"Qua" với "Bậu"
Nguyễn Thị Cỏ May
Hôm qua, qua hứa qua qua…
Nhơn ngày Tết, ông Nguyễn văn Tương (*) tới thăm và mừng tuổi Cụ Trần văn Hương tại tư thất của Cụ. Bắt tay khách, Cụ Trần văn Hương vui vẻ nói:
- Em còn trẻ quá, chắc em không có học với qua. Mà nay, qua không còn làm việc chánh quyền nữa, được em tới thăm như vầy, thật cảm động. Qua mời em ở lại ăn cơm với qua. Ăn cơm cá kho, canh chua…(*)
Chữ “qua” còn được thông dụng với Cụ Trần văn Hương, người gốc Nam kỳ ở lớp tuổi 60, năm 1965 tại Sài gòn.
Cụ Trần văn Hương xưng “qua” nhưng lại gọi ông Nguyễn văn Tương bằng “em” chớ không phải “bậu” như trong ngôn ngữ giao tiếp rất phổ thông ở Nam kỳ trước kia.
Hai chữ «qua» và «bậu» được người có địa vị cao và có học trong xã hội dùng trong sanh hoạt hằng ngày chớ không riêng gì chỉ giới bình dân. Nhưng có lẽ tới thời Cụ Trần văn Hương, người ta không dùng “bậu” nữa mà dùng tiếng «em» để chỉ người đối thoại nhỏ tuổi hơn.
Chữ “bậu” có nghĩa là “bạn, là em” cả khi nói với người con trai, và cũng có nghĩa “em” trong nghĩa “vợ”, trong quan hệ vợ chồng.
Như trong Truyện Thạch Sanh, Lý Thông nói với Thạch Sanh khi gặp nhau lần đầu tiên, thấy Thạch Sanh trẻ tuổi hơn mình:
“Chẳng hay chú bậu (chú em) ở đâu,
Áo quần chẳng có dãi dầu khá thương?
Thường thì người ta vẫn hiểu lầm là tiếng bậu chỉ dùng để chỉ người con gái, người phụ nữ. Như trong bài hát dân gian châm biếm, trêu chọc người con gái lớn tuổi mà còn ế chồng:
Ống tre khô người ta còn chuộng
Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang
Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn bắt
……
Bậu lỡ thời như muốn người ta
Muốn người ta người ta không muốn
Xách cây dù đi xuống đi lên.
Ghi chú thêm: Theo Giáo sư Âm nhạc học Trần văn Khê, bài hát trên đây là bài “rap”, một thể loại hát dân gian ở Việt nam xưa, như một cách nói chuyện nhanh, lời tiếp nối nhau nên không có chấm câu, ngụ ý chọc ghẹo một đối tượng nào đó trong xóm, trong làng. Rất dễ hát nên trẻ con nghe qua là có thể hát theo. Nhờ đó, dễ phổ biến rộng rãi và chỉ trong thời gian ngắn, đối tượng có thể nghe được. Ngày nay, “rap”, thanh niên Phi châu thường hát, nhứt là hát để khiêu khích cảnh sát.
Cũng tiếng «bậu” còn lưu hành ngày nay nhưng chỉ trong thi ca (Luân Hoán và Phan Ni Tấn, Phải lòng người con gái Bến Tre):
«Bậu sang phà Rạch Miễu, ngoe nguẩy xuống Bến Tre
Về Cái Mơn, Lương Hòa hay là, Về Sơn Đốc, Ba Tri?
Guốc bậu rụng tiếng lá (ơ hơ), thoang thoảng mùi làm duyên
Thoáng mùi thương quá đỗi; mùi tình Lục Vân Tiên”.
“Qua» và «Bậu»
Theo Giáo sư Hán nôm Nguyễn văn Sâm (Đại Học Văn Khoa Sài gòn), chữ "qua" là tiếng biến âm từ tiếng quá (hóa) giọng Triều Châu của chữ ngã 我 (tôi). Dùng tiếng «tôi, anh» bình thường, người ta thấy không sang, không thân mật, và quan trọng nhứt là hơi mất tự nhiên nên người ta dùng tiếng qua. Chuyện nầy cũng tương tợ như người Việt Nam thời còn nặng mùi Tây hay dùng toi, moi (tutoyer) khi nói với bạn hay với cả người mình yêu khi mới bắt đầu tấn công ái tình. Ngày nay, ở Mỹ, tuổi trẻ Việt Nam có một chút học vấn khi bắt đầu tán tỉnh cũng thích dùng hai từ me, you hơn là anh em, em anh vì quá quen thuộc.
Chữ "qua" với nghĩa "tôi, anh" thân mật cũng thấy trong văn chương thế kỷ 19, như Lý Thông nói chuyện với Thạch Sanh (Truyện Thạch Sanh Lý Thông)
“Lý Thông thấy nói, sầu bi
Qua xin kết nghĩa vậy thì đệ huynh”
… Qua thời vốn có một mình,
Mẹ thời già cả kết chưng bạn mày».
Điều đáng để ý, qua lời của Lý Thông nói với Thạch Sanh, người ta hiểu tiếng "qua" của Lý Thông dùng có nghĩa là anh, là ta, là kẻ lớn hơn, vai vế là bực đàn anh của Thạch Sanh và tiếp theo, đã không ngại gọi Thạch Sanh bằng mày.
Cũng theo Giáo sư Nguyễn văn Sâm, chữ bậu có nghĩa là em, dùng trong cách nói thân mật. Người Nùng có tiếng bậu nghĩa là em. Người Thái có tiếng phậu cũng có nghĩa tương tợ (Tự điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của BS Nguyễn Hy Vọng).
Người Nam kỳ nói bậu bạn, trong cách nói thân mật. Nên khi nói «làm bạn với…» có nghĩa là cưới vợ lấy chồng. Văn thơ Nam Kỳ dùng chữ "bậu" chỉ người mình thương khi nói trực diện.
Bậu nói với qua bậu không bẻ mận hái đào,
Mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay?
Nguồn gốc "qua" và "bậu"
Theo Giáo sư Nguyyễn văn Sâm, như trên đây, hai tiếng qua và bậu có nguồn gốc từ tiếng Triều châu và Nùng, Thái, Miên. Có người lại quả quyết một cách chắc nịch hai tiếng qua và bậu hoàn toàn là sản phẩm trong ngôn ngữ đặc sệt của dân Nam kỳ Lục tỉnh và cà cách sử dụng hai tiếng đó trong nói chuyện hằng ngày.
Nhưng có người khác (Trang “Ngày ngày viết văn”, internet) lại dẫn chứng Từ điển Lê Ngọc Trụ để tìm về nguồn gốc của chữ qua và bậu và cho rằng cách lý giải của Học giả Lê Ngọc Trụ là dễ hiểu, logic, có cơ sở hơn hết. Theo đó, xin trích:
"Qua" là cách phát âm của người Triều Châu của chữ “ngã” mà âm đọc phổ thông là “wǒ“. Người Triều Châu đọc chữ này là “wá“. Người ta giải thích thêm là khi xưa, ở miền Nam, nhất là khu vực Bạc Liêu, người Triều Châu di dân đến sanh sống rất đông. Cái tên Bạc Liêu cũng được cho là từ gốc Triều Châu mà ra".
Tuy Từ điển Lê Ngọc Trụ không giải thích chữ “bậu” nhưng nếu “qua” là gốc Triều Châu thì cũng có thể suy ra “bậu” cũng từ gốc ấy mà ra. Người Triều Châu gọi vợ hay em bằng “pau”, “bấu” hoặc “bô” tùy theo từng vùng.
Nếu đúng “qua” và “bậu” đều là gốc Triều Châu, thì người ta có thể nghĩ rằng trong ngôn ngữ gốc, hai tiếng này không nặng tính chất tình cảm, không có ý nghĩa thân mật chi hết, cũng bình thường như tôi với anh hay như tao với mày vậy thôi. Trái lại trong tiếng việt, hai tiếng ấy lại chứa chan tình cảm mỗi khi nghe nói, tuy ngày nay không còn dùng trong giao tiếp, chỉ còn thấy trong thơ ca, trong văn chương mà thôi. Hai tiếng "qua" và "bậu" luôn thắm đượm nghĩa tình. Có ai mà không cảm thấy thắt lòng khi đọc những câu ca dao này:
“Trách mẹ với cha chứ qua không trách bậu,
Cha mẹ ham giàu gả bậu đi xa”
“Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt,
Kẻo anh lầm tội nghiệp cho anh”
Hay đau khổ, trách hờn người yêu:
“Trách lòng bậu cứ đẩy đưa,
Gạt anh dãi nắng, dầm mưa nhọc nhằn”
Hoặc thể hiện nỗi da diết, nhớ mong:
“Bướm xa hoa, bướm dật, bướm dờ,
Anh đây xa bậu, đêm chờ ngày trông”
Và có đứt ruột không khi xa nhà, bổng nghe văng vẳng tiếng hát “Ầu ơ ….” (không phài giọng “À ơi …” của Bắc kỳ)
”...Chim chiều lẻ bạn ngoài song
Em còn mong đợi người dưng.
Qua không thương bậu, bậu còn buồn ai!”.
Có người (trên báo Tuổi Trẻ gần đây) giải thích một cách quả quyết: “Nhiều người lầm tưởng “qua” là một từ mới nhưng thật ra đây là một từ địa phương Nam Bộ giàu sắc thái biểu cảm, đã hình thành từ thời người dân nước Việt đi xuống phương Nam mở cõi”.
Có thật đó “là một từ địa phương Nam Bộ”?
Năm 1602, Nguyễn Hoàng sai lập dinh trấn, xây kho tàng chứa lương thực, vũ khí rồi sai con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên (sau là Chúa Sãi) trấn giữ. Ban đầu dinh trấn được dựng ở Cần Húc, huyện Duy Xuyên, ít lâu sau dời sang Thanh Chiêm, rồi năm 1833, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở Quảng Nam qua làng La Qua, Điện Bàn. Từ đó, ca dao địa phương có câu:
“Tỉnh thành đóng tại La Qua,
Hội An tòa sứ vốn là việc quan”.
Và La Qua đã đi vào câu đối với cách chơi chữ tuyệt vời, lấy chữ qua với chữ đồng âm:
“Con gái La Qua,
qua hôn, qua hít, qua vít, qua véo, qua chọc, qua ghẹo,
qua biểu em đừng có la qua” (la nghĩa là rầy mắng, qua là anh, tôi).
Có câu đối lại cũng sát sàn sạt về chữ nghĩa, ý tứ:
“Đàn bà Phước Chỉ,
chỉ xấu, chỉ xa, chỉ lười, chỉ nhác, chỉ bài, chỉ bạc,
chỉ có chồng là may phước chỉ” (chỉ là chị ấy)
Không riêng gì Quảng Nam, vượt qua đèo Hải Vân ngược ra Bắc, nếu dừng chân tại Quảng Bình, người ta còn nghe câu hát huê tình đầy tiếng qua:
“Răng chừ đá nổi lắc lư
Lạch Ròn kia cạn, qua mới từ nghĩa em”. (Theo Lê Minh Quốc)
Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi từ Quảng Nam đi xuôi về phương Nam, người ta sẽ nghe nói thường hơn 2 tiếng qua và bậu:
“Xa xôi chưa kịp nói năng
Từ qua với bậu như trăng xế chiều”
Và khi tới xứ Nam kỳ Lục tỉnh, 2 tiếng qua và bậu dường như cũng dừng bước và đóng đô luôn ở miền đất lành chim đậu này:
“Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con”
Khi qua và bậu đã bén rể ở đất Nam kỳ, thì cách nói năng cũng bộc trực, nghĩ sao, nói vậy như dân Nam kỳ:
«Bậu đừng lên xuống đèo bồng
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan”.
Nguồn gốc "qua, bậu" là Nam kỳ, là từ tiếng Triều châu, tiếng Nùng, Thái…?
Nói hai tiếng qua và bậu là tiếng của địa phương xứ Nam kỳ hay do bắt chước theo cách phát âm của tiếng Triều châu vì người Triều châu sanh sống ở vùng đất mới này khá đông đảo, lẩn lộn với người Việt nam nên ảnh hưởng qua lại là bình thường.
Nhưng người ta bắt gặp rất phổ biến hai tiếng qua và bậu trong nói chuyện, trong câu hát của người dân miền Trung, từ Quảng Nam trở ra tới Quảng Bình và từ thời Chúa Nguyễn (1602), nghĩa là trước khi người Triều châu từ bên Tàu qua và xuống Bạc liêu lập nghiệp, làm rẩy, “dưới sông cá chốt, trên bờ Triều châu”. Như câu ca dao sau đây mang rất đậm nét địa phương và thời điểm:
“Ngó lên hòn Kẽm, đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi…
Thương cha nhớ mẹ thì về
Nhược bằng thương cảnh nhớ quê thì đừng !”
Hòn Kẽm, đá Dừng là hai địa danh đèo heo, hút gió tận thượng nguồn sông Thu Bồn của Quảng Nam. Ngày trước, để ngược dòng lên đây, từ Hội An là nơi đô thị trên bến, dưới thuyền, nếu đi thuyền, người ta phải mất cả tháng trời chèo chống. Và người Quảng Nam có lẽ ít có ai mà không biết vùng đất hẻo lánh kia cùng câu ca dao buồn tênh này (Theo Lê Minh Quốc).
Như vậy, nếu nói 2 tiếng qua và bậu là hai tiếng địa phương của Nam kỳ Lục tỉnh có thể đúng trong sự chấp nhận hai tiếng đó từ Miền Trung đi theo người miền Trung vào đất Nam kỳ. Trong trường hợp này thì hai tiếng qua và bậu hoàn toàn không có liên hệ họ hàng xa gần gì với chú ba Triều châu hết cả.
Còn do ảnh hưởng tiếng Nùng, Thái, Miên? Người ta có thể hiểu được cũng từ miền cao nguyên theo bước di dân mà vào Nam và ở lại trở thành tiếng địa phương chăng?
Nhưng theo cách diễn giải, suy diễn thế nào đi nữa thì hai tiếng qua và bậu, tuy xưa, nhưng khi thốt lên, vẫn dễ làm rung động lòng người vì sức nặng ý nghĩa thân thương, đặc tính Nam kỳ của nó:
«Hôm qua qua hứa qua qua mà qua hổng qua. Nay qua không nói qua qua mà qua lại qua!»
(*) Hồi ký của Nguyễn văn Tương, Paris. Ông Nguyễn văn Tương làm Tổng Thư ký Văn phòng Chủ tịch Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Giáo sư Công pháp Trường Luật và Học Viện Quốc gia Hành chánh. Tỵ nạn ở Pháp, ông dạy ở Đại học Brest, Poitiers... Nay huu trí, ở ngoại ô Paris (91).
Nguyễn thị Cỏ May
"Bậu" trong thơ Trần Phù Thế
Lê Văn Trung
Không biết các nhà ngôn ngữ học giải nghĩa “bậu” như thế nào, tôi vẫn đinh ninh rằng dù giải nghĩa thế nào đi nữa cũng không thể lột tả hết ý nghĩa tình cảm sâu đậm thiết tha mà đầy thương cảm của đại danh từ ngôi hai nầy.
Bậu là ai? “BẬU” là một thoáng gặp gỡ trong đời nhưng làm ta ngây ngất, và hình bóng”bậu” in mãi trong trái tim dào dạt thương yêu của ta. “BẬU” là ai? “BẬU” là sắc là hương bừng nở một thời trong đam mê say đắm của ta.
”BẬU” là ai? ”BẬU” là da là thịt là ái ân nồng thắm một đời vợ chồng. ” BẬU” có thể ở đâu đó trong bẽ bàng ngang trái, đã để lại trong lòng ta trong lòng bậu những vết cào xước đủ làm chảy máu trái tim. “BẬU” có thể đã cùng ta đi trọn cõi trăm năm gian nan cơ cực hạnh phúc khổ đau. Nhưng “bậu” cũng có thể ở đâu đó trong dang dỡ phân li. Cho dù “bậu” là ai, một khi ta cất tiếng thiết tha gọi”bậu” thì cái nghĩa trăm năm, cái tình vạn kiếp cứ mãi với ta lên thác xuống ghềnh. Không bao giờ ta quên. Không thể nào nguôi quên.
Lần đầu tiên đọc bài “Bậu đi” của Trần Phù Thế mà TQBT đã cố ý đăng lại hai kỳ đã để lại trong tôi những cảm xúc vừa thương tâm vừa ngậm ngùi. Hạ đình Thao đã nói với tôi: ”không có bài thơ khóc vợ nào tự cổ chí kim mà hay hơn được”. Đúng quá.
Ta thử đến với” Gọi khan giọng tình” (1) mà ở đó hình bóng của ”bậu” được khắc họa như thế nào trong dòng thơ TPT.
Trong dân gian, ca dao, hát ru có khá nhiều câu gợi tình với hai tiếng” bậu ơi”. Cho dù trách móc giận hờn hay yêu thương tha thiết khi gọi lên tiếng” bậu ơi” ta vẫn nghe chìm khuất trong âm thanh đó một tấm lòng bao dung, một tấm tình sâu nặng:
“Bậu về Đại Ngãi mình ên
Bỏ quên kẹp tóc, bắt đền tội ta
Bậu quên là tại bậu mà
Tại sao bậu bắt đền ta một đời”
Ở đây ”bậu là ai?” Thì ra ”bậu” chỉ mới là cô bé nhí nhảnh, láu lỉnh, cái nhí nhảnh láu lỉnh đáng yêu của một-giai-nhân-bé-nhỏ ở cái tuổi mười hai mười ba, cái tuổi đã bắt đầu thoang thoảng mùi hương he hé sắc màu:
Bậu về liếc mắt đong đưa
Gió xuân đầy mặt như vừa chín cây.
Đâu có “bậu” chỉ làm: ”Ta mười lăm đã lòng say bậu rồi” mà cỏ cây cũng ưa bậu về...
Nhưng rồi cái tuổi ”chùm me chua lừng”, “xoài tượng thơm giòn” cũng lớn lên như ”trái chín”. Trong tim người thi sĩ hình bóng ”bậu” vẫn y nguyên, cái tình dành cho “bậu” đã miên viễn thiên thu chảy trong máu huyết, trong thịt da cháy bỏng niềm si mê:
”Ta rất nhẹ nâng niu tình hai đứa
Cất trong tim, không dám chạm vào tim”
Để rồi:
“Ta nặng tình dẫu chết chẳng hề quên”.
Tôi thương nhất hai câu: ” Bậu quên là tại bậu mà/ Tại sao bậu bắt đền ta một đời“. Chữ ”mà” nghe ra tội nghiệp nhưng không bi lụy, tội nghiệp nhưng tràn đầy yêu dấu. Nói như thế thì làm sao mà bậu không thương được!
“Bậu” đã cố tình bỏ quên kẹp tóc để có cớ mà ”bắt đền ta”, “bậu” là cô gái ”tát nước đầu đình” ”bỏ quên chiếc áo trên nhành hoa sen”. “Cái kẹp tóc” hay “chiếc áo” là con đường quanh co thơ mộng băng qua thảm cỏ ái tình để rồi ràng buột nhau một đời, ràng buộc trăm năm.
Nhưng giấc mộng đời có bao giờ nguyên vẹn đâu. Và bi khúc là đoạn kết trong trường ca tình ái về ”bậu”. Bởi vì sinh ly tử biệt là lẽ vô thường, ”bậu” đi hay ta đi, trước sau gì.cũng đến cái kết cuộc bi thương đó. Nhưng mà ông trời đã bắt bậu đi trước ta. Trong cõi hư không nào đó bậu còn luyến nhớ chốn trần gian hiu quạnh nầy:
”Bước qua ngưỡng cửa âm dương
Bậu đi mình bậu chẳng vương vấn gì
Còn ta ở lại sông lì
Một thân một bóng cu ki một mình”
“Bậu đi lạnh gối ta nằm
Hình như cái lạnh, lạnh ngầm trong xương”
Ta không dám chạm vào ngôn ngữ thi ca của TPT, bởi vì một sự giải nghĩa, phân tích, so sánh, đều vô ích, ta chỉ cảm nhận sâu lắng bằng sự đồng cảm xót xa để cố nén giọt nước mắt chực ứa ra khi đọc những dòng lục bát này:
“Bậu ơi sao bậu làm thinh
Nén nhang cơm lạt bóng hình là đây
Phất phơ hồn gió theo mây
Mối đêm giỡn bóng trăng gầy tàn đêm”
Nỗi khổ đau trong niềm thương nhớ buốt lòng, như thấy được, hay chỉ là khát khao, hay chỉ là mơ tưởng, nhưng hình như ta cảm nhận đâu đó, quanh ta, trong lung linh sương khuya, trong lay động cây cỏ, trong hiu hắt gió mùa, trong ánh trăng huyền hoặc, ”bậu” nhớ ta mà về:
“Bậu về trăng sáng ngút làng
Hương thơm phảng phất bàng hoàng hồn ta
Ngất ngây ôm bóng trăng, và
Tưởng đâu ôm bậu thịt da vẫn nồng”
Hiện thực sống đậy trong siêu tưởng. Nhan sắc bậu là đây! Thịt da bậu là đây! Vẫn đầy ứ trong rỗng không, vẫn rộn ràng trong tịch lặng, và ngời ngợi trong phôi pha. Cho nên ta cũng dọn mình để đi, đi là sự trở về với bậu cho dù lênh đênh cõi nào, bỏi vì:
”Cho dù đất thấp trời cao
Tử sinh là mới bắt đầu cuộc chơi”
A ha! Đấy mới là một bi khúc nhưng là một hoan ca. ”Tử sinh là mới bắt đầu cuộc chơi”.
Sống chết là một cuộc chơi
Và chỉ mới bắt đầu thôi “bậu” ơi!!!
Lê Văn Trung
(Quê nhà tháng 4-2009)
Bậu về
bậu về mắt liếc đong đưa
gió xuân đầy mặt như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu rồi
bậu còn chơi ác nói cười
những câu dí dỏm chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về
như là có chút nắng hè
như là có cả chùm me chua lừng
như là xoài tượng thơm dòn
chấm vào nước mắm, chút đường khó quên
bậu về Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu mà
tại sao lại bắt đền ta một đời
tội nầy không chịu bậu ơi !
Trần Phù Thế
____________
Gửi bậu vườn trầu
Bậu đi mang sợi chỉ hường
Qua qua phố cũ vấn vương tìm hoài
Chiếu cạp điều trải cho ai
Ngoài sân bông bưởi trắng đầy lối đi
Ví dầu tình bậu muốn... chi
Qua đi vay muợn (để) bậu dìa... bên kia!
Qua buồn để tóc lên chùa
Đem theo con cưởng bốn mùa hót vang
Sau giờ kinh kệ lan man
Qua so phím lại âm thầm lên... tông
Con cưởng cũng họa não lòng
Bậu đi mất biệt, qua... lông bông buồn!
Nghiêu Minh
Đăng ngày 08 tháng 02.2020