THẬN TRỌNG
Chân Diện Mục
Các nhà Nho xưa rất thận trọng. Giữ mình ngay cả khi ngồi một mình (thận độc). Thận trọng tới độ ngày nay nhiều người sẽ cho là quá đáng: Thủ khẩu như bình, Phòng ý như thành(giữ miệng mình như giữ miệng bình, giữ ý như giữ thành). Khi viết văn thì các cụ rất ngại, rất sợ! Khôn văn tế, dại văn bia! Vì văn tế thì sẽ đốt ngay, còn văn bia thì… để lại muôn đời (!) (có lẽ đó là văn tế bình thường đối với một người không nổi tiếng… trong làng chăng?) Có lẽ câu này chỉ nói lên nỗi… sợ… e rằng bài viết dở của mình… sẽ “bị“ đời sau xem tới chăng?
Ngày nay người ta học lem nhem (lem nhem như ba lá sách của một con trâu), người ta viết bừa, viết ẩu, cẩu thả. Người ta chẳng có gì, nhưng viết như thùng rỗng kêu to! Viết khoe khoang, nịnh bợ, dối trá… để lấy lòng, lên chức. Khen lẫn nhau để kéo bè kéo cánh… khiến các cụ phải ngậm ngùi than thở! Vậy nên nói điều thận trọng, đả kích thói viết bừa… há chẳng phải là điều nên làm chăng?
Tôi từng nói một vị túc nho, khả kính như cụ Bùi Kỷ. Cụ cực kỳ uyên bác, cực kỳ thận trọng nhưng còn có lúc sơ xuất há không phải để chúng ta thận trọng chăng? Trong Bình Ngô Đại Cáo, thay vì dịch: Nước đê vỡ cuốn phăng đàn kiến, cụ đã dịch là: Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ (Quân ta lúc đó; Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông cũng cạn, nên đã đuổi quân giặc như "cơn gió to trút sạch lá khô", "giòng nước lớn cuốn phăng đàn kiến“). Đàn sau nên lấy đó làm gương, xin đừng viết ẩu tả, bôi bác, láo xược!
Một vị giáo sư Hà Nội chữ nghĩa lem nhem dám bạo gan bình thơ Nguyễn Khuyến thì thật là không biết tự lượng sức! Trong bài Thu Vịnh có câu:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
Ông ta giải: "hoa năm ngoái" là hoa năm ngoái đã héo nay còn đeo trước dậu!!! Ôi,Chẳng có phương pháp sư phạm cao quý nào, chẳng có dày công nghiên cứu Thi pháp nào khiến cho vị giáo sư đó hiểu được Hoa năm ngoái. Người ta còn nói Thu Điếu là Nguyễn Khuyến điếu tang mùa Thu! Uy tín của ông này lớn đến nỗi ngày nay con cháu Nguyễn Khuyến làm hướng dẫn viên đã nói với du khách điều này khi du khách đến thăm di tích Nguyễn Khuyến (!)
Các vị giáo sư hàng đầu đã nói Hồ Xuân Hương yêu Tổng Cóc! Ôi! Một điều sơ đẳng mà không biết: Người ta bôi vôi vào đầu con cóc rồi ném nó đi xa! Hồ xuân Hương đã coi tổng Cóc như loài gớm ghiếc này!!!
Các vị còn phê bình bài Tràng Giang của Huy Cận huy hoàng xanh,rực rỡ vàng, nồng ấm, nồng nàn… thì còn ra thể thống gì nữa! Ôi! Muốn thưởng thức thơ Huy Cận thì hãy đi bộ bên bờ sông vắng lặng, buổi hoàng hôn mà ngâm nga chứ không thể ngồi ở ghế giáo sư hàng đầu mà giải mã. Giải thích, giải mã kiểu này thì không biết các ông đầu ngành, đầu ngọn cái gì?
Cái sự lem nhem, mấp mô,ngổn ngang chữ nghĩa này thật là tức cười khi một vị giáo sư ra câu hỏi trắc nghiệm cho sinh viên: Bài thơ Khiển Hoài của Phạm Ngũ Lão được viết vào thời: Hán, thời Đường, thời Tống…? Đáp án: thời Đường (!) Nhiều vị lên tiếng chê giáo sư đó quá dốt và điên khùng. Phạm ngũ Lão đời Trần mà cũng không biết mà lại còn hỏi tới bốn đời bên Tầu. Tôi thấy vấn đề còn tệ hại hơn dốt. Đó là cách học lóm, nghe hơi nồi chõ, ba chớp ba nháng. Học vội vàng rồi đem ra khoe, đem ra Nổ, đem ra Trộ. Còn tệ hại hơn con vẹt, bởi con vẹt nó chỉ lặp lại nghuyên văn thôi, không nguy hiểm. Đằng này người học chỉ đọc bản phiên âm, hoặc nghe người khác ngâm thoáng qua một lượt rồi học lại. Ôi! Cái tựa đó trùng vời bài Khiển Hoài của Đỗ Mục đời Đường. Hay là ông ta đọc qua câu hỏi của một giáo sư Trung Quốc, và nghe qua bài thơ của Phạm ngũ Lão Việt Nam. Thế là ông ta lấy nửa Tầu, nửa Ta lập ra câu hỏi trắc nghiệm của mình, thật là một kỳ công!
Một vị Giáo Sư nổi tiếng viết: Lê Quý Đôn mô tả Đồng Bằng Nam Bộ mà ông đã “thấy“ đã “đi" qua! Ui chu choa! Cha mẹ ui! Quân Trịnh ở Thuận Hóa qua Hải Vân bị nóng bệnh chết nhiều, đành phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Trưởng là phong chơi! phong cho oai thôi chứ có kiểm soát được đâu! Có phú thuế gì đâu! Trong khi phía nam Nguyễn Nhạc còn đầy nhóc: Nguyễn khoa Thuyên, Tống phước Hiệp, Tống phước Hoà, Nguyễn Ánh, Đỗ thành Nhơn, Võ Nhàn, Võ tánh… vậy Lê quý Đôn vô miền Tây Nam Bộ bằng… trực thăng à???
Các nhà Trí thức, nhà Khảo kíu khoe chữ Tây, chữ U nói: Huỳnh thúc Kháng là trung úy của Phan Chu Trinh, Trần quý Cáp là Trung úy của Phan Bội Châu. Thực ra Lieutenant có nghĩa là trung úy thật nhưng nghĩa gốc của nó là phụ tá, phó. Viết như vậy thì e rằng học sinh cũng thắc mắc. Các lãnh tụ có thành lập quân đội chính quy bao giờ đâu, có ai phong Trung úy, thiếu úy đâu! Người ta còn nói cái thành Xăng Đá (Soldat) ở Biên Hòa do nghĩa quân xây nên để chống Pháp (!)
Hết khoe chữ Tây rồi ngưới ta lại khoe chữ Nho, chữ Phạn nữa mới là báo đời cho chứ! Ở Hoa Lư có cái cột đá Linga bị mưa gió bào mòn lâu đời thành vằn vện như là có chữ. có vị giáo sư nói rằng đó là cột kinh Phật do Đinh Liễn sai khắc bằng một thứ chữ Phạn phiên âm chữ nho (!)(Có lẽ Đinh Liễn cũng khắc tên mình ở dưới bằng chữ Nho phiên âm chữ Phạn chăng ???)
Chữ Nho đâu có dễ học. Đến như cụ Đông Hồ rủng rỉnh chữ Nho đầy bụng mà còn viết bậy, dịch trật nữa kìa! Viết về Hồ Huân Nghiệp cụ Đông Hồ đã hạ:
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi
Một câu xếp chữ lại theo kiểu mô à mô chẳng ra câu, chẳng ra nghĩa! Rồi:
Duy luyến Cao Đường bạch phát thì
(Thương bấy mẹ già (!) tóc bạc phơ)
thật là xốn mắt cho những người biết chữ Nho, bởi mẹ gìa là Huyên Đường không thể là Cao đường được!
Tôi cũng xin nhắn quý vị lem nhem chữ Nho xin đừng chú thích ẩu tả: Trịnh Giang không chết vì bệnh tim đâu! Chữ Tâm là tim ai mà không biết. Học ba phút thì biết liền. Nhưng Tâm cũng là lòng, còn Tâm bịnh, tâm tật không phải là đau tim, đau lòng mà là bệnh điên khùng. Ông Trịnh Giang điên khùng nghe lời Hoàng công Phụ giết hại anh em công thần, dâm dật… chứ không phải ông ta chết vì bệnh tim đâu!
Chữ Nho khó học như thế thì làm sao trước khi ra pháp trường thi sĩ ngâm một bài thơ mà lại có thể truyền lại hậu thế (!) Chúa ơi! Một tên Mã Tà vô học, dẫn người đi chém, nghe một lượt mà có thể nhớ hết bài thơ, nhất là lại bài thơ thất ngôn chữ Hán (?)
Bài hịch vua Quang Trung đánh Tầu được người ta truyền bá một cách thých thú. Sao lại như thế:
Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản
Đánh cho cúng phiến giáp bất hòan
Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ
Quân Tầu đánh Việt Nam có xe cộ gì đâu mà không còn một bánh xe về. Tôi e rằng người viết bảo rằng chúng không còn một cái lòn (yoni) để về. Ôi đã chạy xấc bấc xang bang còn ngồi trên xe bò sao (không có bánh cao su thì xe ngựa làm sao nhanh bằng xe bò), chưa nói tới đường rừng hiểm trở, leo dốc, ngay chỗ bằng phẳng thì xe bò cũng không thể nhanh bằng chạy bộ! Câu: Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ là mạo tác sau này. Cụm từ “Nam Quốc Anh Hùng đủ sức lật tẩy tác giả bài hịch kia. Thời đó chỉ có cá nhân anh hùng, không có Tập thể anh hùng, đất nước anh hùng!
Một điều cần biết là câu văn chữ Nho xưa không có chấm, phết. Chữ Nho không có viết hoa! Một văn bản thời Bình Tây đời Thiệu Trị. Tới chỗ Nhân danh các cụ ghi hai nhân vật: Trà Long Nhâm, Vu La Kiên. có cụ ghi ba nhân vật: Trà Long, Nhâm Vu, La Kiên! Những văn bản có chấm câu thì không phải là văn bản cổ! Xin hãy thận trọng khi đem các văn bản cổ ra chấm câu!
Chữ Tiên Sinh khi thì chỉ một cách xưng hô kính trọng, khi thì chỉ ông thầy dạy (như Phu Tử). Người ta có thể xưng hô Tiên Sinh một người ít tuổi hơn mình. Người Tầu còn gọi một cô giáo mới 20 tuổi là Lão Sư (liẻo sứ) nữa đấy. Phan Thanh Giản gọi Võ trường Toản là phu tử khiến nhiều vị khảo cứu ba chớp nói Phan là học trò Võ. Thực ra thì cụ Võ chết rồi cụ Phan mới ra đời.
Người ta hiểu là cụ Nguyễn đình Chiểu là ông đồ dạy học. Sai bét! Cái người đầu tiên gọi cụ Nguyễn đình Chiểu là ông đồ Chiểu là Phan văn Hùm. Phan văn Hùm là cháu ngoại rể của cụ Chiểu. Nhưng Phan chỉ gọi tôn xưng thế thôi chứ có viết tiểu sử rõ ràng cụ dậy học từ năm nào tới năm nào đâu! Người ta tôn vinh ai thì gọi là ông Nghè, ông Cử, ông Đồ đấy! Như ông nghè Trương gia Mô, ông Cử Đa ở Long Xuyên. Tôi quả quyết là cụ Nguyễn Đình Chiểu không thể nào dạy học được! Chữ Nho có đánh vần được đâu! Làm sao mà học trò mô tả chữ đó để thầy dạy đọc rồi giảng nghĩa được. Thầy ngồi trên phản, học trò bò dưới đất giơ quyển lên hỏi: Thưa thầy chữ gì?. Bị khuất cái cột, thầy nói khuất cái cột tao không trông thấy. Trò bèn bỏ tập xuống học hoài chữ: "Khuất cái cột tao không trông thấy". Chao ôi! Học kiểu đó thì ông thầy mù làm sao dạy được!
Viết sử không thể mâu thuẫn, tuỳ tiện, khoa trương, thêu dệt…
Trận chiến bị bại không thể viết thành thắng
Nếu không thể lấy lực sĩ chuyên nghiệp đấu với sinh viên nước ngoài thì cũng không thể lấy gà chiếp ta đấu với gà trống Tầu rồi nói là mình thắng. Sao có thể viết ông Giang văn Minh đi sứ tầu làm thơ chửi giữa triều đình nước Tầu. Viết như vậy để nuôi khí thế ta sao?. Viết đến đây tôi lại nghĩ đến cái tật của trí thức ta, làm gì cũng phải cho nó… khí thế!
Một ông Tiến Sĩ văn hay chữ tốt, vẽ giỏi. Một hôm ông ta vẽ hai con trâu chọi nhau, ông vẽ hai cái đuôi vểnh lên. Một em bé chăn trâu đi qua vỗ tay cười ngất. Trật lất rồi ông Nghè ơi!, trâu chọi nhau thì cái đuôi nó cụp xuống!. Thế mới hay, mấy ông tai to mặt lớn làm gì cũng muốn cho nó khí thế mà không biết rằng: không phải cứ vểnh đuôi lên là khí thế đâu!!!
18 - Giêng - Năm Khỉ
Chân Diện Mục
18 – Giêng – Năm Khỉ