Nghĩ lại, người như ông thật đáng trách, cần phải loại trừ được người nào hay người nấy.
Trong tình cảnh của mình, tôi chỉ biết ngồi im nghe “chỉ giáo” chứ đâu dám nói gì. Ông nhìn vào mặt tôi, ra vẻ diễu cợt:
- Tôi thấy chẳng có gì “không bình thường” ở con sông giới tuyến mà chỉ không bình thường ở chỗ thay vì trích dạy “Dải khăn sô cho Huế” ông lại dạy văn tuyên truyền của cán bộ CS cho học sinh. Ông chưa quên vụ Tết Mậu Thân chớ hỉ? Vẫn chưa sáng mắt ra chút nào à!
- Tất nhiên tôi đau lòng cũng như đại uý chuyện nhiều người chết oan, vụ này mù quáng, rất đáng lên án. Bạn tôi cũng mất tích ở Huế.
Tự nhiên tôi nghĩ tới vụ tàn sát Sơn Mỹ. Thấy tôi có vẻ ấp úng, dường như đoán được ý nghĩ thầm kín của tôi, ông cao giọng một thôi một hồi:
- CS lem lẻm chối tội, cứ chăm bẳm chửi bới vụ Sơn Mỹ. Tôi không binh vực chuyện giết chóc dã man nhưng ông phải biết đơn vị đó bị bắn tỉa suốt mấy ngày hành quân, từ trong làng bắn ra. Lục soát thì toàn đàn bà, trẻ con, quay lưng ra là bị bắn lén. Đồng đội chết dễ dàng, vô lý, nên lính Mỹ họ nổi khùng. Họ biết lỗi, đưa W. Calley ra toà đàng hoàng. Mấy tay nhà báo Tây Mỹ ra cái điều trung thực, minh tinh màn bạc rững mỡ cứ bu vô xỉa xói vụ Mỹ Lai mà lờ tịt chuyện Mậu Thân. Thật ngu so bì hai vụ, chưa nói chuyện cố tình lờ tịt chuyện này, triệt để khai thác chuyện kia. Mậu Thân vượt hẳn độ dã man, phi lý. Phải chi đám CS Bắc Việt không biết gì địa phương xa lạ, ở đây, cầm đầu là bọn mệnh danh trí thức theo cộng tại chỗ, chúng giết người như say máu, giết toàn người vô tội, giết trong cơn điên choáng váng hận thù giai cấp, mà không hiểu được, chính chúng cũng “giai cấp” có học, thậm chí quý tộc chớ phải bần cố nông gì đâu! Sơn Mỹ dù gì cũng do ngoại bang gây nên, còn mình thì cùng dòng giống, bà con, bạn bè cùng thành phố… mà nỡ xuống tay bằng cuốc thuổng, dao rựa, chôn sống… ác ôn, mọi rợ không giới hạn. Tới giờ này tôi còn không hiểu được nguyên do, không muốn tin chuyện tắm máu say sưa, mù quáng đó có thiệt. Con người ta dù có học cũng dễ dàng trở thành ác thú vì lý tưởng trên mây cùng niềm tin khùng điên nung nấu.
Tôi hơi ngạc nhiên thấy cuộc tra hỏi không đúng với tính chất thường có mà giống như ông chứng minh tôi lầm lạc để thuyết phục tôi thay đổi quan điểm. Tôi cảm nhận chuyện của mình không đến nỗi nào và tự nhiên có chút thiện cảm với người đối diện mấy ngày qua. Từ trước, tôi vốn xem thường ngành cảnh sát, ai cũng biết đó là chỗ thanh niên chen vào để trốn lính, ông này khiến tôi thấy mình suy nghĩ có phần hồ đồ.
Im lặng một lúc, ông bắt đầu hỏi chuyện khác:
- Ông tỉnh trưởng nhắc tôi về việc ông luôn nói chế độ hiện hành là chế độ quân phiệt, có đúng không?
Chẳng cách gì chối chạy nên tôi nhận mình có nói như vậy. Không ngờ ông trở nên nhỏ nhẹ:
- Chuyện này không phải mình ông, mấy tờ nhật báo đối lập nằm vùng, thậm chí mấy tay quốc gia hành chánh trưởng ty, phó ty… trong chỗ riêng tư cũng cùng luận điệu. Tôi thấy các ông chủ quan, không công bình. Đất nước đang chiến tranh, quân đội phải đảm đương công việc, họ không vui sướng gì đâu. Thì cũng có kẻ bất tài, tham nhũng, nhưng đâu phải hết thảy. Họ bị chê không có kiến thức, không biết gì chính trị, chưa chắc đâu. Sĩ quan cấp cao làm tỉnh trưởng, tư lệnh vùng… sống lâu lên lão làng hiện nay vốn được Pháp đào tạo, lịch sử nó vậy, mà đâu đến nỗi tệ, họ giỏi tiếng Pháp, chắc gì lớp sau này so bằng. Nên nhớ bao nhiêu năm qua các đảng phái quốc gia, thân hào nhân sĩ… đâu có thiếu cơ hội tham chính nhưng cứ chia rẽ, gấu ó nhau, thanh toán nhau, phần đông trí thức phòng trà, kẻ thì trùm chăn giao việc nước cho lính, người có tư cách thì bức bối quá đâm ra tự tử. Tự tử có hay ho gì, phải sống để bằng mọi cách giúp nước đang bị giặc xâm lăng chớ. (chắc ông ám chỉ Nhất Linh).

Gần trưa ngày thứ tư bị bắt giữ tại ty cảnh sát, tôi lại được gọi lên phòng xét hỏi. Ông đại uý nhìn tôi từ đầu đến chân nói chậm rãi:
- Ông tỉnh trưởng cho lệnh phóng thích ông với điều kiện ông phải rời nhiệm sở ở đây. Chúng tôi sẽ có tờ trình với bộ quốc gia giáo dục, giải quyết cách nào tuỳ ở họ. Chuyện ông rời đi là lệnh. Theo tôi, giải pháp này khá nhẹ nhàng cho ông, đừng tìm cách ở lại làm gì, nếu phải… đón tiếp ông tại đây lần nữa, thật chẳng vui vẻ gì. Ông có thể thu xếp ra về được rồi.
Ra khỏi cổng ty cảnh sát, tôi thấy đảm đông học sinh đứng lố nhố bên kia đường nhìn qua, các em reo mừng chở tôi về nhà, cả chục em về theo, thầy trò líu lo đủ thứ. Sau đó tôi được biết mỗi ngày tan trường, trên đường về, học sinh hay nán lại bàn tán bên kia đường đối diện ty cảnh sát. Không chừng đó cũng là lý do họ mua đường vắng, thả và tống khứ tôi đi cho yên chuyện.
Việc này xảy ra đã non nửa thế kỷ, lời nói qua lại được ghi lại có thể không đúng nguyên văn phần nào nhưng nội dung hoàn toàn có thật và nó ngày càng khắc sâu trong tâm khảm tôi vết hằn kỷ niệm.

Bao năm sau này phải dạy học để kiếm sống trong một nền giáo dục kỳ quái, lại ngày ngày đối diện một xã hội vạn ác, nỗi tuyệt vọng về những con người CS đưa đất nước dân tộc tới chỗ khốn cùng mà mình trót tin tưởng suốt buổi hoa niên khiến tôi càng nhớ tới người đối lập đáng trọng ngày trước.
Điều tôi tự trách mình mãi là không biết tên ông. Mấy ngày hỏi chuyện tôi, ông bận civile. Lúc được tự do, tôi vui mừng ra về, không nghĩ tới chuyện biết tính danh. Năm 76 tôi có về lại Rạch Giá một lần, hỏi thăm ông nhưng không ai biết. Tôi viết những dòng này bày tỏ chút tình tri ngộ và lòng biết ơn cách đối xử độ lượng của ông. Chắc chắn ông không thoát được trại tù “cải tạo”, may mắn ông còn sống đâu đó trên cõi đời đa đoan mà đọc được, thật hoan hỉ cho tôi rất nhiều.
Ông nói đúng, loại người như tôi chỉ “lý tưởng trên mây”, sau 75 đặt chân xuống đất, bẽ bàng nhận ra mình chỉ là hạng người trí đoản, nông nổi, lầm lẫn cả một thời trai trẻ.
02-02-2018

Fb Nguyễn Anh Khiêm


 

Không hiểu sao mỗi lần đọc lại bài của họa sĩ Trần Duy viết về những ngày cụ Phan Khôi bị bọn (gọi là trí thức) tiểu nhân gian manh về hùa nịnh nọt bạo quyền bao vây khủng bố, lòng tôi lại dâng trào một nỗi cảm thương và uất nghẹn.
"Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo. Người này quát lớn:
"Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"
Vợ ông, − bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:
"Thôi, anh về đi… Buồn không cần thiết!"
Đến buồn mà cũng không cần thiết, kể cả khi hắt bát nước đi vẫn biết là không hốt lại được.
Hôm sau tôi gặp lại vị quan chức hôm qua, nguyên là bạn học cùng tôi thời tiểu học ở Quy Nhơn, Bình Định, tôi hỏi:
"Ăn ở đối xử với nhau như vậy có quá lắm không? Nhất là tầm tuổi ông Phan cũng ngang hàng cha chú chúng mình?"
Ông bạn tôi cười nói:
"Cậu có biết chuyện lên đồng không? Người lên đồng nói những điều không do họ chịu trách nhiệm, họ nói những điều đến từ thế giới khác."
Và cũng nhân câu nói ấy, tôi nhớ có một nhà viết kịch nói với tôi giai thoại về ông này. Nhà ông này có một cái tủ lạnh, lúc vắng ông có người mở tủ lạnh ra thi thấy trong tủ toàn là lưỡi. Có thể vì thế mà ông ta nói được bằng nhiều thứ lưỡi!"
Ai cũng đoán được quan chức có quyền trong bài nhận mình nói những điều không cần chịu trách nhiệm là người nào. Thật ra ông Trần Duy đã chỉ ra gần như rõ nhưng chẳng hiểu vì sao không chịu nói thẳng cho rồi. Tôi nghĩ phải có người tổng kết đám gọi là nhà văn nhà thơ bu vào ăn có đánh hội đồng Phan Khôi và nhóm NVGP nhằm củng cố cái ghế quan lại, kiếm chác thêm tiêu chuẩn gạo thịt và đầu tư lý lịch cho tương lai con cháu. Phần lớn họ chết cả rồi nhưng con cháu nay ở đâu, làm gì, giàu có thế lực cỡ nào, dân VN chắc ai cũng muốn được biết. Nhiều người xẻ thịt róc xương Phan Khôi bấy giờ, kẻ thì giấu riệt chuyện cũ, kẻ viết ít trang văn xuôi, mấy bài thơ di cảo gọi là xét lại, bày tỏ nhiều ít hối hận chuyện đê tiện đã làm. Tôi ngạc nhiên dân ta vốn lạt lòng, tử tế, vẫn ca ngợi văn thơ của họ, dù rằng của thời trước chiến tranh. Tôi nghĩ với tư cách tàn tệ, thời gian dài ngậm máu phun người như vậy, họ chẳng đáng được nói tới. Với tôi, đọc cái tên của họ tôi đã ghê.
Ông bạn nhà nho hiền lành Lê Văn Bảy nhắc tôi câu trong Luận Ngữ: "Điểu chi tương tử, kỳ minh giả ai, nhân chi tương tử kỳ ngôn giả thiện". Ôi, đợi lúc gần chết rồi mới nói điều phải, chẳng ích gì cho ai, tôi lại hay so sánh văn thơ xu nịnh hồi họ còn thế lực, đâm thất vọng ê chề chuyện gian manh không giới hạn, nghĩ không thể có cái gọi là trí thức XHCN lương thiện được. Còn dân Quảng Nam hãy nên dựng tượng cho Phan Khôi, thực tế còn gian nan thì hãy dựng tượng trong tâm hồn mình bậc vĩ nhân lẫm liệt, đích thị lương tâm của một thời đại đảo điên, dường như chưa hề có từ ngày lập nước.
Một lời dạy quan trọng trong Kinh Thánh đại ý nói các ngươi chớ xét đoán người khác hầu khỏi bị xét đoán. Hơn một lần xem phim Mỹ được nghe những lời đối thoại như "anh lấy quyền gì mà xét đoán em" hoặc "em đâu có quyền xét đoán anh"... Hay thật. Nhưng sống ở đời mà không xét đoán họa chỉ có bậc thánh nhân. Mà chính thánh nhân dạy điều phải trái là xét đoán rồi, còn gì. Nội chuyện đơn giản nói thơ này hay, thơ nọ dở hơn cũng phạm vào phán xét rồi. Vừa gặp người quen nhà báo, anh ta có vẻ tự hào ngầm mình thuộc loại trí thức, tôi khều nhẹ:
- Báo chí mấy ông thời kỳ này nhã nhặn thiệt đó. Bao nhiêu chuyện cướp bóc dân ngang ngược mà chỉ dám bày tỏ rụt rè đề nghị xem lại điều này, đề nghị xét lại chuyện kia… đọc tức anh ách đám cầm bút mọn hèn.
Anh ta hỏi:
- Ông dạy học cho tới ngày về hưu mấy năm nay phải hông?
Tôi ờ. Anh ta tiếp:
- Ông từng phải dạy giảng văn hiện thực XHCN là đỉnh cao văn nghệ của nhân loại y chang sách giáo khoa, không dám sai một ly chớ gì?
Tôi bẽn lẽn nhớ lại mình. Công nhận bọn tạm gọi petit-bourgeois gentilhomme intellectual phần đông yếu hèn quá thể. Bọn petit đã đành, bọn đại “trí thức” XHCH cũng đã đành nhưng hình ảnh này thì quá tệ. Mấy bữa rày, cư dân mạng thở dài thườn thượt trông thấy bức hình ông trí thức tiêu biểu khom lưng đủ góc vuông không sai một phân bắt tay chủ tịch nước trong lễ đón nhận huân chương văn học nghệ thuật gì đó.
Tôi vẫn ngạc nhiên nhớ đâu trang đầu tác phẩm danh tiếng của Kant, cuối mấy lời tri ân một tay quý tộc trưởng giả mạnh thường quân từng giúp ông hoàn thành tác phẩm, ghi: Votre serviteur - Kẻ đầy tớ của ngài! Không hiểu tình hình xã hội thời đó ra sao và công đức tay quý tộc lớn cỡ nào mà bậc trí thức thượng thừa phải thốt những lời như vậy nữa!
Tôi nghĩ có hèn thì cũng tới mức đó thôi chớ gian manh, nịnh nọt, sẵn sàng giết nhau cỡ bọn nguỵ trí thức XHCN thì quả xưa nay chưa hề có.
17-01-2018

Fb Nguyễn Anh Khiêm


Huế - địa ngục trần gian có thật

Liên Thành

Hai giờ 33 phút sáng ngày mồng hai Tết Mậu Thân 1968 là giờ khởi đầu của 624 giờ đau thương kinh hoàng của cuộc tàn sát của bầy ác quỷ, của lũ người man rợ từ rừng núi phía tây tràn vào Huế. Bọn quỷ khát máu này là ai?
Bọn chúng là quân “Giải Phóng”, là quân đội “Nhân Dân”, là Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, là những giáo sư, sinh viên, học sinh đã theo Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, và Thích Chánh Trực trong cuộc phản loạn vào tháng 6/1966 tại Miền Trung.
Khi phong trào tranh đấu phản loạn bị chính phủ VNCH dẹp tan, bọn chúng đào thoát lên mật khu. Nay bọn chúng theo chân quân cướp man rợ trở lại Huế với gươm đao, búa liềm, với mã tấu, với AK, với B40 thẳng tay chém giết, chôn sống đồng bào, bắn sập thành phố, và bắn sập đền đài miếu vũ của tổ tiên.

Và Huế trong 624 giờ đồng hồ đã trải qua từng giây một, từng phút một, từng giờ một, từng ngày một, những tang tóc thê lương, những máu và nước mắt của hằng chục ngàn dân Huế nhỏ xuống trên mảnh đất thân yêu của quê hương.
Kêu trời không thấu, kêu đất không nghe, cầu khẩn thần linh phù trợ, thần linh ngoảnh mặt. Huế ôm nhau trong vòng tay run rẩy, dìu nhau chạy trốn Việt cộng, khập khễnh bước thấp bước cao với nỗi kinh hoàng tột độ.
Người Huế chết quá nhiều, chết tức tưởi, chết oan ức, chết không hiểu tại sao phải chết, tội tình chi mà phải chết. Huế mỗi thước đất là một thây người, là mỗi vũng máu tươi còn chưa kịp đổi màu. Người Huế chết từ trong nhà ra đến sân, sân trước đến sân sau, thây người nằm chết âm thầm lặng lẽ trên đường phố, nơi vỉa hè. Thây người sình thối trong lùm cây bụi cỏ. Thây người nằm co quắp trong đường hẻm, nơi bờ ao, nơi tường thành. Thây người trong trường học, trong sân chùa. Một rừng xác chết, một bãi thây ma. Người Huế chết nằm, chết đứng, chết ngộp thở vì bị chôn sống, chết vì bị cuốc xẻng đập vào đầu,Năm ngàn ba trăm hai mươi bảy [5327] người chết, 1200 bị bắt đi mất tích.
Hỡi trời hỡi đất, hỡi Chúa hỡi Phật, hỡi hồn thiêng sông núi, hỡi anh linh tiền nhân, quý vị ở đâu sao không ra tay cứu vớt dân Huế? Họ đã làm gì nên tội? Hay là Phật, Chúa, thần linh cũng phải đành bó tay trước loài quỷ cộng sản để mặc bọn chúng thẳng tay say sưa chém giết đồng bào vô tội!
Năm giờ 30 sáng, trong ánh sáng lờ mờ của ngày mùng 2 Tết Mậu Thân 1968, cộng quân tràn ngập khắp mọi nơi trong thành phố và vùng giáp ranh các quận Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang rồi bọn chúng bắt đầu một cuộc tàn sát đồng bào Huế còn dã man hơn thời trung cổ.

Cuộc tàn sát dân chúng Huế được Việt Cộng chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn I:
Bắt và giết người theo danh sách trong hồ sơ đen mà cơ quan An Ninh Khu, Tỉnh, Thị Ủy Việt Cộng đã thiết lập từ trước cuộc tấn công. Khi lực lượng quân sự tràn vào Huế thì ngay lập tức lực lượng Công An Khu Ủy của Tống Hoàng Nguyên, lực lượng Công An Thừa Thiên-Huế của tên Đại Tá Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh, phối hợp chặt chẽ với các đội An Ninh Tự Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân truy lùng, bắt bớ, và hạ sát các mục tiêu ngay. Đó là thời điểm sau 2 giờ 33 phút sáng ngày Mùng 2 Tết, và kéo dài một ngày sau đó.
Giai đoạn II:
Ngay trong ngày Mùng 2 Tết, vào buổi sáng sau cuộc tụ họp đồng bào tại hai Quận I và II, chúng công bố thành lập Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Quận I và II,và Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên-Huế, đồng thời cũng công bố thành phần tổ chức của Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình. Những vụ bắn giết bắt bớ dân chúng trong giai đoạn này quy mô hơn, có tổ chức hơn, và quá sức tàn bạo.

Giai Đoạn I bắt đầu từ 2 giờ 33 phút sáng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân 1968:
Trời chưa sáng hẳn, một số lớn các gia đình trong ba quận thị xã Quận I, II, và III, và ba quận giáp ranh Hương Trà, Phú Vang, và Hương Thủy đã bị đám Công An Thành Ủy, lực lượng An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, đám chỉ điểm, đám cơ sở nội thành xông vào từng nhà lục soát bắt người. Bọn chúng đã có sẵn hồ sơ lý lịch, tên tuổi từng người mà bọn chúng gọi là Công An Cảnh Sát Ngụy, binh lính Ngụy, công chức chính quyền Ngụy, nhân viên tình báo “Xê -I -A”. Không cần biết đúng sai, bọn chúng thỏa thích nổ súng vào những người trong bảng “ phong” thần nầy.
Bảy giờ sáng ngày Mồng 2 Tết Mậu Thân 1968, dân chúng Huế bắt đầu chạy giặc. Họ bỏ lại tất cả để chạy trốn Việt cộng. Nhà cửa tài sản bỏ lại đã đành, thức ăn thức uống, áo quần cũng không kịp mang theo, miễn sao tránh xa bọn Cộng sản tìm về vùng Quốc gia đang kiểm soát. Già trẻ, lớn bé, cha mẹ, con cái, dắt dìu nhau tìm đường chạy trốn Việt cộng. Nhưng khốn thay, họ biết chạy đi đâu vì khắp nơi đều là Việt Cộng. Bọn Việt cộng xả súng bắn vào đoàn người đang hốt hoảng và hỗn loạn chạy tìm nơi bình yên trú ẩn. Thây người ngã gục, máu đào tuôn rơi nhuộm đỏ màu cờ đỏ sao vàng của Hồ Chí Minh, của đảng Cộng sản Việt Nam, và cờ 3 mảnh của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
- Nhân viên cao cấp của chính quyền Thị xã Huế hy sinh đầu tiên là ông Trần Đình Thương, Phó Thị Trưởng Thị xã Huế. Vì không nắm vững tình hình nên trời chưa sáng hẳn ông đã phóng xe khỏi nhà với ý định là đến nhiệm sở Tòa Hành Chánh Tỉnh và Thị Xã xem tình hình thế nào, ông đã bị cộng quân bắn hạ ngay trước cổng nhà, đối diện với công viên Bến Ngự, ngay ngã tư Nguyễn Hoàng- Nguyễn Huệ thuộc Quận III Thị xã Huế.
Thật tội nghiệp, mãi hơn 12 ngày sau, khi khu vực nầy được giải tỏa, thân nhân mới lấy được xác đem về mai táng. Lúc đó thi thể ông đã sình thối.
- Tại vùng Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm, dân chúng kéo nhau chạy trốn lên vùng nhà máy nước Vạn Niên, gần chùa Từ Hiếu, cạnh đồi thông Quảng Tế, hoặc cố gắng băng qua cầu Bến Ngự chạy về hướng trường Quốc Học hoặc bệnh viện Trung Ương Huế. Tất cả hai hướng đều bị cộng quân hoặc bằng súng nhỏ, hoặc bằng súng cối pháo kích và bắn bừa bãi vào đoàn người chạy loạn để ngăn chận không cho dân chúng trốn thoát khỏi vùng bọn chúng đang kiểm soát. Tất cả đều phải quay trở lại nhà để bọn chúng có thể sử dụng làm con tin, làm khiên đỡ đạn, và làm chùn bước quân đội VNCH muốn tấn công chúng.
Dân chúng vùng Nam Giao, Từ Đàm, dốc Bến Ngự, bị thương khá nhiều và nhiều gia đình bắt đầu đói vì đã hết gạo. Cha tôi, Hoàng Thân Tráng Cử, cùng với một người bạn chí thân là Bác Võ Thành Minh, hai ông là những trưởng Hướng Đạo thâm niên nhất cùng một thời với Tạ Quang Bửu, Hoàng Đạo Thúy, trưởng Trần Điền của phong trào Hướng Đạo Việt Nam, chạy chỗ nầy sang chỗ kia, băng bó cứu giúp cho những đồng bào bị thương. Phụ thân tôi và bác Võ Hoàng Minh vào những nhà vắng chủ tìm gạo nấu cơm tiếp tế cho nhiều gia đình có trẻ thơ đang bị đói, và cuối cùng họ thành lập một đoàn cứu thương tải thương những người bị thương quá nặng để đưa về bệnh viện Trung Ương Huế.
Sau nầy cha tôi kể lại với chúng tôi: Có 4 người bị thương rất nặng cần phải vào bệnh viện mới mong cứu sống. Cha tôi và bác Võ Thành Minh cuốn 4 cái mền làm võng cùng một số thiếu nhi khiêng 4 người nầy định đưa về bệnh viện Trung Ương Huế. Đi đầu là bác Võ Thành Minh với miếng vải trắng cột vào một khúc tre làm biểu tượng cho cờ cứu thương, đi giữa hàng cán bệnh nhân là cha tôi. Đoàn mới ngang dốc Bến Ngự thì bị một toán Việt cộng chận đoàn cứu thương lại. Một tên Việt cộng hỏi bác Minh và cha tôi:
- Chúng mày treo cờ trắng đi đầu hàng địch hả?
- Chúng tôi đưa 4 người bị thương quá nặng vào bệnh viện.
Hai tên khác dí mũi súng AK vào cha tôi và bác Minh:
- Đi lui! Không thì chúng tao bắn tan xác bây giờ.
Cả đoàn đành đi lui. Chỉ mấy giờ sau 4 nạn nhân tắt thở vì ra máu quá nhiều.
Cha tôi và bác Võ Thành Minh trở lại nhà Cụ Phan Bội Châu gần chùa Từ Đàm. Khoảng nửa giờ sau. Một toán Việt cộng đến nhà Cụ Phan để bắt cha tôi và bác Minh. Cha tôi may mắn chạy thoát bằng cửa sau sang nhà hàng xóm lẩn trốn. Bác Võ Thành Minh bị bọn chúng bắt dẫn đi và sau đó giết bác. Sau nầy thân nhân của bác Võ Thành Minh tìm được xác của bác trong một hố chôn tập thể. Tưởng cũng cần nhắc lại, năm 1954 hiệp định Geveva giữa Việt Cộng và Pháp chia đôi đất nước lấy vĩ tuyến 17 làm lằn ranh Quốc-Cộng, thì bác Võ Thành Minh chính là người đã dựng lều bên bờ hồ Geneva thổi sáo cầu nguyện cho hòa bình Việt Nam. Bác Võ Thành Minh, suốt đời giữ lời hứa của một Hướng Đạo sinh là:
Trung thành với Tổ quốc - Giúp ích mọi người - Tuân theo luật Hướng Đạo.
Bác có tội tình chi mà bọn chúng đem chôn sống bác? Chẳng lẽ vì đi cứu người dùng mảnh vải trắng làm cờ mà bị giết? Trong lửa đạn tìm đâu ra sơn đỏ để làm thành cờ hồng thập tự, đành dùng vải trắng làm cờ cứu thương cho hai bên đừng bắn vào đoàn tải thương. Vậy mà bọn ngu dốt man rợ kia cho là kéo nhau đi đầu hàng địch, để rồi cuối cùng thì những người bị thương phải chết vì không được cứu chữa, còn người tải thương thì bị bắt và bị chôn sống! Lịch sử nào tha được tội ác của bọn cộng sản tàn bạo này?
Cũng tại ngôi nhà của Cụ Phan Bội Châu, sau khi bắt bác Võ Thành Minh, bọn chúng lại bắt hai người cháu nội của Cụ Phan Bội Châu đem đi chôn sống, đó là anh Phan Thiện Cầu, Đại Úy Quân Cảnh Tư Pháp VNCH, và anh Phan Thiện Tường, Giáo Sư. Trong khi đó thì anh ruột của hai anh Phan Thiện Cầu và Phan Thiện Tường lại là Đại Tá Việt Cộng “Quân Đội Nhân Dân” Phan Thiện Cơ(!) và thời điểm đó Phan Thiện Cơ là Tư Lệnh chiến trường Tây Nguyên! Đau lòng thay cho cụ Phan Bội Châu.
Cụ Phan Bội Châu và gia đình tôi có quan hệ rất mật thiết. Cụ là một nhà tiền bối cách mạng phụ tá cho ông nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trong phong trào Đông Du và trong Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội. Cụ và cha tôi, Hoàng Thân Tráng Cử, có một mối giao tình khắng khít vì công việc cách mạng chống Pháp chống cả Việt Minh liên quan đến ông nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Không hiểu Đại Tá Phan Thiện Cơ nghĩ gì khi hay tin hai người em của mình bị chính các đồng chí của mình đem đi chôn sống? Hay ông Đại Tá Việt Cộng này cũng học tập gương của đồng chí kính yêu Trường Chinh đem cả cha mẹ mình ra đấu tố và giết hại để làm gương cho các anh hùng nhân dân noi theo? Phải chăng đó chính là chân lý là nguyên tắc Đấu Tranh Giai Cấp của Bác và Đảng?
Năm 1973, Đại Tá Phan Thiện Cơ là một thành viên cao cấp trong phái đoàn quân đội Bắc Việt tại Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến 4 bên (Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và Cộng Sản Hà Nội) đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất Sàigòn.
Tại vùng Nam Giao, Cộng quân bắt sinh viên Lê Hữu Bôi tại chùa Tường Vân, nơi tu đạo của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Lê Hữu Bôi, sinh viên trường Quốc Gia Hành Chánh, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sàigòn bị bắt và sau đó đem đi chôn sống, vì bị nghi là ‘Xê-I-A”. Sinh viên Lê Hữu Bôi gọi Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là cậu ruột, gọi bà nội tôi là dì. Tôi gọi sinh viên Lê Hữu Bôi là bác.
Sau nầy chúng tôi tìm ra xác sinh viên Lê Hữu Bôi. Tội nghiệp, ông ra Huế vừa nghỉ Tết và cũng để đi hỏi vợ thì bị Việt cộng bắt đi chôn sống.

Trong suốt thời gian chiếm Huế, Bộ Chỉ Huy An Ninh của cơ quan Thành Ủy Huế đặt tại Chùa Từ Đàm. Do đó, tất cả các thành phần Dân, Quân, Cán, Chính, và Cảnh Sát Quốc Gia mà bọn an ninh Thành Ủy cũng như lực lượng An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân bắt được tại 3 quận thị xã I, II, III và các quận ven thành phố Huế đều bị giải về và giam giữ tại Chùa Từ Đàm. Tại đây họ bị thẩm vấn, đánh đập hành hạ thân xác, một số bị xử bắn ngay tại chùa. Số còn lại lần lượt bị giải đi chôn sống tại vùng gần chùa Tường Vân, Vạn Niên, vùng lăng vua Tự Đức, Đồng Khánh. Bốn trăm tám chục xác chết được tìm thấy ở Khe Đá Mài thuộc vùng núi Nam Hòa. Đó là những thanh niên trong Lực Lượng Tự Vệ của làng Phủ Cam.

Tại Nam Giao, Từ Đàm, Bến Ngự, lực lượng an ninh của Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy, và đám cơ sở nằm vùng, đội An Ninh Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, lục xét từng nhà một, bắt và dẫn đi rất nhiều người. Dân chúng sau này làm chứng khai đã nhận diện rõ những tên nằm vùng thật nguy hiểm và sắt máu như tên Nguyễn Tú, một võ sư môn phái Thiếu Lâm, nhà ở gần lăng Vua Tự Đức gần đồi Vọng Cảnh. Nguyễn Tú là cơ sở quan trọng của cơ quan an ninh Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Tên thứ hai là Cửu Diên nhà ở vùng Cầu Lim, gần Đàn Nam Giao. Ngoài ra còn có con trai của Cửu Diên, nguyên là Thiếu Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ trước Tết Mậu Thân, Nay y cũng ở trong toán an ninh của Việt Cộng đang truy bắt Dân Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa trong vùng Nam Giao, Từ Đàm, Bến Ngự. Trong số những người bị hai tên Tú và Cửu Diên bắt đi tại vùng Từ Đàm có ông Tôn Thất Hậu, chủ tiệm ảnh Tự Do, và ông Nguyễn Văn Nhẫn, chủ tiệm hớt tóc ngay cạnh chùa Từ Đàm. Hai ông Tôn Thất Hậu và Nguyễn Văn Nhẫn là bạn chí thân của tên Tú và Cửu Diên vậy mà bọn chúng cũng không tha. Thế mới biết đã là Việt Cộng thì không bao giờ kể gì đến tình nghĩa. Sau nầy tìm được xác của hai ông Tôn Thất Hậu và Nguyễn Văn Nhẫn ở vùng lăng vua Đồng Khánh. Họ chết trong tình trạng bị chôn sống vì không có vết tích bị trúng đạn.

Tại Làng Phủ Cam: Rạng sáng ngày mùng 2 Tết, Phủ Cam đã bị lực lượng cộng quân bao vây, nhưng bọn chúng vẫn chưa tấn công vì e ngại lực lượng phòng thủ của giáo xứ. Giáo dân làng Phủ Cam có truyền thống lâu đời từ thời kỳ quân đội viễn chinh Pháp là họ tự tổ chức đội ngũ, xin phương tiện vũ khí của chính phủ, tự đứng ra canh gác gìn giữ an ninh ngày đêm cho bà con thân thuộc trong làng. Lần nầy Mậu Thân 1968, Cộng quân bao vây tứ bề, thời gian vây hãm quá lâu, đã nhiều ngày qua mà chẳng thấy có một hy vọng nào sẽ có viện binh tiếp cứu. Dân chúng và ngay cả những thanh niên trẻ trong đoàn tự vệ bắt đầu có dấu hiệu nản lòng. Đại đa số dân chúng trong làng đêm đêm kéo nhau vào trú ngụ trong nhà thờ Phủ Cam, trước là để tránh đạn pháo của cộng quân, sau là nhờ sự che chở bảo vệ của các Cha trong giáo xứ.
Tôi nhớ không lầm vào khoảng 1 giờ khuya ngày 18/2 âm lịch, tại Bộ Chỉ Huy, tôi nhận được báo cáo cuối cùng của toán Cảnh Sát Đặc Biệt phụ trách xã Thủy Phước đang bí mật hoạt động trong làng Phủ Cam: "Cộng quân đã tấn công vào làng, chiếm nhà thờ Phủ Cam và bắt đi rất nhiều đồng bào đang trú ngụ trong nhà thờ Phủ Cam.” Những ngày sau chúng tôi nhận được báo cáo rõ ràng hơn là khoảng trên 300 thanh niên trong làng bị bắt đi.
Kết quả tàn khốc về số phận của hơn 300 thanh niên bị bắt trong nhà thờ Phủ Cam là: Sau khi bị bắt, họ được dẫn lên giam tại Chùa Từ Đàm, nơi đặt bộ Chỉ Huy An Ninh của Thành Ủy Huế. Ngay tại đây đã có một số bị xử bắn ngay tại sân chùa. Sau đó đại đa số còn lại bị trói tay và dẫn lên vùng núi phía tây, và cuối cùng thân xác của trên 428 người được phát hiện nằm dọc bờ khe Đá Mài, phía tây quận lỵ Nam Hòa. Đó là số phận của những người bị bắt tại nhà thờ Phủ Cam.
Tại Dòng Chúa Cứu Thế, nằm gần khu An Cựu trên đường Nguyễn Huệ, rạng sáng ngày mồng 2 Tết cho đến ngày mùng 3, lúc đó có khoảng trên năm trăm đồng bào trong vùng đến trú ẩn ngay trong nhà thờ, nhưng con số nầy mỗi ngày mỗi tăng và những ngày sau số lượng đồng bào vào ẩn trốn trong nhà thờ của Dòng Chúa Cứu Thế đã lên đến gần ba ngàn người. Đây là thời điểm mà bọn Công An Khu, Thành ủy Huế và đám nằm vùng, tổ chức An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân ra tay, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh, Đại Tá Trưởng Ty Công An Thừa Thiên-Huế. Phụ tá cho hắn là cha con ông Thiên Tường, chủ tiệm thuốc Bắc ở gần chợ An Cựu. Cũng cần nói thêm Nguyễn Đình Bảy là con nuôi của Thiên Tường từ nhỏ. Ngoài đám nằm vùng của cha con Thiên Tường còn có tổ chức An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân cùng đám chỉ điểm. Sau khi bọn chúng bao vây chặt chẽ khu nhà thờ Phủ Cam, lực lượng an ninh của bọn chúng tràn vào, tập họp mọi người, phân loại và thanh lọc.

Hơn ba trăm người bị bắt sau đó, bị trói tay dẫn đi về hướng Lăng Xá Bầu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy, trong số này có thượng nghị sĩ Trần Điền.
Sau này, trong số xác của hơn 300 người vô phúc này có xác của Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Tất cả được tìm thấy rải rác trong hai vùng Lăng Xá Bầu và Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy. Họ chết trong tình trang bị trói tay vào nhau, bằng dây kẽm gai, hoặc dây điện chết chùm trong những hố chôn tập thể. Một số chết vì bị vật cứng đập vào đầu, đa số chết vì bị chôn sống.
Theo như lời tường thuật của thanh niên tên Phan Văn Tuấn, kẻ bị Việt Cộng bắt đi làm nhân công đào hố chôn người, thì khi anh ta và những người khác đào hố xong, anh ta tận mắt chứng kiến bọn Việt cộng dắt những tù nhân đến. Những kẻ bất hạnh nầy bị cột từng chùm một, từ hai mươi đến ba mươi người. Tất cả đều đứng ngay miệng hầm dài nhưng không sâu. Bọn chúng chỉ bắn một hai người đứng đầu hàng, những người chết ngã ngục xuống hầm kéo những người còn sống vì mất thăng bằng phải rớt xuống theo. Bọn Việt cộng ra lệnh cho anh Tuấn và những “nhân công” khác lấp đất chôn sống những người còn sống. Những ai vùng vẫy thì bọn chúng dùng cuốc, xẻng đập vào đầu. (Anh Tuấn là người đã may mắn chạy thoát trước khi bị bọn Việt cộng giết).
Tưởng cũng cần nói thêm: Thượng nghị sĩ Trần Điền là một giáo sư, một trưởng Hướng Đạo ngay từ hồi phong trào Hướng Đạo Việt Nam mới thành lập, ông còn là cựu Tỉnh Trưởng tỉnh Quảng Trị, và đương thời là một thượng nghị sĩ của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra, trường trung học Thiên Hựu ngay ngã tư Nguyễn Huệ-Lý Thường Kiệt, là nơi đặt bộ chỉ huy nhẹ của Đại Tá VC Nguyễn Đình Bảy, trưởng Ty Công An Thừa Thiên-Huế. Có khoảng một đại đội cộng quân canh giữ nơi nầy. Đây là nơi giam giữ những tù nhân quan trọng mà Nguyễn Đình Bảy đã lập danh sách từ trước khi bọn chúng tấn công Huế. Theo anh Lê Đình Nguyên, một trung sĩ cảnh sát đào thoát được khi trực thăng Hoa Kỳ oanh kích vào trường Thiên Hựu, thì tại đây đã có những vụ xử bắn rất rùng rợn. Số lượng người bị Việt cộng bắt giam trong trường Thiên Hựu khoảng gần 400 người. Bọn chúng dùng 2 lớp học vừa làm pháp trường đồng thời cũng là kho chứa xác. Hàng giờ, bất kể ngày đêm, hàng loạt súng nổ trong hai phòng học đó. Tội nhân bị dẫn đến căn phòng tràn ngập xác chết vừa tươi vừa thối rữa. Thây người mới chồng chất lên thây người cũ mỗi ngày mỗi cao, mỗi nhiều. Mùi tanh của máu tươi trộn lẫn mùi hôi thối dòi bọ của xác chết đã sình thối. Cảnh tượng vừa ghê rợn vừa truyền nhiễm, khó thấy nơi nào trên thế giới có cảnh tượng kinh hoàng như thế. Ngay cả phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã cũng không có cảnh vừa là pháp trường vừa là hầm mộ tích lũy như vậy. Có thể nói trong lịch sử Việt Nam và trong lịch sử thế giới khó có một cảnh giết người một cách rùng rợn và dơ bẩn kinh rợn đến thế.
Một trong những tù nhân quan trọng mà bọn chúng bắt giữ là ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên. Lực lượng công an của Nguyễn Đình Bảy đã đến bắt ông Phó Tỉnh Trưởng tại tư dinh của ông trên đường Lý Thường Kiệt, đối diện với Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ. Sau đó bọn chúng đem ông ta về giữ tại trường Thiên Hựu, nơi đặt bộ chỉ huy an ninh của bọn chúng.
Những ngày gần thua trận, bọn chúng dẫn ông lên núi, theo dãy Trường Sơn, thời gian đầu ông bị giam tại vùng núi giáp ranh Thừa Thiên-Lào cùng với hai bạn tù là ông Hoàng Liên Nguyễn Văn Đãi, Đại Biểu Chánh Phủ (Hành chánh) Vùng I, và một lãnh tụ Quốc Dân Đảng của Thừa Thiên-Huế là Ông Tứ. Sáu tháng sau, cả 3 bị giải ra Bắc, giam ở trại tù Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông (Hà Nội). Sau nhiều lần di chuyển đổi trại, 1973 hiệp định đình chiến Paris ký kết, cả ba ông được chuyển về Trại Ba Sao chờ ngày trao trả tù dân sự, nhưng sau đó bọn chúng lại đổi ý định không trao trả 3 ông cho chính phủ VNCH. Họ bị tiếp tục giam giữ mãi cho đến 1980.
Điều đáng nói là, trong 12 năm tù tội từ 1968-1980 thì ông đã bị biệt giam gần cả 12 năm.
Trong năm 1980 ông Bảo Lộc nhận được điện tín: “Chị vừa mất”, bọn chúng cho phép ông xuất trại về Huế dự đám tang. Có lẽ ông trời đã rủ lòng thương một chiến sĩ quốc gia vì Tổ Quốc điêu linh mà phải trả một giá quá nặng cho một đời người như ông Phó Tỉnh Bảo Lộc, nên trời đã che mắt bọn Cộng sản mà cho phép ông về Huế dự đám tang. Thật ra người qua đời là phu nhân của Trung Tá Bảo Định, anh ruột ông Bảo Lộc, trưởng phòng 4 Sư Đoàn I/BB. Gia đình Trung Tá Bảo Định đã định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1975 chứ đâu còn ở Huế vào năm 1980. Sau khi có mặt tại Huế, chỉ 3 ngày sau gia đình bí mật chuyển ông phó tỉnh trưởng vào Sàigòn. Tại Sàigòn, với sự giúp đỡ của thân nhân và bạn bè, vài tuần sau đó ông đã có mặt tại trại tỵ nạn ở Indonesia…
Mấy tháng sau, ông đã đoàn tụ với phu nhân của ông và gia đình người anh ruột là cựu Trung Tá Bảo Định tại thành phố San Diego nam California Hoa Kỳ. Ông mất tháng 5/2006. Gần một năm sau thì phu nhân Bảo Lộc đã nối gót theo ông.

Tại trường trung học Kiểu Mẫu, ngay tối ngày Mùng 2 Tết, rạng ngày Mùng 3, một số đồng bào quanh vùng Đội Cung, Hàng Me, Chợ Cống, và vùng trường trung học Nguyễn Tri Phương rời khỏi nhà chạy đến trú ẩn tại đó. Và cứ như thế mỗi ngày dân chúng kéo đến đây tỵ nạn mỗi ngày mỗi tăng, con số đã lên trên hai ngàn đồng bào trong khu vực nhỏ bé nầy.
Tôi điều động hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ an ninh cho số đồng bào ở tại đây. Cộng quân cũng đã tấn công 3 lần vào địa điểm nầy nhưng đã bị lượng Cảnh Sát Dã Chiến đẩy lui. Trường trung học Kiểu Mẫu nằm bên nầy bờ sông Hương đối diện với chợ Đông Ba bên kia bờ sông Hương, nên ngày cũng như đêm Cộng quân đặt súng cối pháo kích từ bên chợ Đông Ba pháo sang, gây nhiều thương vong cho đồng bào trong trại tỵ nạn.
Tôi còn nhớ vào buổi sáng ngày Mùng 7 Tết, tôi đang đứng nói chuyện với ông chủ tiệm sách Nam Hưng tại ngay sân trường Trung học Kiểu Mẫu thì Cộng quân bắt đầu pháo, quả đạn đầu tiên rơi ngay gần chỗ ông ta và tôi đứng. Tôi may mắn chỉ bị mảnh đạn nhỏ làm rách áo giáp phía trước ngực, nhưng ông chủ tiệm sách không may mắn như tôi. Thật tội nghiệp, một mảnh đạn súng cối đã xé tan bụng, ông ta chết ngay chẳng nói được lời nào.
Điểm lại một số tội ác trời không dung đất không tha của bọn cộng sản, chúng ta thấy đối với các trẻ thơ Miền Nam trong các trường tiểu học Cai Lậy, Qui Nhơn chúng cũng không tha, pháo kích và ném lựu đạn gây thương vong cho hàng trăm trẻ thơ, nay đồng bao khốn khổ trong trại tỵ nạn Kiểu Mẫu chúng cũng không từ, tội ác vô lương tâm này biết bao giờ bọn cộng sản mới rửa cho sạch?

Quận II (Tả Ngạn) Thị xã Huế là nơi mà cộng quân tàn sát dân lành vô tội nhiều nhất. Quận II với địa thế bao bọc bởi dòng sông Hương, mặt tiền từ cầu Bạch Hổ về đến vùng chợ Đông Ba, Gia Hội, Thế Lại, Bãi Dâu, Phú Mậu. Vùng phía tây và tây bắc được bao bọc bởi sông đào vùng An Hòa và dãy trường thành của Hoàng Cung. Dân số Quận II rất đông vì là trung tâm thương mại của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Dân đông, đất chật, địa thế bị chướng ngại bởi sông và Hoàng Thành ngăn chận, vì vậy khi cộng quân tiến vào Quận II thì quả thật dân chúng đã như nằm trong chiếc lưới cá của bọn chúng rồi, chạy đi đâu thì cũng nằm trong chiếc lưới mà thôi.
Ngoài một số dân chúng làm thương mại, đại đa số cư dân trong vùng là công chức, quân nhân, cảnh sát, cán bộ chính quyền, họ không có nơi an toàn để ẩn nấp hoặc trốn tránh nên hầu như tất cả đều trốn ở nhà. Nhờ có đám chỉ điểm, đoàn An Ninh Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh, tên thợ nề Nguyễn Văn Bé, chủ tịch Khu Phố của chính quyền Cách Mạng mới thành lập, tên thầy bói Diệu Linh, tên Gù bán thuốc cẩm lệ v.v, tất cả bọn chúng giở danh sách, đi từng nhà tìm kiếm, lục soát bắt người hằng loạt. Bắt được, chúng đem ra xử bắn ngay tại chỗ, hoặc đem đi chôn sống. Xin nêu ra một vài trường hợp điển hình hành động giết người của man rợ này:
Cái chết của Thiếu Tá Từ Tôn Kháng. Ông là Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Nhà của Thiếu Tá Từ Tôn Kháng ở trên đường Bạch Đằng gần cầu Đông Ba. Toán An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân sau khi bao vây nhà xong bọn chúng lôi hết vợ con Thiếu Tá Từ Tôn Kháng ra đứng ngoài sân và kêu gọi Thiếu Tá Kháng phải ra nộp mình cho bọn chúng ngay, bằng không bọn chúng sẽ tàn sát hết vợ con của ông ta. Thiếu Tá Kháng trốn trong nhà sợ vợ con bị chúng bắn chết nên phải ra nộp mình.
Bọn chúng trói ông lại bắt đầu tra tấn xẻo tai và cắt mũi ông ta, cuối cùng kết liễu đời ông bằng một loạt đạn AK.
Nhiều nhân chứng nhận diện sau nầy tường thuật với Thiếu Úy Nguyễn Trọng, Trưởng Ban Cảnh Sát Đặc Biệt Quận II Thị xã Huế rằng: Họ nhận diện trong toán bắt bớ, tra tấn, xẻo thịt, và hành quyết Thiếu Tá Từ Tôn Kháng có: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, tên Nguyễn Bé thợ nề, trưởng khu phố, tên thầy bói Diệu Linh, và tên Gù cùng một số khác nữa. Hành động này của các tên Phan, Trinh, Diệu Linh, Bé, Gù có khác gì bọn Polpot Khmer đỏ?
Điều đáng nói ở đây là trong danh sách khát máu trên có tên một đàn bà, Nguyễn Thị Đoan Trinh. Hành động cắt tai xẻo mũi Thiếu Tá Từ Tôn Kháng của y thị y hệt hành động của Lã Hậu đốt tai xẻo mũi Thích Phu Nhân, Thứ Phi của Lưu Bang, quả là lịch sử có một không hai. Cho đến Mậu Thân 1968 thì rõ ràng Nguyễn Thị Đoan Trinh tàn ác cũng không thua gì Lã Hậu.
Tại đường Chi Lăng, bọn chúng bắt hai ông Trần Văn Cư, Phó Giám Đốc CSQG Vùng I, và ông Lê Văn Phú, nguyên Trưởng Phòng Hành Chánh ty Công An Thừa Thiên VNCH, thời điểm đó Ông Lê Văn Phú là Quận Trưởng Quận II Thị xã Huế. Cả hai đều bị bắn chết và chôn ngay trên đường gần nhà.
Ông Vĩnh, sĩ quan CSQG, bị bọn chúng bắn ngay tại nhà ở đường Võ Tánh.
Ông Dự, Trưởng Ty CSQG tỉnh Ninh Thuận(?) về thăm gia đình tại đường Chi Lăng cũng bị bắn chết tại nhà.
Ông Hồ Đắc Cam, nhân viên nhà máy phát điện Kho Rèn, bị bắt và cũng bị bắn ngay tại nhà.
Trần Văn Nớp, phụ tá trưởng phòng hành chánh BCH/CSQG Thừa Thiên, cũng bị bắn tại nhà.
Ông chồng bà bún bò Mụ Rớt là một nhân viên cảnh sát đã ra trình diện bọn chúng, nhưng chúng không tha, xử tử hình ngay.
Danh sách những người bị bắt và bị hành hình có đến trên 800 người thuộc Quận II trong giai đoạn I, kể sao cho hết?
Tôi xin tạm dừng ngay đây.
Về Quận I, tức Quận Thành Nội Thị xã Huế.
Ngay giờ đầu của cuộc tấn công, cộng quân đã chiếm toàn bộ quận Thành Nội, ngoại trừ khu Mang Cá nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh của Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, khu vực Tàn Thơ, khu Hồ Tịnh Tâm.
Các khu khác như Tây Linh, Tây Lộc, phi trường Tây Lộc, dọc đường Cường Để đến trường Trần Cao Vân, khu Hòa Bình Đại Nội, Kỳ Đài, qua cửa Thượng Tứ, khu tòa án, ngã tư Anh Danh ra đến cửa Đông Ba, tất cả đều lọt vào tay cộng quân. Cộng quân chiếm một khu vực quá rộng như vậy nên bọn Công An Khu Ủy Trị Thiên, Công An Tỉnh Thị Ủy Thừa Thiên-Huế phối hợp với các toán An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố củaNguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa (Cha của Nguyễn Thị Đoan Trinh), Tôn Thất Dương Tiềm, Hoàng Văn Giàu, Nguyễn Thiết, cùng với đám cơ sở nằm vùng, và những kẻ chỉ điểm đã gây kinh hoàng chết chóc cho đồng bào quận Thành Nội trong suốt 22 ngày. Số nạn nhân bị bọn nầy giết chết trong giai đoạn I, theo thống kê của Cảnh Sát Đặc Biệt Quận Thành Nội cho biết khoảng gần 700 nạn nhân.
Sau này ty CSQG đã lấy được rất nhiều lời khai của rất nhiều nhân chứng chứng kiến nhiều vụ xử bắn trong Quận I. Xin đơn cử một vài trường hợp giết người man rợ và tàn bạo của bọn chúng như sau:
Một vụ xử bắn xảy ra trong khu vực Quận Thành Nội mà mọi người dân Huế đều biết, nay nhắc lại mọi người vẫn còn kinh tởm.
Đó là vụ Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thiết, Nguyễn Thị Đoan Trinh xử bắn Trần Mậu Tý và chồng của bà thương gia Nội gần cửa Đông Ba vào sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân 1968.
Trong giới học sinh, sinh viên, và những ai đã từng tham gia phong trào Phản Loạn Miền Trung vào mùa xuân, hè năm 1966 ai cũng biết đến các đoàn Sinh Viên Quyết Tử do Nguyễn Đắc Xuân thành lập và chỉ huy. Lực lượng nầy có 3 đại đội, một trong những đại đội trưởng của đoàn Sinh Viên quyết tử nầy là Trần Mậu Tý, bạn chí thân của Nguyễn Đắc Xuân. Khi Nguyễn Đắc Xuân được lệnh tên thủ lãnh phong trào phản loạn Miền Trung Thích Trí Quang đem lực lượng sinh viên quyết tử tăng viện cho lực lượng phản loạn và chùa Tỉnh Hội tại Đà Nẵng, Nguyễn Đắc Xuân đã đem đại đội của Trần Mậu Tý theo, xem như là đại đội chủ lực của Nguyễn Đắc Xuân. Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tý là đôi bạn chí thân tương đắc, giới sinh viên quyết tử của Nguyễn Đắc Xuân thường gọi hai người nầy là “cặp bài trùng”.
Vào cuối tháng 6/1966 khi phong trào phản loạn của sư hổ mang Thích Trí Quang bị chính phủ trung ương dẹp tan, Nguyễn Đắc Xuân từ chùa Ông sau lưng Chùa Diệu Đế chạy trốn lên Chùa Tường Vân đợi giao liên Thành Ủy của điệp viên Trung Tá Hoàng Kim Loan đến đưa lên mật khu, thì người vào ra chùa Tường Vân để giúp đỡ tiếp xúc với Nguyễn Đắc Xuân về mọi mặt không một ai khác hơn là Trần Mậu Tý. Chỉ có Trần Mậu Tý mới có thể vượt vòng vây của CSQG Thừa Thiên-Huế để vào Chùa Tường Vân tiếp xúc với Nguyễn Đắc Xuân được. Cho đến tháng 7/1966 khi giao liên của Thành Ủy đến chùa Tường Vân đưa Nguyễn Đắc Xuân lên mật khu thì cũng có Trần Mậu Tý tháp tùng.
Tình sâu nghĩa nặng như thế, vậy mà ngay sáng ngày Mùng 2 Tết Mậu Thân, khi trận tấn công mới bắt đầu thì công tác đầu tiên của đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu phố của Nguyễn Đắc Xuân là phải bắt cho được Trần Mậu Tý, và… Trần Mậu Tý đã sa lưới Nguyễn Đắc Xuân. Theo như Nguyễn Đắc Xuân tuyên bố ngay khi bắt được Trần Mậu Tý, tội của Trần Mậu Tý là: Đảng viên đảng Đại Việt, tình nghi hợp tác với CIA.

Thế là Trần Mậu Tý bị trói tay cùng với một thương gia tại đường Phan Bội Châu. Ông thương gia này là chồng bà Nội, cũng bị tình nghi là đảng viên đảng Đại Việt. Cả hai người bị Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Thiết đẩy đứng sát vào bờ tường gần cửa Đông Ba. Nguyễn Đắc Xuân là người bắn loạt đạn AK đầu tiên vào người thằng bạn chí thân của mình là Trần Mậu Tý. Kế tiếp y quay mũi súng bắn vào ông thương gia tên Nội. Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Thiết bồi thêm hai băng AK vào thi thể Trần Mậu Tý và ông Nội đang nằm gục nơi góc tường thành. Máu hai người tuôn ra xối xã trước sự chứng kiến của nhiều đồng bào và vợ của ông Nội.
Anh Trần Mậu Tý là con trai độc nhất của Tri Phủ Trần Mậu Trinh, một người nổi tiếng chống cộng triệt để. Anh Trần Mậu Tý là sinh viên Đại Học Huế trong thời gian phong trào phản loạn 1966 của Thích Trí Quang.
Về mặt tình cảm, vì cộng tác bên nhau rất lâu nên Trần Mậu Tý thật sự có cảm tình riêng với Nguyễn Đắc Xuân, đối đãi với Nguyễn Đắc Xuân rất chí tình. Thế nhưng kẻ xung phong xả băng đạn đầu tiên để giết người bạn thân tử tế với mình như bát nước đầy lại là Nguyễn Đắc Xuân. Thế thì, theo lẽ thường tình, Nguyễn Đắc Xuân còn có tư cách gì mà viết chuyện nhân nghĩa ở đời? Đã vậy ngày hôm nay đây y còn lại tự xưng là nhà Huế Học? Nguyễn Đắc Xuân học gì ở Huế và dạy gì về Huế? Ngoài một thành tích giết người, giết bằng hữu không gớm tay? Đất trời nào dung dưỡng cho tên vô nghì Nguyễn Đắc Xuân này?
Trong đám đồ tể tàn sát đồng bào Huế, cần phải nói đi nói lại về tên ma nữ giết người rất tàn bạo, say máu đồng loại y như loài quỷ dữ cần phải có mùi tanh của máu người thì thị mới có thể thở, mới có thể sống đó là Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh.

Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh là sinh viên Dược Khoa Đại Học Sàigòn, trước Tết Mậu Thân y thị được cha là Nguyễn Đóa gọi về Huế để tham gia tắm máu Huế.
Nguyễn Đóa và Tôn Thất Dương Tiềm, con rể của Nguyễn Đóa, là cán bộ nội thành hoạt động cho Cộng sản từ trước 1954. Theo hồ sơ văn khố của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế thì Tôn Thất Dương Tiềm, Lý Kiều, Nguyễn Đóa đã từng hoạt động cho Việt Minh và trong ngày đình chiến 1954, cả 3 đương sự từ vùng Tỉnh Thanh Hóa thuộc liên khu 4 trở vào Huế. Nguyễn Đóa làm giám thị trường Quốc Học, sau là giáo sư trường Bồ Đề, Tôn Thất Dương Tiềm, Lý Kiều, giáo sư trường Trung học Bồ Đề. Cả 3 tái hoạt động trở lại trong ban Trí Vận của cơ quan Thành Ủy Huế, và đều có chân trong phong trào Hòa Bình của Thích Trí Quang, bác sĩ Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ.
Có lẽ Nguyễn Thị Đoan Trinh, con gái của Nguyễn Đóa, có bản chất sát máu tàn bạo của Nguyễn Đóa từ khi y thị còn nằm trong bụng mẹ, bởi vì nếu không, thì tại sao y thị lại có hành động độc ác man rợ còn hơn loài thú dữ với đồng bào hàng xóm láng giềng cùng nơi chôn nhau cắt rốn với mình? Y thị tên là Đoan Trinh nhưng tên lại trái ngược với người, hành động của y thị là của đám man rợ côn đồ khát máu.
Trong suốt thời gian 22 ngày cộng quân chiếm Huế, Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh với bộ đồ màu hồng, vai mang AK 47, lưng mang súng lục, cỡi xe Honda tảo thanh khắp cùng đường phố, từ đường nhỏ đến đường lớn, lùng sục từ quận Thành Nội ra đến Quận II tức Tả Ngạn, sang đến Quận III tức Hữu Ngạn, và ngay cả những vùng giáp ranh thành phố, để bắt bọn “Ngụy quân, Ngụy quyền, Công An, Cảnh Sát Ngụy ác ôn”. Gặp ai thị cũng hỏi giấy tờ tùy thân, nếu đúng là những thành phần quân nhân, công chức, cán bộ chính quyền, cảnh sát quốc gia, y thị không cần hỏi câu thứ hai mà nổ súng bắn chết ngay.
Rất nhiều đồng bào trong các vùng trên là nhân chứng hành động sát nhân tàn bạo của y thị. Điển hình là những vụ giết người tàn bạo dưới đây:
Tại đường Cường Để thuộc vùng Tây Lộc, anh Võ Văn Tửu là phó Thẩm Sát Viên Cảnh sát, đồn trưởng đồn Cảnh Sát Ga, đêm Mùng 2 Tết khi Việt Cộng tấn công, anh Tửu bị kẹt tại nhà. Anh trốn tránh từ nhà nầy sang nhà kia đâu được 7 ngày, qua ngày thứ 8 đang di tản với gia đình thì Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh bất thần xuất hiện, không cần hỏi giấy tờ mà chỉ hỏi:- Ông Tửu Đồn Trưởng đồn Cảnh Sát Ga phải không? - Dạ phải.
Lập tức một loạt AK nổ dòn, ông Võ Văn Tửu gục ngã trước sự bàng hoàng, kinh hãi ngơ ngác của vợ con. Nữ Ma đầu Nguyễn Thị Đoan Trinh lên xe rồ máy chạy xem như chuyện bình thường.
Một trường hợp điển hình thứ hai, Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh giết người tại đường Hàm Nghi vùng giáp ranh Quận III, làng Phủ Cam thuộc Quận Hương Thủy. Bà Thái Hòa vào Mậu Thân 1968 là Sinh Viên Trường Nữ Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Bà Thái Hòa có ba người anh:
Nguyễn Xuân Kính sinh viên Y Khoa
Nguyễn Xuân Lộc sinh viên Luật Khoa và
Nguyễn Thanh Hải sinh viên Văn Khoa
Nguyễn Thanh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn chết ngay tại giảng đường của trường Văn Khoa. Trước đó Nguyễn Thanh Hải và Văn (sinh viên Văn Khoa, bạn của Hải) chạy từ đại học Văn Khoa sang Đại Học Y Khoa để trốn trong phòng thí nghiệm thì bị Hoàng Phủ Ngọc Phan phát giác, bắt Văn và Hải chạy trở về Văn Khoa để tải thương, nhưng khi vừa đến giảng đường Văn Khoa thì bắn ngay Hải. Văn trốn thoát nhờ đang đi vào phòng vệ sinh. Ngay sau đó có tiếng nổ lớn nên bọn Phan và Trinh liền phóng xe chạy mất. Vì vậy mà Văn tạm thoát chết lúc đó. Hai người anh kia là Nguyễn Xuân Lộc và Nguyễn Xuân Kính đang trốn tại nhà. Hoàng Phủ Ngọc Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh bắt bà Thái Hòa và Văn dẫn Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh về nhà bà Thái Hòa tại số 24 đường Hàm Nghi, giáp ranh Quận III và làng Phủ Cam để tìm hai người anh của bà Hòa. Tại đây Ma Nữ Đoan Trinh và Hoàng Phủ Ngọc Phan dùng bà Hòa làm áp lực buộc hai người anh ruột là Kính và Lộc đang trốn trên trần nhà phải xuống trình diện bọn chúng, nếu không thì bọn chúng sẽ bắn bà Hòa. Vì sợ bọn chúng bắn chết em gái mình, Kính và Lộc từ trần nhà tuột xuống chân chưa chạm đất đã bị Phan và Ma Nữ Đoan Trinh nổ súng hạ sát ngay. Ông Nội của hai người nầy là ông Nguyễn Tín, 70 tuổi, thấy hai cháu nội của mình bị bắn chết trước mắt, mất bình tĩnh kêu gào chửi bới Hoàng Phủ Ngọc Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh, liền bị Phan quay mũi súng AK bắn một loạt đạn vào người ông Nguyễn Tín. Ông Tín ngã xuống chết tức tưởi. Sau đó Văn, bạn học của Lộc và Hải xin phép Phan và Trinh được chôn xác bốn ông cháu ở vườn sau, Phan và Trinh nhất quyết không cho. Mãi đến khi xác chết bốc mùi thối rồi chúng mới đồng ý cho Văn đào hố chôn 3 bạn mình Kính, Hải và Lộc và ông Tín. Khi hố chôn vừa đào xong, thây người vừa bỏ xuống thì bà Thái Hòa nghe tiếng súng nổ sau vườn. Bọn Phan và Trinh đã bắn luôn Văn và đạp luôn xuống hố chôn luôn. Thế là 4 người bạn của họ đã chết chung một nấm mồ.
Như vậy bà Thái Hòa đã chứng kiến cả thảy 5 cái chết của người thân và bạn mình do chính Hoàng Phủ Ngọc Phan, và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh là thủ phạm.
Những hành động giết người trên đây của Nguyễn Thị Đoan Trinh, cặp đôi với Hoàng Phủ Ngọc Phan tham gia cắt tai xẻo mũi Thiếu Tá Từ Tôn Kháng chứng minh Nguyễn Thị Đoan Trinh có thể dẫn đầu trong danh sách đàn bà độc ác nhất của lịch sử Việt Nam và có thể sánh ngang hàng với sự độc ác của những người đàn bà khác trên thế giới như Lã Hậu, Từ Hy, Võ Tắc Thiên.
LIÊN THÀNH


Thư của nhân chứng Nguyễn thị Thái Hòa

tố cáo tội ác của CSVN vào tết Mậu Thân 1968 tại Huế

Kính thưa Ông,
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân, như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại Việt Nam không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Việt Gian Cộng sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh, v.v…
Thưa Ông,
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong Bệnh Viện Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương… thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm… Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau. Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, Anh hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới bệnh viện, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và bệnh viện bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng, đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa, v.v…Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong bệnh viện, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính bệnh viện, kề phòng cấp cứu…Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tứ bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của bệnh viện. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của bệnh viện và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha, hai bà xơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tứ bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi, chúng tôi không gặp không thấy bọn Việt Cộng nào nữa, hay chúng đang lẩn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tứ bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy xơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng bệnh viện, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau bệnh viện chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa.
Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau bệnh viện. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau.
Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa, (nhà thờ Phủ Cam) nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán Việt Cộng vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi. Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn. Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn và anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với Hoàng Phủ Ngọc Phan. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải và Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay.
Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiếng súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến Hoàng Phủ Ngọc Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô bệnh viện, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn Khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô bệnh viện cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại.
Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô bệnh viện trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi.
Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau bệnh viện tới sân trường Văn Khoa mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần: em qua bệnh viện kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.
Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu.
Trước đây tôi không hề biết mặt Hoàng Phủ Ngọc Phan, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.
Hoàng Phủ Ngọc Phan to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn Khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng, đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp, hai mắt vẫn còn mở trừng, miệng vẫn còn há ra…
Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô.
Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên.
Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi, qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ Ngọc Phan chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không?
Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là Việt Cộng đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thăng bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn lại xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng Phủ Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tứ bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi, “không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!”
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưỏng khi Hoàng Phủ Ngọc Phan biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội.
Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh.
Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà!…
Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi.
Ông nội đứng im không nói.
Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô?
Ông nội nói tui không biết.
Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được?
Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội.
Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…
Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì Hoàng Phủ Ngọc Phan đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần.
Ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng.
Ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi.
Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi, bắt anh Văn theo.
Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi.
Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên.
Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau.
Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào.
Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.
Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt.
Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuốc xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn.
Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa phân và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa…
Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tứ bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi. Tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.

Thưa ông,
Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù cộng sản.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác Của Việt Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh:
Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946.
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949.
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Maryland, USA. Ngày 15/2/2013
Nguyễn thị Thái Hòa

 

Đăng ngày 12 tháng 02.2018