Kháng thư của Hội đồng Liên Tôn Việt Nam:

BÁC BỎ HOÀN TOÀN LUẬT TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO

 

Source: Anh Ba Sàm

Posted on: 2016-10-22

Hội đồng Liên tôn

Kính gởi:

– Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước.
– Quý Chức sắc và Tín đồ mọi Tôn giáo tại Việt Nam.
– Quý Cơ quan Nhân quyền Quốc tế.
Trong khóa họp từ ngày 20-10-2016, Quốc hội Cộng sản Việt Nam có thể sẽ phê chuẩn Dự luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà Ban Tôn giáo Chính phủ đã phác thảo nhiều lần từ đầu năm 2015 tới nay. Luật này đúc kết kinh nghiệm đối phó với các Giáo hội kể từ Pháp lệnh Tôn giáo năm 2004, nâng cao mức độ cưỡng bức của chính sách đàn áp tôn giáo từ nhà cầm quyền, và đáp ứng mưu đồ kiểm soát chặt hơn đối với các Giáo hội đang ngày càng tích cực đòi hỏi các quyền tự do cho mình và cho Dân.
Nhiều Tổ chức Tôn giáo lẫn Dân sự và nhiều cá nhân trong lẫn ngoài nước đã đóng góp ý kiến vào các dự thảo (mà nhà cầm quyền CS đã liên tục đưa ra về Luật ấy), trong ước vọng làm cho nó mang tính cách văn minh và dân chủ hơn.
Riêng Hội đồng Liên tôn chúng tôi -quy tụ nhiều chức sắc của 5 Tôn giáo lớn có mục đích tranh đấu cho Tự do Tôn giáo và Dân chủ Nhân quyền tại Việt Nam- hoàn toàn bác bỏ Luật Tín ngưỡng Tôn giáo sắp ban hành, vì những lý do như sau:
1- Chế độ cai trị hiện thời tại Việt Nam là chế độ cộng sản với hai tính chất nổi bật: vô thần và toàn trị. Vô thần cộng sản là vô thần tranh đấu, quyết tâm xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Tôn giáo trên xã hội khi hoàn toàn bất lực xóa bỏ sự hiện hữu của Tôn giáo trong quốc gia. Toàn trị là kiểm soát, lũng đoạn để công cụ hóa mọi cá nhân và tập thể, mọi tổ chức và định chế, mọi thế lực và ảnh hưởng, mà đặc biệt là thế lực tôn giáo và ảnh hưởng tâm linh, để đảng cộng sản muôn năm lãnh đạo và nhà nước cộng sản muôn năm cai trị.
2- Mọi luật lệ xuất phát từ chế độ độc tài toàn trị cộng sản đều không ngoài mục đích kiểm soát, lũng đoạn và công cụ hóa nói trên. Nên cho dù có đưa ra cho toàn thể nhân dân, mọi giai tầng xã hội đóng góp ý kiến cho có vẻ dân chủ, rốt cuộc đảng và nhà cầm quyền cộng sản vẫn biên soạn các luật lệ (từ cao xuống thấp) hoàn toàn theo ý muốn độc đoán của họ và hoàn toàn nhằm mục đích tối hậu của họ: củng cố chế độ độc tài đảng trị. Hiến pháp 2013 là ví dụ rõ nhất. Luật Tín ngưỡng Tôn giáo cũng không nằm ngoài ý đồ thâm độc này.
3- Mọi Giáo hội đều là những Tổ chức xã hội dân sự độc lập và mọi Tín đồ đều là những công dân bình đẳng. Họ có các quyền và nghĩa vụ như mọi tổ chức và mọi công dân khác. Những quyền và nghĩa vụ này được xác định trong Hiến pháp và các bản văn dưới luật hình thành theo tinh thần tự do dân chủ, phù hợp với các Công ước quốc tế về Nhân quyền.
Thành ra một luật riêng cho các Giáo hội và cho các Tín đồ là chẳng hề cần thiết, là trắng trợn kỳ thị, bộc lộ não trạng coi Tôn giáo như kẻ thù và chủ ý coi Tôn giáo cần phải bị chế ngự. Tại các nước dân chủ văn minh, chỉ có những thỏa ước giữa chính phủ và một Giáo hội nào đó về đất đai tài sản hay văn hóa giáo dục chẳng hạn.
4- Mọi văn kiện pháp lý của nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay về Tôn giáo, kể từ Sắc lệnh Tôn giáo năm 1955, Nghị quyết 297 năm 1997, Pháp lệnh về Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2004 tới Luật Tín ngưỡng Tôn giáo sắp ban hành, tất cả đều không ngoài mục đích dùng bạo lực hành chánh -kết hợp với bạo lực vũ khí- để cướp đoạt mọi tài sản tinh thần (các quyền tự do) và tài sản vật chất (đất đai, cơ sở) của các Giáo hội, để sách nhiễu, bắt bớ, cầm tù, thậm chí thủ tiêu nhiều chức sắc và tín đồ can đảm (mãi cho tới hôm nay), nhằm làm cho các Thực thể Tinh thần vô cùng cần thiết và cực kỳ hữu ích cho xã hội này bị tê liệt hoạt động, bị cản trở sứ mạng, thậm chí bị biến đổi bản chất. Hậu quả là xã hội Việt Nam ngày càng tràn ngập bạo hành và gian dối, ngày càng suy đồi về văn hóa và đạo đức, kéo theo suy đồi các lãnh vực khác nữa.

Kết luận:
Chính vì thế, trong tư cách những nhà lãnh đạo tinh thần đang đấu tranh cho tự do độc lập của Tôn giáo cũng như cho Nhân quyền và Dân quyền của Đồng bào, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ toàn văn và mọi điều khoản Luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà đảng và nhà cầm quyền cộng sản sắp dùng công cụ Quốc hội để ban hành rồi áp đặt. Nó là một văn kiện pháp lý không thể có và không được có trong thế giới loài người văn minh, nhân bản và dân chủ. Chúng tôi thấy các Tôn giáo và các Tín hữu chẳng có nghĩa vụ phải chấp hành nó.
Khoác vào ách tròng cổ đó là liều mình tự đánh mất danh dự của một con người có phẩm giá, của một cộng đồng sống đức tin, là chấp nhận được thí ban những Tự do Tôn giáo phụ tùy (xây dựng cơ sở, tổ chức lễ hội, đi ra nước ngoài…) và bị tước đoạt những Tự do Tôn giáo cơ bản (độc lập trong điều hành, tự quyền trong sinh hoạt, truyền đạo ra xã hội, giáo dục thanh thiếu niên, có phương tiện truyền thông riêng, có tín đồ tham gia hàng lãnh đạo chính trị…). Chấp nhận Luật Tín ngưỡng Tôn giáo là tiếp tục góp phần dung dưỡng chế độ vô thần độc tài toàn trị !
Việt Nam ngày 20-10-2016, ngày Quốc hội CS khởi sự họp bàn phê chuẩn Luật Tín ngưỡng Tôn giáo.

Các Thành viên trong Hội đồng Liên tôn Việt Nam đồng ký tên.
Cao đài: – Chánh trị sự Hứa Phi (điện thoại: 0163.3273.240)
– Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (điện thoại: 0988.971.117)
– Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (điện thoại: 0988.477.719)
Công giáo:
– Linh mục Ta-đê-ô Nguyễn Văn Lý (điện thoại: 0932211438)
– Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi (điện thoại: 0984.236.371)
– Linh mục Giu-se Đinh Hữu Thoại (điện thoại: 0935.569.205)
– Linh mục An-tôn Lê Ngọc Thanh (điện thoại: 0993.598.820)
– Linh mục Phao-lô Lê Xuân Lộc (điện thoại: 0122.596.9335)
– Linh mục Giu-se Nguyễn Công Bình (điện thoại: 01692498463)
Phật giáo:
– Hòa thượng Thích Không Tánh (điện thoại: 0165.6789.881)
– Thượng tọa Thích Viên Hỷ (điện thoại: 0937.777.312)
– Thượng tọa Thích Đồng Minh (điện thoại: 0933.738.591)
– Thượng tọa Thích Vĩnh Phước (điện thoại: 0969.992.087)
– Thượng tọa Thích Đức Minh (điện thoại: 0165.348.2276)
Phật giáo Hoà hảo:
– Ông Nguyễn Văn Điền (điện thoại: 0122.870.7160)
– Ông Lê Quang Hiển (điện thoại: 0167.292.1234)
– Ông Lê Văn Sóc (điện thoại: 096.4199.039)
– Ông Phan Tấn Hòa (điện thoại: 0162.6301.082)
– Ông Tống Văn Chính (điện thoại: 0163.574.5430)
– Ông Bùi Văn Luốc (điện thoại: 0169.612.9094)
– Ông Hà Văn Duy Hồ (điện thoại 012.33.77.29.29).
– Ông Trần Văn Quang (điện thoại 0169.303.22.77)
Tin lành:
– Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (điện thoại: 0121.9460.045)
– Mục sư Đinh Uỷ (điện thoại: 0163.5847.464)
– Mục sư Đinh Thanh Trường (điện thoại: 0120.2352.348)
– Mục sư Nguyễn Trung Tôn (điện thoại: 0162.838.7716)
– Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (điện thoại: 0906.342.908)



Hà Tĩnh: Tượng Đức Mẹ bị đập phá

Source: Dân Làm Báo
Posted on: 2016-10-22


Một viên CA thường phục bị người dân bắt sống tại hiện trường

CTV Danlambao - Một đoạn video clip phổ biến trên facebook Bạch Hồng Quyền cho thấy cảnh xô xát dữ dội giữa người dân Đông Yên và lực lượng công an, cơ động và mật vụ của nhà cầm quyền vào lúc 17 giờ chiều hôm nay, 22/10/2016. Nguyên nhân vụ việc được người dân cho biết, lực lượng khoảng 100 gồm cảnh sát cơ động, công an, mật vụ và những người mặc đồ công nhân đến đập phá trụ gạch mà người dân Đông Yên xây dựng để làm tòa Đức Mẹ Maria.
Mục đích xây dựng tòa Đức Mẹ mà người dân cho biết là để những ai không đi lễ được thì ra tòa Đức Mẹ để cầu nguyện. Xin được nhắc lại vụ việc trước đó, vào tháng 03/2015, nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh đã cưỡng chế người dân cũng như đập phá nhà thờ Đông Yên để giao đất cho Công ty gang thép Hưng Nghiệp thuộc tập đoàn Formosa xây dựng nhà máy thép. Sau đó người dân Đông Yên buộc phải di dời đến nơi tái định cư.
Một giáo dân Đông Yên cho biết là cách đây hai ngày, nhiều cán bộ đã đến hạch hỏi người dân về việc xây dựng tòa Đức Mẹ. Sau hai lần hạch hỏi trước thì đến chiều nay nhà cầm quyện huyện Kỳ Anh, Kỳ Phương tỉnh Hà Tĩnh đã kéo lực lượng đến đập phá trụ gạch đang xây của người dân.

Sau khi người dân phát hiện, lực lượng cảnh sát cơ động, côn an và mật vụ đã dùng đá ném vào phía người dân, khiến chị Mai Thị Hương và một giáo dân Đông Yên bị thương ở sóng mũi và dập chân.
Ngay sau, đó người dân Đông Yên đã báo động, rất đông người đã dùng gạch đã ném lại. Cuối cùng, lực lượng của nhà cầm quyền huyện Kỳ Anh, Kỳ Phương đã rút lui trước sự phản ứng quyết liệt của người dân.

Hiện trường vụ việc sau vụ xô xát cho thấy, trụ gạch đang xây dở dang của người dân đã bị đập bể móng và xô đổ. Một chiếc xe ô tô 4 chỗ đã bị giữ lại, nếu không có sự can ngăn của anh Bạch Hồng Quyền thì chiếc ô tô này đã bị người dân tức giận đập phá. Khoảng 1 tiếng sau đó, nhiều người dân Đông Yên đã dùng dây thừng để dựng lại trụ gạch mà họ đang xây dở dang.
Có thể nói vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam đang bị cộng sản vô thần đàn áp mạnh mẽ từ Bắc chí Nam. Sự việc vừa xảy ra tại khu tái định cư Đông Yên là một minh chứng cho thấy sự ngang ngược vô đối của cộng sản.



Bà con giáo dân Đông Yên xây dựng tòa Đức Mẹ cũng chỉ vì họ muốn cầu nguyện, họ muốn bình an nội tâm với đức tin tín ngưỡng của họ. Hơn nữa chính cộng sản Hà Tĩnh đã đập ngội nhà thờ của họ và di dời họ đến một nơi xa xôi, không nhà thờ, thì việc xây dựng một tòa đài Đức Mẹ như thế là một việc cần thiết cho đới sống tâm linh của họ. Họ không vi phạm luật tín ngưỡng mà pháp luật ban hành.
Đất nước Việt Nam với rất nhiều tượng đài ngàn tỷ được xây từ tiền thuế của dân và cũng chẳng một lần họp bàn với dân, thử hỏi những tượng đài đó có cần thiết phải xây dựng không. Có cần phải chi tới số tiền hàng ngàn tỷ không.
CTV Danlambao

danlambaovn.blogspot.com



CUỘC TRÒ CHUYỆN BẤT NGỜ

Author: Người Việt Tự do

Source: Bảo Vệ Cờ Vàng

– A lô, xin lỗi cho cháu được nói chuyện với chú "nguoiviettudo"
- Tôi đây
- Dạ thưa chú, cháu là độc giả những bài viết của chú. Tình cờ cháu có số ĐT nầy nên gọi chú hôm nay. Xin chú khoan cúp máy, xin hãy nghe cháu trình bày rồi sau đó chú cúp cũng còn kịp. Cháu tên NTNL năm nay hai mươi bốn tuổi hiện theo học cao học kinh tế. Như cháu vừa trình bày cháu đã đọc hết những bài viết của chú , cháu mong chú giải đáp cho một vài thắc mắc mà cháu tin chú sẽ trả lời được…
- Cô quê quán ở đâu?
- Dạ cháu sinh ra và lớn lên ở Saigon, quận Năm…
- May quá!
- Thưa chú nói " may quá " nghĩa là sao ạ?
- Tôi nói thế vì nếu cô trả lời cô sinh ra ở TPHCM thì tôi sẽ cắt điện thoại ngay. Cô chắc không phải VC . Xin lỗi ông thân sinh của cô năm nay được bao nhiêu ?
- Dạ ba cháu khoảng trên dưới năm mươi.
- Vậy thì cô phải gọi tôi là bác vì đứa em út của tôi lớn hơn ba cô vài tuổi.
- Dạ con xin lỗi bác. Thật ra con cũng là VC bác ơi. Ông nội con và hai người anh của ba con đều là liệt sĩ, còn ba con đang làm việc trên quận …Hồi còn học tiểu và trung học con cũng rất hãnh diện mình thuộc gia đình có công với cách mạng, hưởng nhiều quyền lợi và ưu tiên. Hết bậc trung học tuổi mới lớn tò mò, con và mấy đứa bạn lén vào internet đọc tin tức, bài viết, nhờ vậy tụi con phát giác nhiều điều mà nhà trường không dạy .
Tình cờ con tìm ra những bài viết của bác, nên hôm nay con đánh bạo muốn hỏi bác vài điều về lịch sử . Con mê đọc lắm, nhưng càng đọc càng tò mò muốn tìm hiểu nhiều hơn mà chẳng ai giúp được. Ngày Ba Mươi tháng Tư Bảy Mươi Lăm ba con lúc đó mới chừng hơn mười tuổi nên ba cũng chẳng biết gì nhiều. Vậy bác có giúp được con không hả bác?
- Hóa ra cháu cũng là VC con nhà nòi hả? Nhưng tôi hứa sẽ giải thích những gì tôi biết , không thêm không bớt và nhất là không bóp méo lịch sử. Tôi cũng cảm ơn cháu bởi vì cháu không gọi cái ngày đau thương đó là " ngày giải phóng " như nhiều người sống bên nầy vẫn còn lầm lẫn .
- Dạ, giải phóng gì bác ơi, mặc dù gia đình con được hưởng nhiều bổng lộc của chế độ nhưng con rất dị ứng với mấy ông cán bộ VC. Một phần mấy ổng không có trình độ , phần khác mấy ổng ăn tham quá. Cũng nhờ chơi đám bạn cùng tánh tò mò, tụi con hay tụm nhau đọc báo nước ngoài nên mới biết được nhiều chuyện động trời. Cái gì của VNCH cũng xấu hết, mấy ông ở ngoài Bắc nói vậy mà. Mấy ông còn nói ông Ngô Đình Diệm là tay sai cho Mỹ rước Mỹ vào miền Nam để nô lệ hoá dân miền Nam. Chuyện đó thật không bác? Ông Diệm là người như thế nào và VNCH dưới thời ông Diệm ra sao? Có đói kém như sách vở ngoài Bắc viết không hả bác?
– Về vấn đề này cháu cũng phải cẩn thận tìm đọc tài liệu viết bởi những tác giả uy tín, trung thực và khách quan, bởi vì ông Diệm không phải là thần thánh nên chắc chắn cũng mắc phải sai lầm và người ưa kẻ ghét. Phần tôi tôi sẽ kể cho cháu nghe vài mẩu chuyện rồi cháu tự tìm ra kết luận cho mình.
* Nếu cháu đọc nhiều chắc biết quân đội Mỹ đặt chân lên miền Nam vào năm 1965 và ông Diệm thì bị sát hại gần cuối năm 1963. Vậy làm sao ông Diệm rước Mỹ vào VNCH được?
*Chuyện thứ hai : chắc cháu biết Tân Gia Ba mà bọn trẻ trong nước bây giờ gọi tắt là Sing? Cháu cũng biết ông thủ tướng Lý Quang Diệu người đã biến đảo quốc nhỏ bé này thành giàu mạnh và sạch sẽ nhất Đông Nam Á? chính ông Lý Quang Diệu đã bày tỏ niềm ao ước Tân Gia Ba trở nên như VNCH sau chuyến thăm viếng thời ông Diệm. Cháu cũng biết mỹ từ " Hòn Ngọc Viễn Đông " ám chỉ Saigon ? Nó bắt nguồn từ đó nếu tôi nhớ không sai.
* Còn chuyện này thì nhân vật chính là tôi: hồi chừng năm sáu tuổi tôi có lượm được tờ giấy bạc một đồng bị rách phân nửa. Tôi bước vào cửa tiệm ông già Tàu bán chạp phô cách nhà tôi vài căn. Tôi rụt rè đưa cho ông phần tờ tiền màu xanh chính giữa có vòng tròn trắng (tôi vẫn còn nhớ tới bây giờ). Ông già không nói không rằng thu lấy rồi đưa cho tôi ba cục kẹo bự bằng ngón tay trỏ. Ba cục kẹo giá năm cắc. Tờ giấy bạc vẫn giá trị dù chỉ còn phân nửa.
Tôi chưa từng gặp ông Diệm bởi vì lúc đó chưa có TV (hay smart phone). Nhưng đó là những gì đã xảy ra trong nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Mặc dù bị thảm sát hơn năm mươi năm, hiện nay hàng năm các hội đoàn trên thế giới vẫn cử hành ngày giỗ ông. Nếu ông là người không tốt chắc chẳng ai thèm nhớ tới (tưởng niệm) làm gì. Cháu hãy tiếp tục đọc và tìm hiểu bởi vì tài liệu hình ảnh thời đó đầy rẫy trên internet.
- Bác ơi mấy ổng nói ông Diệm lê máy chém và chặt đầu cả ngàn chiến sĩ cách mạng…
- Ông Diệm làm được như vậy thì đỡ biết mấy!!
- Cháu cũng đoán VC nói dóc về gia đình TT NĐD, về ông Nhu ông Cẩn và đặc biệt bà Nhu. Cháu có đọc mấy bài viết về bà ấy , cháu rất nể phục nhất là cái vụ bà tranh đấu cho nữ quyền. Bà đẹp, còn trẻ mà chịu ở vậy thờ chồng nuôi con có mấy người làm được?
- Thời đó là tuổi con nít đẹp nhất của lớp tụi tôi…
- Rồi sau nầy ra sao hả bác?
- Sau này tới thời ông Thiệu lúc đó Mỹ đã có mặt trên miền Nam.
- Con đi học mấy thầy cô giáo dạy là ông Thiệu làm tay sai bán nước cho Mỹ. Hết ông Diệm rồi tới ông Thiệu ai cũng tay sai hết trơn. Sự thực là thế nào hả bác?
- Cứ nghĩ như vầy: nhà một người nào đó bị cháy, bất cứ thứ gì có thể dập lửa chủ nhà đều chụp lấy kể cả có khi là cái bô nước tiểu của đứa con út ba tuổi đặt dưới giường. Cũng vậy, VNCH đang sống yên bình no ấm bỗng dưng bị phía ngoài kia gởi quân vào quấy phá giết người đốt nhà, lại còn huấn luyện đám địa phương nổi lên làm thổ phỉ, theo cháu lúc đó mà Zim Ba Bu Ê ở Phi Châu chịu giúp đỡ khí tài quân sự và nhân sự liệu cháu có chụp lấy để tự vệ (và biết ơn) không? tình hình ở miền Nam như vậy đó. Không thể chế tạo vũ khí, không thể lo liệu chu toàn kinh tế vì tất cả (lực lượng lao động chính) đều phải nhập ngũ, ai giúp được, ngoại trừ người Mỹ. Dĩ nhiên người Mỹ họ không làm từ thiện nên họ cũng có những yêu sách của họ. Đó là thế kẹt của VNCH…
- Rồi vậy mình phải làm tay sai cho Mỹ sao? Mấy ổng nói lính VNCH cầm súng Mỹ để bảo vệ Mỹ, đỡ đạn chết thay cho Mỹ, điều đó đúng không bác?
- Không, lính VNCH chỉ bảo vệ Tổ Quốc và đồng bào mình. Hồi đó Mỹ và VNCH có hệ thống chỉ huy riêng, không ai dẫm chân lên nhau. Cố vấn khi đi với linh VNCH lúc đầu cũng lo, nhưng riết rồi họ cảm phục tinh thần chiến đấu chịu đựng và cuối cùng thì "mê". Lính VNCH đâu có được phục vụ tiếp tế như Mỹ, nhưng nói về sức chiến đấu thì thuộc bậc thầy. Nhiều cố vấn sau này trở thành danh tướng vẫn nhớ về những ngày hành quân với "mấy thằng cha ăn cơm chan nước mắm, uống suối ven đường". Chẳng hạn ông Thiếu Tá cố vấn Nhảy dù cho Trung Tá Ngô quang Trưởng (sau này là Đại tướng chỉ huy chiến dịch Bão Sa Mạc) vẫn tấm tắc ngợi khen tài điều quân của vị TĐT Nhảy dù VN. Hoặc ông cố vấn Tiểu Đoàn 2 TQLC (sau này là đại tướng TQLC Mỹ) vẫn hồi tưởng những phút giây hành quân với "Trâu Điên"... Nhiều lắm cháu ơi. Quan hệ của họ là quan hệ đồng đội, huynh đệ chi binh trên chiến trường.
- Mấy ông phía miền Bắc tuyên truyền là lính VNCH sợ Mỹ như cha, con cũng nghi nghi mấy ổng nói dóc…
- Để tôi kể cháu nghe chuyện này mà những người cỡ tuổi tôi đều nhớ rõ. Hồi đó ông Thiếu Tá Nguyễn Viết Cần, Tiểu Đoàn Trường TĐ 11 Nhảy Dù về hậu cứ ở vườn Tao Đàn dưỡng quân. Ông đi ăn với sĩ quan TĐ trong một nhà hàng. Hai thằng QC Mỹ hống hách đòi coi giấy tờ của ông. Ông rút súng bắn chết tươi cả hai về tội hỗn láo đối với một sĩ quan cao cấp của QLVNCH . Lính TĐ 11 nghe tin, chất đầy hai xe Jeep chạy đến hộ tống ổng. Đây là chuyện có thật đã đăng trên báo chí thời đó. Sợ Mỹ hay không cháu cứ suy ra thì biết. Hai thằng ngu phải bỏ xác chỉ vì cố tình bước qua lằn ranh cấm.
Lính mình hay quá hả bác? Còn thời ông Thiệu thì sao? Ông Thiệu làm Tổng Thống như thế nào? mấy ông Bắc Kỳ nói ông Thiệu hèn nhát, tham nhũng, thiếu tinh thần lãnh đạo, bác giải thích cho con biết với.
-Cảm ơn cháu đã gọi lính VNCH là "lính mình" . Hồi xưa dân trong vùng chiến trận khi thấy quân phục kaki và nón sắt đều liều mạng mà chạy về phía đó, vừa chạy vừa la "lính mình tới, lính mình tới…".
Câu hỏi về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của cháu tôi có thể trả lời như sau: ông Thiệu là người lãnh đạo duy nhất ở miền Nam hiểu tận tường VC. Chỉ câu "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm" đã chứng minh điều đó. Mà hiểu rõ VC và muốn chống cộng hiệu quả thì không thể hèn nhát, tham nhũng. Ông Thiệu có tài nhưng cô đơn vì ôm đồm nhiều quá, ông cũng không có nhiều đồng minh. Phó của ông mà còn chứa chấp che chở cho VC Huỳnh Tấn Mẫm và đám đàn em SVHS, Thủ Tướng của ông thì chỉ biết ngậm miệng ăn tiền… làm thế nào một mình ông có thể lèo lái thành công?
- Bác có vẻ bênh vực ông Thiệu, cháu đọc báo nước ngoài có rất nhiều tác giả lên án ông.
- Thứ nhất: những ai lên án ông Thiệu khi ông đã ngã ngựa thì chắc không phải khách quan, thậm chí còn hèn nữa. Sao không làm điều đó lúc ông đương quyền hoặc khi ông vẫn tại thế? Thứ hai: tôi không ưa ông Thiệu và từng tham gia biểu tình chống lại vấn đề tham nhũng lính ma lính kiểng... Nhưng như tôi đã nói, một mình ông không thể lèo lái công việc chống cộng hiệu quả nếu những người chung quanh không hợp tác. Cho đến giờ phút này vẫn chưa ai đưa ra được chứng cớ thuyết phục để tố cáo ông Thiệu tham nhũng. Toàn là những lời đồn đại như vụ mấy chục tấn vàng. Tôi cũng cho điểm âm về tình hình xáo trộn thời Đệ Nhị Cộng Hoà, nhưng ít nhất khi cần thiết ông sẵn sàng có mặt bên cạnh chiến sĩ bất chấp nguy hiểm. Ông Thiệu dám đi thăm An Lộc ngay khi tiếng súng vừa dứt. VC pháo kích ngày hôm đó rất gần chỗ ông rời trực thăng.
Hiểu tường tận về VC, can đảm đi vào chiến trường để động viên binh lính, ông Thiệu không khờ khạo mà tham nhũng bè phái, tự phá nát những thành quả ông đã xây dựng. Rất có thể VC và "kẻ thù cùng phe" lũng đoạn rồi cố tình đổ vấy cho ông.
- Bác nói nghe chí lý , mấy ông Bắc kỳ vẫn tố cáo ông Thiệu lấy mấy chục tấn vàng làm của riêng, sau này mới lòi ra tác giả chôm chỉa là VC. Còn vụ trốn quân dịch, lính ma lính kiểng là sao hả bác?
- Có, đó cũng là một trong những lý do tuổi trẻ chúng tôi biểu tình đã đảo ông Thiệu. Bạn bè anh em chết ngoài trận nhiều quá trong khi vẫn có những thằng khỏe mạnh nhởn nhơ chơi bời ăn nhậu. VNCH dân chủ quá cho nên ca nhạc sĩ hèn nhát tự do xúi thanh niên đào thoát chiến tranh bằng những tác phẩm sặc mùi chết chóc chiến bại. Như Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, như Phạm Duy cứ ‘Em hỏi anh, em hỏi anh…" suốt ngày trên đài phát thanh quân đội. Thanh niên không nản lòng sao được.
- Hèn gì VNCH sụp đổ mau quá vì toàn bị đâm sau lưng . Rồi khi ông Thiệu từ chức thì vị Tổng Thống thứ ba của VNCH là Trần Văn Hương , bác kể con nghe một chút đi?
- Tổng Thống Trần Văn Hương là hình mẫu của một trượng phu sĩ khí miền Nam. Gần ngày 30/4/75 cả Mỹ lẫn Pháp đều ngỏ lời muốn đưa ông ra nước ngoài nhưng ông đều từ chối. Nguyên nhân: ông không hèn nhát bỏ quân dân đã và đang đổ máu bảo vệ Tổ Quốc. Sau này VC bày đặt rình rang làm lễ trả lại quyền công dân cho ông để tuyên truyền, ông đã khẳng khái từ chối. Ông nói: còn biết bao người chưa phục hồi trong khi mình là Tổng Thống của họ thì coi sao được. Người ta ít viết về ông nhưng theo tôi ông là vị Tổng Thống được kính trọng nhất chỉ sau TT Ngô Đình Diệm.
- Con cũng đọc nhiều bài ở nước ngoài về vị Tổng Thống cuối cùng Dương Văn Minh của các tác giả người Việt. Sao ai cũng lên án ông hết trơn…
- Đối với ông nầy hãy để Lịch sử luận công và tội một cách trung thực. Còn quá sớm để vội vàng. Riêng ý kiến tôi thì DVM không phải là một nhà chính trị và cũng không nên nhảy ra làm chính trị!
- Bác ơi con đọc hết những bài viết của bác trong đó có bài "I have a dream" kể chuyện một bác sĩ VN chế ra thuốc trị AIDS nhờ quan sát con dê đực, con cười quá chừng. Nhưng cũng có những bài viết khác con đọc mà chảy nước mắt, chẳng hạn như bài "Tôi gọi họ là những Anh hùng" nói về bác Trung tá Cảnh sát Nguyễn Văn Long, bác Trung sĩ Trần Minh và nhất là bác Binh nhì Hồ Đức Tâm. Những chuyện đó có thật không bác? Tại sao các bác đó lại phải chết vậy? Còn chuyện bác Thiếu úy Huỳnh Văn Thái và bảy bác Nhảy dù nữa. Con đọc mà chảy nước mắt, cứ ngạc nhiên tại sao các bác ấy lại tự sát. Con hiểu không nỗi bác ơi!
- Những chuyện đó có thật! Thực ra thì chẳng ngạc nhiên nếu cháu biết được người lính VNCH sống chết vì cái gì. Quan trọng nhất đối với họ là Tổ Quốc rồi đến Trách Nhiệm, Danh Dự. Ngày 30/4/75 Tổ Quốc bị "Tử Trận" lính VNCH tự quy kết mình đã không làm tròn Trách Nhiệm (mặc dù không phải như thế) cho nên chỉ còn cách tự sát để đền tội và bảo vệ Danh Dự người lính.
Ở VN cháu biết ông Nguyễn Hữu Cầu chớ, người được coi là Người tù xuyên thế kỷ. Ông kể chuyện đã nghe nhiều anh em trên đường về Nam kể lại từng nhóm ngồi chung chia nhau trái lựu đạn. "Tự tử hôn mậy!" câu hỏi giản dị giữa những người lính VNCH lúc đó. Cháu đọc nhiều chắc cũng biết ông Nelson Mandela ở Nam Phi người bị tù gần ba chục năm, tuy nhiên so với ông Cầu thì vẫn còn thua xa: thua cả thời gian ngồi khám lẫn sự đối đãi. Ông Nelson còn được ăn uống chăm sóc sức khỏe tử tế chứ còn ông Cầu ngày ra tù mắt muốn mù, bệnh tật đủ thứ.
- Nhưng mà tại sao chỉ có lính tự sát sau ngày 30/4 vậy bác? con không thấy người dân nào…
- Có chứ, dân tự sát không bằng súng, họ tự sát tập thể đâu phải chỉ vài người. Họ vượt biên! Gần nửa triệu người bán mạng ngoài biển trên những chiếc thuyền nhỏ nhoi ọp ẹp, hoặc chết đói chết khát trong rừng làm mồi cho thú dữ…
– Sao đất nước dân tộc mình khổ dữ vậy bác?
- Cái đó cháu phải Email lên hỏi ông Trời!
- Hồi đi học tiểu và trung học con cứ tưởng VN rừng vàng biển bạc chỉ vì Mỹ Ngụy mà nghèo đi. Hóa ra dân miền Nam họ sợ hãi VC dữ vậy hả bác? Con nghe nói trên đường nếu gặp hải tặc coi như xong. Tụi nó hãm hiếp giết chết quẳng xuống biển, rồi còn cá mập nữa. Cứ tưởng tượng tới đó là con rùng mình. Vậy mà bao nhiêu người chết chỉ vì tự do.
- Bởi vậy nhắc tới VC là ai cũng nổi da gà… xin lỗi cháu, tôi không có ý ám chỉ…
- Bây giờ con đâu phải VC nữa bác! Hồi còn nhỏ thì có, con nghĩ ông nội và hai bác con sống lại chắc cũng tham gia biểu tình chống VC.
- Để con kể bác nghe chuyện này, hôm đó con mở laptop đọc bài "Tôi gọi họ là những Anh Hùng" của bác. Giữa chừng con phải đi công chuyện quên tắt máy, tới hồi về con hết hồn thấy ba con đang ngồi đọc. Con sợ quá bỏ trốn sang nhà bạn tới tối mới về. Con cứ dòm chừng ba coi ông có nói gì không mà chẳng thấy động tĩnh. Con đánh bạo hỏi "Con xin lỗi ba đã làm ba buồn…", ba con chỉ cười và nói "con lớn rồi đâu còn năm ba tuổi mà bắt buộc được đầu óc tìm tòi của con". "Vậy ba nghĩ sao, chuyện có thật như thế không?" con hỏi, ba trầm ngâm "Làm Tướng làm Tá phải như mấy ông này, cẩn thận nghe con, ba không muốn con vương vào vòng tù tội đâu". Vậy ba con có còn là VC không bác?
- Đó cũng là một nét son thời ông Thiệu, ông đã thăng cấp xứng đáng cho những anh hùng. Chưa thấy quân đội nào khi thua trận lại tuẫn tiết nhiều tướng lãnh như VNCH. Năm ông Tướng và bao nhiêu sĩ quan cao cấp khác kể cả binh nhì.
- Còn câu chuyện của cháu kể về ba cũng hơi lạ, sao con không hỏi thẳng ba trong một dịp rảnh rỗi nào đó. Vậy má con đâu?
- Má mất hồi con mới sáu tuổi, ba ở vậy nuôi con, cho nên con không bao giờ muốn ba buồn. Con sợ ba la con vì đọc "website phản động" … Nếu ba không muốn, chắc con cũng sẽ hy sinh tính tò mò để làm vui lòng ba. Phần các bác bao giờ các bác sẽ "trở về nhà"?
- Ý cháu là…
- Là về VN!
- Điều đó tùy thuộc vào các cháu trẻ, nếu các cháu hành động như tuổi trẻ Hồng Kông mà đạp đổ được chế độ VC chúng tôi sẽ trở về.
- Con muốn lắm bác ơi, có điều hơi sợ. Thời buổi nầy vàng thau lẫn lộn không biết ai thật ai giả. Con cũng lén ba đi biểu tình mấy lần mà vẫn còn run. Con sợ bị bẫy như bài viết cảnh tỉnh của anh Đặng Chí Hùng về một nữ nội gián VC giả danh phản kháng. Lỡ bị gài bẫy rơi vào tay an ninh chắc chết. Hồi đó tụi con cũng tổ chức tuyệt thực nhóm ở nhà của đứa bạn nhằm cầu nguyện cho mấy ông Điếu Cày và luật sư CHHV. Sau nầy tụi con vỡ mộng!
Con cũng mong chế độ nầy mau sụp đổ để mình có một nước VN mới xứng đáng với giòng máu kiêu hùng của cha ông. Lúc đó chắc chắn những nhà lãnh đạo sẽ không phải CS hay kể cả cảm tình viên CS, cũng không phải những ông bà bỏ của chạy lấy người giờ huyênh hoang khoe khoang đủ chuyện. Lãnh đạo mới của tụi con phải như anh Đặng Chí Hùng, anh Nguyễn Viết Dũng, những người trẻ một lòng một dạ với Tổ Quốc Non Sông Đồng Bào Dân Tộc. Bác có biết anh Nguyễn Viết Dũng không bác, người hùng của tụi con đó. Bị ở tù vì treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, mặc quân phục của QLVNCH. Ra tù còn dám xâm lên tay "Sát Cộng". Bởi vậy cuộc biểu tình nào có anh là đám con gái tụi con rủ nhau tham gia…
-Có, tôi biết Nguyễn Viết Dũng, tôi cũng coi đoạn Tube về cuộc đối đáp giữa nhóm bạn trẻ của Dũng với một anh VC già còn ngu về việc đốt nến theo mẫu cờ Vàng trong nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Dũng đối đáp rất điềm tĩnh và ngạo nghễ, xưng danh VNCH một cách tự tin và mạnh mẽ. Dũng có tầm thế của một người lãnh đạo trẻ trong tương lai. Các cháu nhìn không lầm đâu. Còn Đặng Chí Hùng thi khỏi phải bàn. Ước gì sẽ càng ngày càng có nhiều Đặng Chí Hùng và Nguyễn Viết Dũng trong giới trẻ các cháu.
- Sẳn đây con muốn nhờ bác một chuyện: bác là nhà văn chắc bác biết các bác Vương Mộng Long, Lê Đắc Lực, Tô Văn Cấp mà tụi con gọi là những người văn võ song toàn. Bác Long là Thiếu Tá, bác Lực là Đại Úy, bác Cấp cũng vậy. Các bác vừa là sĩ quan cao cấp mà viết văn hay như vậy thì gọi là văn võ song toàn đâu có sai hả bác. Con nhờ bác có dịp gặp gỡ chuyển lời ái mộ của tụi con đến với các bác trên. Con rất thích đọc nhưng con cũng có một tật xấu là nếu chuyện không hay, không hấp dẫn con chỉ lướt qua phần đầu và phần cuối. Riêng bác Long bác Lực bác Cấp con đọc không sót một dấu chấm, dấu phẩy. Các bác là lính mà văn chương không nhuốm mùi máu me ghê rợn, đọc như lời kể chuyện, không giống kiểu của mấy ông mấy bà miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Chuyện nào cũng "giết cho hả căm thù" cũng "bắn một phát ba bốn thằng Mỹ Ngụy ngã gục" . Tụi con là con gái mà, đâu thích bắn giết máu me…
- À cái này còn phải xét lại, tôi không phải nhà văn, chỉ viết để chuyển tải suy nghĩ của mình tới những người muốn đọc. Tôi cũng chỉ viết vào cuối tuần vì còn phải đi cày kiếm cơm. Tôi biết Thiếu Tá Vương Mộng Long, Đại Úy Lê Đắc Lực, Đại Úy Tô Văn Cấp trên báo thành ra không biết làm sao để giúp cháu. Hy vọng các vị ấy sẽ đọc được bài này mà cảm nhận tình cảm của các cháu dành cho. Không chỉ các cháu ở VN, bên này người ái mộ mấy ổng đếm không hết, tôi cũng là một big fan của mấy ổng. Nhà văn quân đội sau 30/4/75 ở nước ngoài cháu cố gắng mà tìm đọc để hiếu ít nhiều về những gì xảy ra cho thế hệ cha ông.
- Hôm nay nói chuyện với bác con học được vô số. Con sẽ khoe với mấy đứa bạn chắc tụi nó ganh dữ lắm. Bác ơi, vậy lần sau có cuộc gọi của con bác bắt máy không?
- Bắt chớ, rõ ràng cháu không phải VC, an ninh mạng, đối thoại thì cởi mở hứng thú, nhất là giải thích được phần nào lịch sử nước mình cho các cháu rất đáng cho tôi làm mà.
- Con cảm ơn bác.
- Bác cũng cảm ơn con.

Phần viết thêm:
Tôi nhờ người tìm kiếm và đã xác định NTNL là có thật. Cô gái xinh xắn sống với người cha trong một căn nhà bề thế. Cô vẫn còn đang đi học như lời kể. Nghĩa là NTNL không phải bẫy gài được dựng lên.
Tôi nợ cháu một lời xin lỗi (vì cúp máy sớm quá, chưa kịp nói). Tôi tưởng tuổi trẻ ở VN chỉ biết mê thần tượng Kim Chi hay suốt ngày đắm mình vào những trò giải trí ru ngủ của VC nhằm làm đui mù, liệt kháng tinh thần giới trẻ trong nước.
Hóa ra tôi lầm! giữa đống bùn vẫn có những đóa sen trổi dậy!!
Xin ơn trên phù hộ chở che cho các cháu.

25-09-2016

nguoiviettudo
http://bacaytruc.com


Tản mạn về Quê tôi

Mai Thanh Truyết

Đã lâu lắm rồi, tôi có… một đêm không ngủ. Câu chuyện đã xảy ra vào một ngày… năm 2008, sau khi làm xong 30 phút Hội luận với Ls Nguyễn Hoàng Duyên ở một đài phát thanh trên San Jose. Thông thường, sau khi vào giường ngủ, đọc năm ba trang sách là tôi…lang thang… đi về Việt Nam ngay trong giấc mộng.
Nhưng tối hôm đó thì không!
Sau khi đọc xong quyển sách của anh bạn Lê Tấn Lộc, Montréal vừa tặng cho, tôi đã tắt đèn từ lâu, nhưng không tài nào chợp mắt được. Tôi không ngủ được vì những hình ảnh xa xưa của anh bạn Lộc của tôi, mặc dù quá tuổi thất thập rồi, nhưng anh vẫn còn khả năng ghi lại những hình ảnh kỷ niệm của vùng quê của anh ở Vĩnh Long, của ngôi trường anh đã học, của mái nhà người thầy dạy anh đờn và đóng kịch Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo… thậm chí còn ghi lại vài mối tình quê thời còn là học sinh.
Trí óc tôi vẫn mãi quay cuồng trong bao hình ảnh của bè bạn khắp nơi sau hơn 30 năm với “làng văn trân bút”, những hình ảnh về quê “tôi” của các bạn văn. Nào là Nguyên Nhung dù có quê ở tận miền Bắc xa xôi, nhưng vẫn nhận một góc Cần Thơ là quê mình. Những bài viết nhẹ nhàng tả lại lối mòn trong xóm, bà bán quán chạp phô đầu ngõ, cùng những “giây phút” chạnh lòng trong vài mối tình thưở học trò.
Nào là cô em Tiểu Thu ở tận Montréal mà cũng còn nhớ vanh vách về vùng quê Vĩnh Long của mình, với bao kỷ niệm đầu đời, chiều chiều đạp xe nhìn về …phía xa xăm hay nhìn mong ngóng ai đó(?). (ghi nhận là TT có nói với tôi đó là “hư cấu” chứ không phải ”chiện” thiệt! mà hư cấu hay không cũng là kỷ niệm phải không TT, có anh Thành làm chứng đó!)
Nào là anh bạn thầy giáo của tôi Nguyễn Lộc Thọ trên Đặc san Hậu Nghĩa, hãnh diện nói về vùng quê Đức Hòa đầy Việt Cộng của mình. Nói lên để hoài niệm để cho bà con cô bác mình vẫn còn một quê, có một quê. Bạn Thọ nói về Đức Hòa có Xóm “Quế” (Huế) làm nón lá do cha Bình mang nhiều gia đình Huế về khi chuyển về làm giám mục ở đây.
Lại một cô em Ngọc Dung, Vancouver, dù gốc gác ở tận miền Bắc, nhưng cô em vẫn thường hay viết lại kỷ niệm về quê Đà Lạt ngày xưa trong các bài viết, kể lại kỷ niệm trên đường Ngô Tùng Châu về hướng Lữ quán Thanh Niên và bưu điện, kể lại Cà phê Tùng năm xưa…và dĩ nhiên một vài vấn vương xưa trong cái không khí lãng mạn sương mù Đà Lạt trên đường đi đến Trại Hầm hay quanh bờ hồ Xuân Hương…
Và còn nhiều bạn bè khác viết ra đây không hết, ai cũng hơn một lần viết và nói về quê mình…
Còn tôi!
Nếu ai có hỏi quê tôi ở đâu?
Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn là “quê tôi ở Hậu Nghĩa” mà thôi. Và nếu có hỏi thêm nữa, tôi cũng chỉ có thể nói thêm là tôi sanh trưởng tại ấp Bàu Trai, làng Tân Phú Thượng, quận Đức Hòa, tỉnh Cholon (giấy khai sanh bằng tiếng Pháp viết chữ Chợ Lớn ra như vậy, và tôi chỉ thấy một lần một, từ lâu lắm rồi, đâu chừng 60 năm về trước).
Có một chuyện mà tôi nghe kể lại trong một lần họp mặt Gia đình Hậu Nghĩa tại Nam Cali, Cựu Tỉnh trường Hậu Nghĩa, Đại tá Tôn Thấn Soạn đã vạch mặt trò giả mạo “địa đao Củ Chi” của CS Bắc Việt năm nào.
Hậu Nghĩa là một tỉnh cũ ở Nam phần Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh này tồn tại từ năm 1963 đến 1976. Tỉnh được thành lập theo Sắc lệnh số 124-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 15/10/1963, từ phần đất tách ra của các tỉnh Long An, Gia ĐịnhTây Ninh. Tỉnh lỵ đặt tại Bàu Trai, gọi là thị xã Khiêm Cương. Tỉnh gồm 4 quận (24 xã): Củ Chi, Đức Hòa, Đức HuệTrảng Bàng. Dân số năm 1965 là 176.148 người, năm 1974 tăng lên 232.664 người.
Vào tháng 2 năm 1976, tỉnh bị “khai tử” do CS Bắc Việt và các phần đất được chia cho ba tỉnh lân cận. Quận Trảng Bàng sáp nhập vào tỉnh Tây Ninh, Củ Chi sáp nhập với quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương thành huyện Củ Chi nhập vào thành phố Hồ Chí Minh, còn hai quận Đức Huệ và Đức Hòa nhập vào tỉnh Long An.
Theo lời anh chị tôi kể và sau nầy đọc sách báo thêm, quê tôi đã nhiều lần thay tên đổi họ, từ tỉnh Chợ Lớn rồi Long An, và sau cùng là Hậu Nghĩa dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Tỉnh lỵ Hậu Nghĩa gọi là Khiêm Cương chính là ngôi làng nơi sanh tôi ra. Do đó, tỉnh lỵ rất nhỏ so với các quận như Đức Hòa, Hiệp Hòa, Củ Chi, và Đức Huệ…những vùng đất làm cho biết bao nhiêu cô nhi quả phụ phải trả giá rất đắt kể cả mạng sống trong cuộc chiến do CS Bắc Việt gây ra trong suốt 20 năm.
Tôi đã biết về quê tôi chừng đó mà thôi.
Xin đừng hỏi nữa vì tôi sẽ không biết trả lời sao?
Chính vì thế mà tôi không hề viết gì về quê nhà cả, ngoài một kỷ niệm còn vương vất trong trí óc của tôi mãi đến ngày hôm nay, kỷ niệm của một thời…Việt Minh vùng dậy, đốt thôn xóm, xử tử nhiều người dân mộc mạc, chất phác vào những năm 44,45 trong đó có Ba tôi.
Theo lời Má tôi kể lại khi tôi chưa đầy 3 tuổi, Ba tôi đã bị trói thúc ké cạnh bụi chuối bên hông nhà. Lệnh xử tử được đọc ra là vì Ba tôi là “Việt gian” và là địa chủ, có con gửi theo học trường Pháp dưới Sài Gòn, nói tiếng Pháp với lính Tây đóng ở đầu làng…, có nuôi ngựa đua và thi đua ở trường đua Phú Thọ v.v…Ba tôi bị bắn ngã gục xuống.
“Họ” tưởng chết rồi, đốt nhà, cướp của… rồi đi.
Từ đó gia đình tôi trôi giạt xuống Sài Gòn đêm hôm đó và Ba tôi được cứu sống.
Và tôi chỉ trở về thăm quê tôi một lần một và chỉ một lần một mà thôi sau “giải phóng” (?) vào năm 1976, để nhìn thấy mồ mã của Ba Má tôi lần đầu cũng là lần cuối cho đến khi phải đành đoạn lìa xa quê cha đất tổ vì cơ chế chuyên chính vô sản của những người không còn chút điểm lương tri của… loài người.
Đó là những gì tôi biết về quê tôi, nơi chôn nhau cắt rún, nơi an nghĩ của những người thân yêu nhứt đời của tôi. Nói như vậy để thấy rằng tôi là một con người tệ bạc, không có một hình ảnh quê nhà nào trong đầu, không giữ được tình quê, tình xóm giềng quê cũ!
Vì vậy cho nên, cứ mỗi lần đọc một bài viết ghi lại những dấu ấn của quê mình do các bạn văn, lòng tôi chùng xuống. Tôi không có được may mắn như các bạn để có thể viết về quê mình. Và đó cũng là lý do tôi mất ngủ tối hôm đó vì một vài câu thơ tình con cóc của lứa tuổi học trò ở quê của anh bạn Lộc Montreal của tôi.
Hởi những người Việt tha hương của tôi ơi!
Các bạn có bao giờ có những ý nghĩ của một người không hình dung được nơi chôn nhau cắt rún của mình không?
Có giống như tôi đây không?
Các bạn có bao giờ có những giây phút chạnh lòng như thế nầy bên ly cà phế đắng không?
Một mình trên bàn giấy trong sở làm, nơi tôi viết lên những dòng chữ trên đây, nơi tôi trải qua suốt 17 năm trời. Không một ngăn kéo nào mà tôi không biết chứa đựng những hồ sơ gì cho công việc của tôi? Không một góc cạnh củ kỹ nào trong căn phòng mà tôi không biết có những vết trầy vết nứt. Chiếc computer cũ xưa tôi vẫn giữ để xài không chịu thay để cho “chạy mau” hơn vì nơi đây ghi nhận những suy nghĩ của tôi trong những năm dài.
17 năm trường, một thời gian quá dài ở một căn phòng quen thuộc hàng ngày để tôi có thể in lại tất cả những gì chất chứa trong phòng mà tôi hiện diện mỗi ngày từ 5,6 giờ sáng. Đây chính là nơi tôi trang trải, chia sẻ với bè bạn khắp nơi về những suy nghĩ của một người con Việt về những vấn đề Việt Nam.
Thế mà, về quê tôi, tôi chỉ biết mù mờ…Tội nghiệp cho tôi không các bạn?
Có bao giờ bạn nghĩ, bạn sẽ mất quê khi bạn bị tách rời ra khỏi nguồn cội khi sống ly hương?
Có bao giờ bạn nghĩ, hồn quê luôn luôn ở bên cạnh bạn dù bạn không hề nhắc đến hay nghĩ đến?
Ý nghĩ viết về quê tôi, dù cho một lần như hôm nay, tôi cũng chỉ có chừng đó để chia sẻ cùng bạn mà thôi. Hình ảnh quê nhà thì mờ mờ ảo ảo…nhưng tôi vẫn tin rằng hồn quê nơi tôi đã khắc sâu từ trong vô thức, chỉ cần một sát na nào đó, chỉ cần một khơi dậy nào đó, hồn quê sẽ cuồn cuộn chảy vào tâm khảm chúng ta.
Các bạn ơi!
Qua những dòng tản mạn trên đây tôi muốn nhắn gửi tới các bạn rằng, dù ở một nơi xa xôi nào trên quả địa cầu nầy. dù bạn bị tách rời khỏi quê cha đất tổ, sống tha phương nhưng “không cầu thực”, nhưng hồn quê của bạn vẫn dai dẳng trong lòng bạn, trong tâm trí bạn.
Hồn quê đã ẩn tàng trong tận sâu thẳm của tâm hồn bạn.
Bạn không sống gần QUÊ, trong QUÊ, nhưng QUÊ vẫn có trong bạn.
Hồn Quê vẫn sống trong tiềm thức của bạn.
Hồn Quê tôi muốn nói nơi đây, chính là HỒN NƯỚC đó bạn ạ!
HỒN NƯỚC đang réo gọi chúng ta mau về dựng lại bức dư đồ rách do những người vô tâm đang dày xéo Đất và Nước chúng ta.
Tôi sẽ không nói như anh bạn Chu Tấn của tôi như:
“Cúi đầu tạ với quê hương,
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”
Mà là:
Ngẩng đầu hẹn với quê cha,
Tôi còn đởm lược xây nhà Việt Nam.

Ts Mai Thanh Truyết
Viết cho Tuổi trẻ Việt Nam – 2016


Những giọt nước mắt rơi trên nỗi đau

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Vào thế kỷ thứ 15, bọn con buôn Tây Ban Nha bắt cóc người Phi Châu, rồi chở họ đem bán cho Tân Thế Giới làm nô lệ. Người nô lệ da đen bắt đầu vào Hoa Kỳ từ năm 1696. Thảm cảnh người nô lệ da đen kéo dài kiếp sống nông nô trong các đồn điền miền nam Hoa Kỳ là địa ngục trần gian, nó thách thức lương tâm người Mỹ chân chính và họ phải chấp nhận nội chiến để giải quyết vấn nạn của lương tâm.

Vào cuối thập niên của Thế kỷ thứ 19, vua nước Bỉ là “King Leopold II” dùng quân đội đi săn lùng dân bản xứ “Congo” làm nô lệ, cạo mủ cao su hoang dã trong rừng cho đến khi kiệt sức và cứ thế hàng hàng lớp lớp người nằm xuống. Khoảng 10 triệu người đã chết trong rừng núi hoang dã. Ông ta thu được một tài sản khổng lồ trên xương máu của người nô lệ Congo. Hannah Arendt viết trong cuốn: “The Origins of Totaliarianmism”(Những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị) đưa ra con số phỏng đoán là 12 triệu người Congo đã chết. Khi Mobutu Sese Seko trị vì từ năm 1965-1997, đổi tên nước là Zaire và đòi đất nước trả ơn ông ta là 4 tỷ USD, hơn mấy lần tài sản của vua Bỉ Leopold II vào lúc đó. Bạo chúa Mobutu, gia đình và đám viên chức cận thần trong chính quyền thối nát đã vắt cạn kiệt sinh lực của xứ sở họ còn thê thảm hơn thời kỳ 80 năm dưới chế độ thực dân thuộc địa. Hình thức buôn nô lệ vào Thế kỷ 21 vẫn còn tồn tại ở nước VNCS dưới hình thức buôn nô lệ kiểu mới, thủ đoạn bóc lột sức người lao động nghèo tinh vi hơn, tàn nhẫn hơn, ĐCSVN gọi đó là “xuất khẩu lao động”. Con người được xuất khẩu ra nước ngoài làm nô lệ không cần phải đông lạnh như con tôm, con cá. Xuất khẩu lao động được ĐCSVN xem là một quốc sách, một “cơ hội vàng” để tập đoàn Mafia CSVN vắt cạn kiệt sinh lực đất nước còn dã man và tàn nhẫn hơn cả vua Bỉ King Leopold II & tập đoàn gia đình trị Mobutu Sese Seko. Ngày 6/12/2012, dưới sự chủ trì của Phó chủ tịch Hoàng Ngọc Thanh - Tổng Liên đoàn Lao Động VN (TLĐLĐVN) - tổ chức Hội Nghị Tổng kết 4 năm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục... Mục tiêu của “Đề án 3” do chính phủ giao cho TLĐLĐVN là đến hết năm 2012, phải phấn đấu đạt chỉ tiêu 70% tức 4 triệu công nhân xuất khẩu lao động.

Theo báo cáo của Tổ chức Walk Free Foundation, “The Global Slavery Index 2013”thì Việt Nam có người VN được xem là nô lệ. Tổ chức WFF hy vọng việc công bố bản báo cáo nầy sẽ giúp các nước nghèo theo dõi và giải quyết nạn nô lệ thời hiện đại mà tổ chức nầy gọi là một “Tội ác được bao che”. Nô lệ thời hiện đại là hình thức nô lệ kiểu xa xưa, cộng với những thảm cảnh lao động khổ sai để trừ nợ, ép buộc những cuộc hôn nhân, buôn bán trẻ em, buôn người và lao động cưỡng bách. Theo RFA đưa tin ngày 1/11/2013, tổng số người lao động VN được xuất khẩu đi làm nô lệ ở nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2013 là 70.200 người. Như vậy, con số trên đã gần đạt ngưỡng 80.000 như mục tiêu do ĐCSVN đặt ra. Chỉ riêng trong tháng 10 đã có gần 7.500 lao động được xuất khẩu. Trong năm 2012, VN đã gởi đi tổng cộng xuất khẩu khoảng 80.000 lao động làm việc tại các thị trường châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia chiếm đến 70%. Theo Cục Quản lý Lao động nước ngoài, hiện tại có tới 4.500.000 người VN bị xuất khẩu đang làm nô lệ ở 100 quốc gia khác nhau. Ngược lại, có khoảng trên 1.000.000 công nhân Tàu khựa sang VN làm lao động chui... ĐCSVN rất phấn khởi vào WTO, xem như cơ hội bằng vàng cho XKLĐ ồ ạt ra nước ngoài làm nô lệ để kiếm ngoại tệ. Năm 2004, các doanh nghiệp đã xuất khẩu được 67.000 lao động (vượt chỉ tiêu 7.000 người), hàng năm con số tăng dần đến mức độ chóng mặt là 4.500.000 có mặt trên 100 quốc gia khác nhau.

Đối với ĐCSVN, việc xuất khẩu lao động là một hình thức kinh doanh “không cần vốn”, một dịch vụ vô cùng béo bở nên Đảng và Nhà nước CSVN quyết liệt bám chặt lấy để khai thác và bóc lột xương máu mồ hôi và nước mắt của giai cấp công, nông dân Việt Nam trên địa bàn toàn quốc một cách khốc liệt. Thủ đoạn gian ác của bọn đầu gấu lãnh đạo ĐCSVN còn xảo quyệt và tinh vi hơn gắp mấy lần Vua Bỉ Leopold II và bạo chúa Mobutu. Xương máu của người nghèo khổ VN đang bị vắt cạn kiệt dưới ba tầng áp bức và bóc lột dưới chế độ CSVN. Bởi chế độ độc tài toàn trị bất lực vì quốc nạn tham nhũng hết thuốc chữa, không còn khả năng lãnh đạo trong việc quản trị đất nước, không tạo nỗi công ăn việc làm cho người dân trong nước, nên người nghèo nào cũng muốn bán sức lao động làm việc cho các công ty hãng xưởng nước ngoài và đều phải miễn cưỡng chịu chi một khoảng tiền hối lộ cho các cơ quan chính quyền liên hệ và bọn môi giới, bọn cò mồi mới giành được một chỗ bán thân, tình nguyện đi làm nô lệ xứ người. Cục Quản lý Lao Động với nước ngoài trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội chuyên lo dịch vụ XKLĐ. Ngoài ra, một nghiệp vụ XKLĐ của QĐNDVN cũng rất quan trọng, nó trực thuộc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc Phòng. Bạo quyền CSVN là bọn “ngồi mát ăn bát vàng” vừa ăn hối lộ, vừa thâu lợi nhuận từ các hợp đồng XKLĐ với các đối tác nước ngoài, vừa ăn chận đô la của người XKLĐ từ nước ngoài gởi về. Các công ty nước ngoài thuê mướn XKLĐ phải trả 40% cho nhà nước CSVN và 10% cho công ty môi giới. Thí dụ: Mức lương của một người XKLĐ tại Hàn Quốc là 600 USD/tháng. Sau khi trừ hết chi phí, phần còn lại là 300 USD. Trung bình một người công nhân lao động muốn bán thân làm nô lệ cho các công ty nước ngoài, họ phải làm việc ít nhất 2 năm mới trả hết số nợ vay lúc ban đầu, năm thứ ba mới có lợi nhuận thì hợp đồng sắp hết hạn. Hiện nay, Đảng & Nhà nước CSVN mở hết công suất hệ thống tuyên truyền, cơ quan tín dụng khuyến khích và động viên công nhân & nông dân nghèo vay tiền để làm thủ tục đi XKLĐ, làm bùng lên phong trào cực kỳ quy mô, săn lùng người lao động trong tình trạng thất nghiệp, không có công ăn việc làm, còn nông dân bị bọn cường hào ác bá địa phương cướp hết điền sản nên không còn đất cày. Chiến dịch săn lùng XKLĐ được phát triển rầm rộ như hiện nay, còn hơn cả thời bọn thực dân Tây Ban Nha săn đuổi người nô lệ da đen vào thế kỷ 15 & 16 để bán qua Tân Thế Giới. Tính đến cuối năm 2012, trên toàn quốc đã thành lập “40 Tổ Tư vấn Pháp Luật”, có “154 doanh nghiệp” nhà nước chuyên làm dịch vụ XKLĐ và mạng lưới có trên “1.000 chi nhánh” hoạt động trên 45 tỉnh, thành phố... kinh doanh trên xương máu, mồ hôi và nước mắt của những người cùng khổ một cách tàn nhẫn. Trong 4 năm qua (2009-2012), Tổng LĐLĐVN hỗ trợ kinh phí thành lập 40 tổ Tư vấn Pháp luật tại một số địa phương có đông công nhân lao động nghèo, sống trong các khu công nhân, khu cư xá ổ chuột... các tổ tư vấn lao động này phối hợp với công nhân tự quản khu nhà trọ để tuyên truyền pháp luật và quyền lợi cho công nhân vào giờ tan ca, giờ nghỉ trưa hoặc tại khu nhà trọ... điều quan trọng là cán bộ tư vấn pháp luật, vận động chủ nhân các hãng xưởng, cho họ tiếp xúc với giới công nhân lao động ngay tại cơ sở sản xuất. Qua đó, lựa chọn thời điểm thích hợp để tập hợp các công nhân lao động để giải thích chính sách XKLĐ của Nhà nước và giải đáp những thắc mắc nếu có. Một trong những hoạt động tuyên truyền phổ biến của Tổng LĐLĐVN là hướng dẫn thành lập các tổ “công nhân tự quản”. Tính đến năm 2012, theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có trên 3.000 tổ công nhân tự quản đang hoạt động. Riêng tại Sài Gòn có trên 2.400 tổ. Thông qua các tổ công nhân tự quản, khu nhà trọ, phối hợp với công an khu vực, các ngành nghề tổ chức, các hoạt động tuyên truyền pháp luật cho công nhân XKLĐ tại các địa phương có đông công nhân lao động.

Công nhân XKLĐ đi làm nô lệ xứ người bị ngược đãi tàn tệ: Chính những người XKLĐ này là nhân chứng, chứng kiến cảnh bị đày ải như nô lệ của nhau và đã được bày tỏ để cảnh báo những người nào muốn bán thân đi làm nô lệ xứ người. Sau đây chỉ là những trường hợp điển hình.

Nam Hàn: Các công ty Nam Hàn chỉ sử dụng công dân VN vào các ngành hóa chất độc hại để bảo vệ sức khỏe cho công nhân bản xứ. Ngành công nghiệp đó gọi là 3D:“Difficult - Dirty - Dangerous” (khó khăn- dơ bẩn - nguy hiểm). Cực nhọc và nhục nhã nhất là làm phu trên các tàu đánh cá của họ. Họ phải làm quần quật liên tục từ 24 tới 36 tiếng và chỉ nghỉ được 4 tới 5 tiếng. Nếu làm việc liên tục 48 tiếng thì được nghỉ 6 tiếng. Khủng khiếp nhất là làm việc từ 13 tới 16 tiếng liên tục trong các hầm nước đá lạnh dưới -60 độ âm. Có người chịu không nổi phải sặc máu mũi, máu họng trào ra tại hầm nước đá. Ngoài ra, các tên “cọp rằn” dữ dằn như cọp, lúc nào cũng lăm le gậy sắt, sẵn sàng đập, quất vào những người nô lệ Việt Nam không thương xót. Chắc hẳn chúng ta chưa quên vụ chủ hảng may “Darwoosa” của Đại Hàn trên đảo Samoa trước đây đã bị chánh phủ Hoa Kỳ bỏ tù vì quịt lương của 250 thợ VN và đánh đập, giam giữ trái phép, bớt khẩu phần ăn và chỗ ở cho công nhân VN theo tiêu chuẩn súc vật.

Mã Lai: Vô địch man rợ nhất, có lẽ thuộc về công ty Yikon Jenellry Industry ở Malaysia. Trong lúc đang làm việc, 3 nữ công nhân VN tên Nguyễn Thị Sữa, Trần Thị Điểm và Hồ Ngọc Dương bị một nhóm người quản lý của Yikon gọi lên phòng làm việc. Sau đó dùng hành động bạo lực, túm tóc lôi kéo, đánh vào mặt, đạp vào ngực bụng, có người bị đánh đến ngất xỉu rồi mới gọi cảnh sát tới áp giải, đưa ra sân bay trục xuất về VN, mà trên người chỉ có một bộ đồ công nhân đang mặc mà thôi. Lý do, họ chỉ yêu cầu tăng thêm giờ để bảo đảm thu nhập mà họ bị ép vào tội đình công. Không thấy công ty XKLĐ tên Sovilaco (Quận 3) giải quyết quyền lợi và sứ quán VN tại Malaysia không dám lên tiếng phản đối để giúp công nhân XKLĐ khiếu nại chủ hãng Yikon. Vô trách nhiệm đến thế là cùng vì tiền thầy đã bỏ túi, còn sống chết mặc bây! Hiện nay, có khoảng trên 120.000 công nhân XKLĐ Việt Nam đang lao động theo hợp đồng tại xứ sở man rợ này. Ngay khi đặt chân tới phi trường, mọi giấy tờ tùy thân của họ đều bị tịch thu; vì vậy, trong thời gian làm việc, nhiều công nhân VN bị chủ nhân Mã Lai tha hồ đánh đập họ tàn nhẫn như súc vật, bỏ đói, khủng bố tinh thần, sách nhiễu tình dục. Ngoài ra, giới chủ nhân còn khất nợ, cuối cùng quịt nợ bằng cách sa thải họ không có lý do, rồi mới báo cho cảnh sát. Theo luật tại Malaysia, các công nhân không có giấy tờ tùy thân sẽ thành những người cư trú bất hợp pháp và sẽ bị trục xuất trong 24 giờ nên họ không cách nào khiếu kiện bọn chủ nhân mọi rợ để đòi lương. Tờ The Star của Malaysia số ra tháng 3/2 đưa tin về thảm cảnh của 42 người phụ nữ XKLĐ Việt Nam, sống tại thành phố George Town, bán đảo Penang, Malaysia. Họ sống trong một căn hộ 4 phòng, mỗi phòng chỉ đủ chỗ cho 5 người và tất cả chỉ có một chỗ đi vệ sinh duy nhất. Họ từ VN sang Malaysia lao động nhưng đang không có việc làm, không có tiền gởi về nhà trả nợ và giúp gia đình trong khi hộ chiếu đã hết hạn. Đây không phải là lần đầu tiên báo chí nói về cuộc sống bi kịch của công nhân XKLĐ Việt Nam ở Malaysia. Nếu tiếp tục ở lại thì phải đối diện với muôn vàn khó khăn, nhất là trong hoàn cảnh cư trú bất hợp pháp mà muốn trở về nước càng khổ nhục hơn vì nợ nần chưa trả, nên họ phải nhắm mắt buông xuôi với kiếp sống phiêu bạc giang hồ. Nữ công nhân XKLĐ Việt Nam phải làm nghề mại dâm rẻ tiền để mưu sinh, đó là nghề rất phổ biến ở Malaysia. Một Đại biểu Quốc hội chất vấn Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội vô cảm. Nguyễn Thanh Hòa, Thứ trưởng bộ nầy tiết lộ từ năm 2004 đến nay có khoảng 400 ca đột tử, trung bình cứ 6 người thì có 1 người XKLĐ chết. Ông cho biết: “Hiện nay có khoảng 120.000 người XKLĐ đang làm việc tại Malaysia, nguyên nhân chất lượng khám sức khỏe kém, không quen với nếp sống đô thị hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp nên thường xảy ra tai nạn lao động, tai nạn giao thông? Tất cả đều chối bỏ sự thật là công nhân XKLĐ bị ngược đãi, hành hạ và làm việc quá sức lao động, bằng chứng là có người bị đột tử trong nhà vệ sinh.

Đài Loan: Các hãng Đài Loan đối xử với công nhân XKLĐ Việt Nam tàn nhẫn không thua Đại Hàn và Malaysia. Hãng Bi - Shiang Enterprise tại làng Sha-Kun, thành phố Hsinchu chuyên sản xuất xe lăn bán sang Canada & Pháp. Ngoài công nhân địa phương, họ mướn thêm 18 nữ công nhân XKLĐ Việt Nam. Theo sự tố cáo của Linh mục Peter Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Hope Worker’s Center tại Chungli: Các nữ công nhân VN bị cấm ra khỏi hãng sau giờ làm việc, ngày nghỉ không được thăm viếng bạn bè. Theo luật lao động, công nhân được cung cấp chỗ ở và thức ăn miễn phí, nhưng bọn chủ nhân tự động trừ tiền mua thực phẩm mỗi tháng 2.500 Đài tệ. Hãng chỉ trả lương công nhân 3 tháng/ một lần; thay vì phải trả hàng tháng theo đúng luật. Mỗi cô thợ VN đã bị chủ hãng bắt buộc phải hầu bàn cho các công nhân Đài Loan như bọn đầy tớ hầu hạ bọn quí tộc Đài Loan thời phong kiến. Vào tháng 2/2005, chính quyền Costa Rica cho biết 6 thủy thủ người VN trong một tàu cá Đài Loan đến cảng Puntarenas đã bỏ trốn khỏi tàu. Họ đã tố giác rằng, họ đã bị tên thuyền trưởng Đài Loan ngược đãi, đánh đập, tra tấn dã man và nhờ chánh quyền sở tại bảo vệ an ninh cho họ. Chỉ huy trưởng sở tại là Luis Diego Solano cho biết, không ai muốn ở lại Costa Rica mà muốn trở về VN. Điều kiện sống và làm việc trên các tàu cá Đài Loan nổi tiếng là tàn tệ, năm nào cũng có những thủy thủ trên tàu đánh cá nổi loạn, cướp tàu, thậm chí giết cả thuyền phó, như vụ xảy ra năm 2002 trên chiếc “Full Means 2” ngoài khơi biển Hawaii. Ngày 5/10/2009, các thủy thủ VN nổi loạn trên tàu cá Đài Loan tại Nam Phi, đã dùng dao uy hiếp thuyền trưởng và sau đó bị cảnh sát Nam Phi bắt giữ. Cảnh sát Nam Phi ghi nhận rằng, họ làm như vậy vì họ đã bị tên thuyền trưởng Đài Loan đánh đập họ vô cùng dã man trong nhiều tháng liền trên biển. 10 người trên tàu Balena đã trói thuyền trưởng và tấn công thuyền phó ngoài khơi biển Nam Phi. Các thủy thủ VN đã hành động trong cơn tuyệt vọng sau nhiều tháng bị thuyền trưởng người Đài Loan đánh đập và ngược đãi tàn tệ. Sự kiện đã xảy ra vào tháng 8/2013, có 4 thuyền viên XKLĐ Việt Nam tố cáo họ bị hành hạ như nô lệ và phải trốn khỏi tàu cá Hsieh Ta của Đài Loan ở vùng biển của Pháp và đã về tới VN vào tối 12/8/2013. Theo tin của Vietnamese Missionaries in Taiwan, thân phận của các thiếu nữ XKLĐ sang Đài Loan làm công việc nội trợ (domestic helpers) hoặc giúp đỡ người già, bệnh nhân, các cô được gọi là “osin” thân phận đày tớ không hơn gì thân phận nô lệ, thật khốn khổ và nhục nhã, có khi còn bị sách nhiễu tình dục. Các cô phải làm việc quần quật từ 2, 3 giờ sáng đến 10 giờ đêm cực như một con chó... ăn phải ăn sau chủ nhà, thường là loại “cơm thừa canh cặn” của gia đình nhà thải ra, dành cho người “osin” và cho chó ăn. Số phận của người công nhân XKLĐ tại Đài Loan hoàn toàn lệ thuộc quyền sinh sát của người chủ của mình vì trong hợp đồng XKLĐ có khoảng ghi là: “Người công nhân hoàn toàn do chủ xử lý và sử dụng”. Nói trắng ra, đây là hình thức “bán đứng dân XKLĐ làm nô lệ cho ngoại nhân”, sống chết mặc bây của ĐCSVN. Người công nhân XKLĐ không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì, kể cả quyền xin chủ nhân đối xử với họ như một con người chớ không phải súc vật...

Saudi Arabia: Ngày 1/1/2015, chị Vinh về tới Việt Nam. Chị Vinh kể: “Lúc sang làm việc cho chủ thứ hai, chị đã phải làm cả việc nhà của mẹ bà chủ, buộc phải dọn dẹp liên tục, ngày chỉ được ngủ 3-4 tiếng. Nếu mệt quá ngồi nghỉ thì bị gọi chửi, có người bị chủ nhổ nước bọt lên đầu. Ăn chỉ có ăn cơm với ớt, không có thịt, có lúc phải nhặt xương trong thùng rác lên ăn. Không chịu nổi cảnh đời làm nô lệ, chị đòi về nước thì bị chủ nhốt trong phòng một tuần liền, không cho ăn uống. Chị Vinh còn bị chủ nhà cùng mấy người đánh đập, bỏ sỏi vào miệng, lấy lửa bật đốt trước mặt...” Khi bị họ đánh đập tàn nhẫn, em gọi điện về cho chị Trang (Cty Vĩnh Cát). Chị Trang nói: “Muốn trở về nước phải nộp 58 triệu đồng,” em không chịu, chị ta nói: “Thế thì đừng làm phiền chị ấy nữa!” Thế rồi, công văn số 259 ngày 10/12/2014 của Cty Vĩnh Cát cho rằng: “Chị Vinh muốn về nước, nhưng không muốn bồi thường, nên đã giở các chiêu trò, thủ đoạn... vu cáo chủ ngược đãi là không đúng”. Sau cùng, chị Vinh khẩn thiết đề nghị cơ quan chức năng kịp thời giải cứu nhiều nữ XKLĐ bị kẹt tại Saudi Arabia do không thể chịu đựng được cảnh bị ngược đãi, nhưng không thể về nước vì gia đình quá nghèo không có tiền nộp phạt cho Cty XKLĐ Vĩnh Cát.

Jordan: Cuối tháng 2/2008, có một số nữ công nhân VN được XKLĐ sang Jordan bị đánh đập tàn tệ. Gần 200 công nhân VN được một hãng may mặc Đài Loan tên W&D Apparel qua môi giới ở VN đã được đưa sang ngoại ô Amman, thủ đô Jordan, với lời hứa sẽ trả 220 Mỹ kim/ tháng. Nhưng khi tới nơi, các công nhân XKLĐ bị tịch thu hết cả giấy tờ tùy thân, phải lao động 16 tiếng một ngày, chỉ được trả từ 80 - 150 USD/ tháng. Đa số các công nhân XKLĐ đình công, chủ nhân người Đài Loan xua nhân viên bảo vệ với sự hổ trợ của cảnh sát sở tại hành hung dã man, kể cả những người đang nằm trên giường bệnh, có người bị chúng nắm đầu quật vào thành giường đến bất tỉnh.

Nô Lệ Tình Dục: Mới đây, mụ tú bà Trần thị Mỹ Phương và chồng là Tsai Hsein, người Đài Loan đã khai trước vành móng ngựa đã bán 126 cô gái VN sang Mã Lai với giá 1.800 USD một cô. Tại tỉnh Hà Tây, một cặp uyên ương buôn người tên Trần Thị Tình và Phạm Thế Dân đã khai bán phụ nữ VN sang Hoa Lục với giá bèo 1 triệu đồng (50 USD) mỗi cô gái. Và số cô dâu VN tại Hoa Lục ước tính hàng trăm ngàn người. Trong số nầy, có không ít đã vào lò “mổ nội tạng” của bọn kinh doanh đẫm máu trên xác người. Tờ báo Apple Daily Taiwan đưa tin: “Một cô dâu VN tên Tuân, 20 tuổi đã bị người chồng độc ác đâm kim vào các đầu ngón tay, rồi nhúng vào nước muối. Cô bị hắn lấy ná thung bắn vào mí mắt, đập bằng gậy và lấy dao cứa chằng chịt vào lưng. Theo hồ sơ của tòa án, hung thủ tên Liu Cheng Chi, 39 tuổi và tòng phạm cũng là vợ của y (giả ly dị) tên Lin Li Ju, vì muốn có con trai nên cho Liu về VN cưới vợ. Khi cô Tuân sang Đài Loan mới vỡ lẽ, họ vẫn sống chung với nhau thì cuộc hành hạ bắt đầu. Ngoài chuyện bị đánh đập dã man, cô Tuân còn bị bỏ đói, một ngày chỉ ăn được một bữa cơm. Sau nửa năm bị cực hình tra tấn đủ mọi kiểu, cô chỉ còn 20 kg da bọc xương. Lin sợ cô chết nên chở cô bỏ giữa đường. Cô Tuân đã lết tới một tiệm ăn gần đó để xin ăn và may mắn được cảnh sát sở tại chở vào nhà thương cứu cấp .” Tính đến năm 2006, tại Đài Loan có trên 100.000 cô dâu VN và công nhân XKLĐ, so với năm 1999 chỉ có 21 người. Hầu hết cô dâu VN là người ĐBSCL. Ê chề nhất là cảnh “chợ người”, các cô gái công nhân XKLĐ Việt Nam bất hạnh bị bày bán công khai, người ta tranh nhau trả giá, rồi thì các cô bị lôi kéo, xô đẩy, sỉ vả, khinh bỉ, nhưng các cô cắn răng chịu đựng vì các công ty môi giới XKLĐ của VN, họ chỉ cần thâu được lợi nhuận là họ phủi tay, họ bất cần thân phận người XKLĐ ra nước ngoài làm việc, sống chết mặc bây, không có ai bảo vệ họ. Người nữ công nhân XKLĐ bị bày bán như một món hàng người nô lệ. Nhiều trường hợp mua vợ để thỏa mãn thú tính như trường hợp cô PTT, 28 tuổi, quê ở Nghệ An, trong một tháng phải đi làm thuê cho 8 ông chủ. Chị bị luân phiên hãm hiếp mà không dám khai báo vì công ty môi giới giữ hộ chiếu và giấy tờ tùy thân của chị. Họ còn hù dọa sẽ trục xuất cô về VN. Nhiều công ty môi giới ở Việt Nam đã móc ngoặc với những công ty môi giới bên Đài Loan để họ tha hồ bóc lột sức lao động của công nhân XKLĐ Việt Nam và bảo đảm không bị thưa gởi hay phản đối vì tiền vé máy bay, tiền nghĩa vụ, thủ tục lót đường lên đến vài ngàn đô la, nên khi họ gặp những chuyện áp bức, họ cũng không dám lên tiếng.

Cô dâu Việt Nam “for sale”: Nhóm nghiên cứu thực trạng hôn nhân Đài Loan của viện Khoa Học Xã Hội tại Sài Gòn cho biết: “Qua cuộc phỏng vấn trực tiếp 200 cô gái từ 18 tới 21 tuổi, đang lập thủ tục lấy chồng Đài Loan, cho thấy 40% cô dâu VN chỉ học hết lớp 1 (có tới 8% mù chữ), còn lại học hết cấp II. Trên 63% cô dâu VN do môi giới qua đường dây “CÒ”. Số tiền gia đình mỗi cô dâu nhận được sau khi cưới khoảng 500 - 1000 Mỹ kim. Thời gian cô dâu VN gặp chú rể Đài Loan chỉ trong vòng 1 tuần tới 3 tháng là cùng. Các chú rể Đài Loan ngang nhiên mua “cô dâu VN” một cách công khai, rồi đem về Đài Loan để biến cô dâu thành “nô lệ tình dục”cho cả gia đình nhà họ, xài chán chê rồi bán cho lầu xanh ở Cao Hùng hay Đài Bắc, có khi bán cho các lò mổ nội tạng, chẳng những họ lấy được vốn mà còn được lãi “nhất bản vạn lợi”.

Triển lãm cô dâu VN ngay giữa hội chợ Singapore: Chắc hẳn chúng ta chưa quên được sự kiện vào ngày 16/3/2005 có cuộc triển lãm cô dâu VN ngay giữa Hội chợ Singapore làm cho các hội tranh đấu nữ quyền trên thế giới hết sức bất mãn, khi nhìn thấy những người con gái VN bị đem ra làm những mối hàng bày bán như “thú vật” tại một hội chợ ở Singapore để quảng cáo cho chương trình đi VN lấy vợ ở quốc gia nầy. Gian hàng có bày hàng 3 cô gái VN mang tên “Trung tâm hôn nhân trái tim hạnh phúc”. Tại đây, có người đứng phân phát truyền đơn quảng cáo những dịch vụ như “Lấy vợ VN ngay tại chỗ với giá 9.000 đô la Singapore” hay dịch vụ sang trọng hơn lên đến 13.000 đô la Singapore. Bà Breama - Chủ tịch Hiệp hội Bảo vệ Nhân phẩm Phụ nữ tại Singapore - nói rằng: “Đây là một hành động không thể chấp nhận được,” bà kêu gọi. “Chính phủ Singapore phải có những biện pháp cụ thể để ngăn chận những việc này tái diễn và cho rằng, đây không khác gì như tình trạng buôn người mà thôi.

Người Tàu mua phụ nữ VN làm nô lệ tình dục và lấy nội tạng: Theo bản tin Tân Hoa Xã, ngày 20/8, thông báo họ đang tiến hành điều tra vụ rất đông các cô gái VN trong khu làng thuộc huyện miền núi Song Phong trong tỉnh Hồ Nam bên Tàu bị mất tích. Gần đây, báo chí VN cũng đã nhiều lần đăng tin về những vụ lừa đảo thiếu nữ VN nhẹ dạ bán sang Hoa Lục làm gái mãi dâm hoặc làm cô dâu, nhưng họ tránh né không muốn đề cập đế một thực tế ghê rợn là họ bị đánh cấp nội tạng đem bán. Buôn bán “thận” là một nghề đang nở rộ và cực kỳ béo bở ở Đại Lục. Nguồn cung cấp nội tạng từ học viên Pháp Luân Công, tù hình sự, người vô gia cư và đặc biệt Việt Nam hiện nay là nguồn cấp nội tạng vô tận cho các bệnh viện chuyên mổ lấy nội tạng ở Đại Lục. Tính theo thời giá hiện nay, mua một cô dâu VN giá di động từ 1.000 - 2.000 USD là cùng, còn giá trẻ em từ 500 - 1500 USD. Đem họ về Đại Lục, bán lại cho các lò mổ nội tạng sẽ có thu nhập từ 80.000 - 100.000 USD cho 2 quả thận, đó là chưa kể những bộ phận khác như tim, gan sẽ được giá cao hơn. Hầu hết các dịch vụ mua buôn người đều diễn ra tại các tỉnh vùng biên giới phía bắc như: Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng... với sự tiếp tay của chính quyền địa phương.

Ngàn giọt nước mắt rơi trên nỗi đau Dân Tộc: Hình ảnh một cảnh sát Campuchia đang áp giải một bé gái VN 11 tuổi đời ra khỏi một động mãi dâm tại “khu đèn đỏ” Tuol Kork, Nam Vang. Có 6 bé gái VN từ 11 - 13 tuổi đã được cứu ra khỏi khu nhà thổ nầy. Các em đều bị chở sang đây qua ngã Tây Ninh hoặc Châu Đốc do các đường dây buôn người ở Việt Nam vận chuyển. Tại khu đèn đỏ Svay Pak, cảnh sát Campuchia cứu thoát được ít nhất 36 em bé VN bị cưỡng bách bán dâm, nhỏ tuổi nhất dưới 10 tuổi đời. Quận ven đô có 5,6 nhà chứa ở các đường hẻm trong khu ổ chuột. Ông Khut Sopheang (công tố viên địa phương) nói: “22 người có vẻ trẻ hơn 10 tuổi, trong nhà chứa khác có 9 đứa trẻ gái từ 6 - 9 tuổi. Vài bé gái khác có lẽ chỉ mới 5 tuổi. Các em khóc khi chúng tôi tìm thấy các cháu,” ông nói. “Có tới 70% gái mãi dâm ở Campuchia đều là trẻ em VN, phần đông đến từ vùng ĐBSCL.” Tại khu đèn đỏ ở Toul Kork hay Svay Pak, nơi nào cũng giống nhau. Hình ảnh những em bé gái VN thật đáng thương, tuổi đời chừng 5 tới 7 tuổi, thân mình mãnh mai yếu đuối, đứng chen chúc sau một khe hở của căn phòng dưới ánh đèn điện mờ mờ ảo ảo. Các em đang chờ cha, chờ mẹ, chờ chị, chờ anh tới đón các em về nhà? Không, không có một ai cho các em chờ đợi cả! Chỉ có những con yêu râu xanh rước các em đi vào địa ngục, các em sẽ bị chúng hành hạ thân xác đau đớn tột cùng, những cơn đau banh da xé thịt khi các em bị chúng phá hoại trinh tiết, các em nhỏ xấu số đáng thương phải tiếp khách từ 15 tới 20 lần một ngày. Còn nỗi đau đớn nào dành cho các em bé VN đáng tội nghiệp kia?

Kết luận:
Đài VOA đưa tin ngày 20/6/2013, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố: “VN là điểm xuất phát của nhiều công nhân XKLĐ sang nhiều quốc gia trên thế giới như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc... và nhiều người trong số đó phải làm việc như nô lệ khổ sai”. Theo báo cáo “Phúc trình thường niên về nạn buôn người”, nhiều công ty XKLĐ ở Việt Nam mà đa phần có liên hệ tới các “tập đoàn nhà nước”, cùng với các công ty trái phép đã lấy tiền môi giới đi XKLĐ ở nước ngoài với giá quá cao, khiến các công nhân vướng vào cảnh nợ nần chồng chất thuộc loại cao nhất trong các công nhân XKLĐ châu Á, nên họ buộc phải lao động khổ sai trong điều kiện rất tồi tệ để có tiền gởi về Việt Nam chỉ đủ để trả nợ. Anh Trần Ngọc Sơn, một công nhân XKLĐ ở Nam Hàn cho biết: “Có nhiều công nhân XKLĐ phải bỏ ra rất nhiều tiền, quá nhiều so với quy định nhà nước,” anh nói. “Một số người nhà có điều kiện, họ không phải vay mượn. Nhưng, đối với một số gia đình nghèo, không đủ chi phí trang trải, họ phải đi vay nặng lãi. Một số người đi theo các đường dây đưa người ra nước ngoài thì họ phải chạy chọt này nọ.” Phúc trình còn cho biết, nhiều công ty tuyển dụng VN chỉ cho phép người công nhân XKLĐ, đọc các hợp đồng ngay trước khi lên đường đi làm việc ở nước ngoài và buộc một số công nhân phải ký vào các hợp đồng viết bằng một thứ ngôn ngữ mà họ không thể hiểu được, trong đó có điều khoản chết người như: “Người công nhân hoàn toàn do chủ xử lý và sử dụng” điều nầy có nghĩa người công nhân XKLĐ thuộc quyền sinh sát của giới chủ nhân và không được một ai trợ giúp khi xảy ra các tình huống bất ngờ như vậy. Theo báo cáo của Trafficking in Person ngày 15/7/2013, một trong những vấn đề là các công ty XKLĐ và lực lượng cò mồi trung gian thường xuyên thu phí quá cao so với quy định của pháp luật và công nhân XKLĐ của các nước khác ở châu Á, khiến họ rơi vào cảnh nợ nần trong nhiều năm. Phần lớn trong số công nhân XKLĐ này muốn trở về VN sớm, thường thì 1 hoặc 2 năm và họ không có đủ tiền để trả nợ. Ngoài ra, các nạn nhân XKLĐ thường bị tịch thu hết các giấy tờ tùy thân, hộ chiếu hoặc thường xuyên bị lực lượng môi giới dọa trục xuất họ, để buộc họ làm việc trong điều kiện tồi tệ với mức lương thấp hoặc không trả lương. Cũng theo báo cáo nầy, rất nhiều công nhân trong số nầy trở thành nạn nhân buôn người bị hệ thống “cò mồi” vô lương tâm hay các ông chủ buộc họ phải làm công việc ngoài thỏa thuận ban đầu trong điều kiện bị bóc lột vô cùng. Nhiều công nhân buộc phải đóng tiền tuyển dụng lên tới 7.700 USD, khoản nợ nầy rất lớn đối với họ. Itar-Tass ngày 10/7/2013, đưa tin: Cơ quan di trú Liên Bang Nga và cảnh sát đã đột kích một khu công nghiệp ở phía đông Matxcova, bắt giữ 250 người VN cư trú bất hợp pháp. Hồi đầu tháng 5, RIA Novosti cũng trích nguồn tin cảnh sát Nga, nói đã bắt giữ khoảng 500 người VN nhập cư trái phép, đang làm việc bất hợp pháp tại một xưởng may áo khoác ở làng Malakhovka, Matxcova. Trước đó không lâu, vụ 15 thiếu nữ VN bị lường gạt sang Nga với những lời hứa hẹn việc làm, nhưng thực tế bị đẩy vào ổ mại dâm của tú bà Thúy An, cũng được báo giới đưa tin. Năm 2012, có hơn 100 công nhân XKLĐ Việt Nam nghề may mặc đưa sang Nga và bị ép làm việc như nô lệ cho đến khi cơ quan di trú Nga giải cứu và đưa họ về nước. XKLĐ là một dịch vụ kiếm ăn không cần vốn rất béo bở nên Đảng & Nhà nước CSVN và Bộ LĐ-TB-XH và 154 doanh nghiệp nhà nước của chế độ giữ chặt lấy cơ hội vàng để bóc lột tham nhũng thả giàn, ngồi mát ăn bát vàng làm giàu trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của những công nông dân nghèo lại tàn mạt thêm. Ngoài các khoản chi phí tổng nộp cho nhà nước để giành một chỗ bán thân đi làm nô lệ để cho ngoại nhân chà đạp nhân phẩm mà còn phải hối lộ cho bọn môi giới và bọn cò mồi vô lương tâm. Xin đồng bào trong nước sớm tỉnh táo từ bỏ ý định XKLĐ. Hãy nhìn những thảm cảnh của những người công nhân XKLĐ Việt Nam bị bọn chủ nhân nước ngoài ngược đãi, lao động khổ sai, đánh đập, bỏ đói, không trả lương hoặc trả thấp đủ sống cầm hơi để đủ sức lao động khổ sai cho chúng mà không có một ai can thiệp, bênh vực quyền lợi cho họ, vì Đảng & Nhà nước CSVN đã đem con bỏ chợ, sống chết mặc bây vì tiền thầy đã bỏ túi. Đừng trông mong gì các "tòa Đại sứ" hoặc "Tổng Lãnh Sự" hay "Lãnh Sự Quán" Việt Nam ở hải ngoại can thiệp vì họ đã nhận chỉ thị của ĐCSVN ngậm miệng ăn tiền. Hãy nhìn những tấm gương của những công nhân XKLĐ sang Malaysia làm việc, họ bị lực lượng bảo vệ, tịch thu hết giấy tờ tùy thân, sống lang thang đầu đường xó chợ, không tiền mua vé máy bay hồi hương, một số người bị cảnh sát Malaysia bắt giam như một tội phạm, một số phụ nữ phải sa chân vào chốn lầu xanh rẻ tiền để sống lây lất qua ngày trên xứ người, nên có một số chị em vướng phải bệnh AIDS chết bỏ thây nơi xứ lạ quê người đã nói lên thảm cảnh địa ngục trần gian, tủi nhục và phẫn hận của người công nhân XKLĐ Việt Nam, thân phận của họ không khác gì thân phận của người Phi Châu bị bán làm nô lệ ở Tân Thế Giới vào thời xa xưa... Thế nhưng, một số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở hải ngoại hình như quên hết tội ác của tên tội đồ dân tộc là HCM và các tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN ngu ngốc bất tài, vô dụng, tham nhũng thối nát đang phá tan nát đất nước chúng ta, họ lại mon men trở về nước để nếm lại vài độc chiêu của người cộng sản. Nói theo danh từ y học, bọn CSVN có bệnh “sadism” càng hành hạ người khác càng khoái lạc và người Việt ở hải ngoại có bệnh nan y là “masochisme” càng bị bọn CSVN hành hạ thì càng sướng rên lên, nên cứ lao đầu về Việt Nam cho bọn chúng mặc sứ hành lạc và moi đô la…

Trước khi kết thúc chủ đề của bài viết nầy, tôi xin mượn danh ngôn của nhà thơ Voloshin để nhắn gởi đồng bào trong và ngoài nước:
“Hãy cho đi! Hãy nhường tất cả đi! Rồi bạn sẽ dành được tủi nhục, nghèo đói và làm tên nô lệ khốn khổ nhất.”

Tổng hợp & nhận định: Nguyễn Vĩnh Long Hồ

 

Đăng ngày 24 tháng 10.2016