banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

chan dien muc

Chân Diện Mục

VĂN HỌC VẾT THƯƠNG

Chữ này bắt đầu từ Trung Cộng! Để chỉ văn viết về Chỉnh Phong, Cách Mạng Văn Hoá, Đại Nhẩy Vọt…

Những nhân vật cự phách đầu tiên mà tôi nghĩ tới là: Lí Nhuệ, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn. Đúng là vết thương thời này chưa kín miệng, ăn da non và thành sẹo! Ai nghĩ tới thời này không thể không buông tiếng thở dài…
Kể cả những người vẫn coi Mao Trạch Đông là Anh Hùng, nhưng không thể không viết rằng chính ông là người đâm những vết thương vào lòng dân tộc Trung Hoa, và còn ngoáy dao cho vết thương loét rộng, chảy máu không ngừng và nhiễm độc lâu dài… Người ta đã kết án Mao Trạch Đông là tội đồ của dân tộc. Tân Tử Lăng viết: Mao Trạch Đông Ngàn Năm Công Tội, nhưng tôi đọc chỉ thấy tội thôi, chẳng thấy công đâu!!! Và tác phẩm của Mạc Ngôn, và những Đất Dày, Ngân Thành Cố Sự, ta đều thấy họ mô tả: thời đại Mao Trạch Đông là thời đại… chẳng ra gì!
Trong Phế Đô của Giả Bình Ao, ta thấy tác giả mô tả thời đại này như là thời đại của những tên hề! Nhân vật chính trong Phế Đô không trần truồng khó coi! Trái lại rất chỉn chu, được đồng nghiệp ca tụng (!) và cấp trên hài lòng (!!!)
Nhân vật trong tác phẩm "Sống" của Dư Hoa ta thấy đó là hạng người có một cuộc sống không đáng sống, thật muốn chết quách cho rồi! "Quan Trường Hủ Bại" của Chu Thái mô tả quan chức hiện đại Trung Quốc chứ không giống như "Quan Trường Hiện Hình Kí" trong tác phẩm cổ điển, nhưng ghê sợ hơn, đáng tởm hơn.

Những tác phẩm tôi vừa kể trên được viết trong một thời đại "không giống ai". Không phải là thời bình: Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng, mà đó là một thời đại đầy "Vết Thương". Kể cả ông Cao Hành Kiện, đã định cư ở Pháp, giải Nobel, tôi cũng bỏ ông ta vào cái rọ Văn Học Vết Thương này!

Ở Việt Nam ta cũng có văn học Vết Thương, nhưng hình như chưa ai nói tới từ này. Các tác giả Việt cũng viết nhiều về sự đói khổ, đau đớn vì bị đầy đọa, điêu đứng vì bị trù dập. Nhưng nhiều người sẽ cho rằng ta viết nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, nhỏ nhẹ và khiêm nhượng hơn… có lẽ vì ta tiểu nhược, thấp cổ bé miệng hơn (?) nên vết thương của ta không "vĩ đại" như ở Trung Quốc! Nhưng nếu ta đọc chậm chạp, suy gẫm bằng một tâm hồn Việt Nam thì sẽ thấy… thương lắm!

Từ trước ta đã có Xuân Tóc Đỏ của Vũ trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao, nhưng bây giờ đọc lại thì… chưa đã!
Từ khi ta học bài của ông bạn phương Bắc thì vết thương của ta từ từ lớn!
Những bài viết của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chưa được kể là văn học vết thương. Đã nói là vết thương của ta nó không lớn, nhưng càng lâu càng… thấm… và nó đau âm ỉ, khó chữa. Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mới bắt đầu nở rộ, và nhiều văn sĩ nổi danh.
Hình như trái bom tấn đầu tiên là Bước Qua Lời Nguyền của Tạ duy Anh, rồi người ta không thể không xôn xao với Cái Dêm Hôm Ấy Đêm Gì của Phùng gia Lộc, Giòng Sông Cụt của Huy Đức. Rồi còn nhiều văn tài nữa, nên ta không thể không đọc: Thời Xa Vắng của Lê Lựu, Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma của Nguyễn khắc Trường. Các văn tài này càng ngày càng thấm thía vết thương và khắc họa cho chúng ta những nét sâu sắc; Thời Của Thánh Thần của Hoàng Minh Tường, Thiên Sứ rồi Cam Tâm của Phạm thị Hoài, Những Thiên Đường Mù của Dương thu Hương, Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.

Có một điều tôi nhận thấy là độc giả chỉ chú í đến những đề tài lớn vấn đề lớn mà ít chú í tới những truyện ngắn thường, truyện ngắn ít nổi tiếng. Tôi muốn nói tới: Người Sót Lại Của Rừng Cười của Võ thị Hảo và Chân Dung Người Hàng Xóm của Dương thu Hương. Những vết thương này làm ta suy gẫm về tình người. Trong Chiến Tranh tàn bạo, khốc liệt, đê tiện thì tình người là một thứ xa xỉ, và có những vết thương bị bạn đâm sau lưng mà người ta không thấy cái nham hiểm của nó (!)
Trong khi Vũ ngọc Tiến rất ưu tư khi nghĩ về chiến tranh qua tác phẩm Chù Mìn Phủ và tôi, Âm Bản Chiến Tranh thì cái anh chàng cà khịa, ca rỡn đã viết Xóm Gái Hoang và Đa Phu với giọng diễu cợt nhưng đau lắm! Vết thương cũng khá đau… nhưng người ta lại xát muối ớt hay acid vào để… cười chơi!

Cuối cùng, điều tôi muốn nói là người ta cứ mặc cảm, nói văn chương Việt Nam chẳng thể nào so sánh với thế giới được. Ừ thì ta chẳng có tác phẩm nào như Bác Sĩ Zivago của Pasternak, nhưng chuyện kể năm 2000 không thua gì Một Ngày Trong Đời Ivan Denissovik của Soljenitsyne. Đối với quan lớn thì truyện kể năm 2000 này không giá trị, chứng cứ là một xếp lớn đã ra lệnh bỏ sách này vào máy nghiền(!) Chuyện kể thủng thẳng như chuyện bình thường mổi ngày trong chiến tranh. Nhưng với một người còn tình người thì đó là chuyện buồn, đáng suy gẫm, không hẳn là một người trong tù mà hầu hết mọi người trong xã hội Việt Nam, tôi nhấn mạnh là không phải một người trong tù, đã từng ở tù… mà của hàng ngàn, chục ngàn, trăm ngàn người như thế.

Chân Diện Mục
30-9-2015


CHƯA ĐỦ CÔ ĐƠN CHO SÁNG TÁC

Tôi đọc "Chưa đủ cô đơn cho sáng tác" lấy làm tâm đắc lắm! Cái ông Inrasari này thật là hiểu, thật là nắm bắt được cái hồn thơ văn. Ôi! Tại sao thơ văn bây giờ rất là xô bồ? Tại vì cuộc sống bây giờ rất xô bồ! Người ta lấy thơ văn làm một trong những phương tiện để tiến thân! (xin đừng so sánh với ngày xưa: khoa cử người ta xét trình độ thơ văn là người ta xét vốn chữ nghĩa và đọc sách của đương sự, rồi sau đó thăng quan tiến chức hay không là tài ứng xử sau này)
Ngày nay người ta xếp hạng thơ văn theo quyền lực, theo vỗ tay số đông! Ông chủ tịch thơ hay hơn thơ ông bộ trưởng, thơ bộ trưởng hay hơn thơ vụ trưởng, vụ trưởng hay hơn giám đốc… Ôi! Một nền văn chương a dua, nịnh hót… Thảo nào mấy chục năm qua rất ít bài ngửi được.

Văn chương phải được sáng tác trong tĩnh lặng,khiêm nhượng, cô đơn… để rồi nó sẽ được nhân dân đánh giá, chứ không phải các ông lớn viết rồi đem ra khoe, ca tụng lẫn nhau, kéo bè kéo cánh, phong tặng nhau những danh hiệu này, danh hiệu kia! Chính cái nền văn nghệ xô bồ này đã nặn ra những quái thai làm nản lòng người quan tâm tới văn nghệ: Ông lớn tài kiêm văn võ, chính trị,quân sự, tài chánh… tranh giải thưởng cao quí nhất không được(!) ông ta tuyên bố đợt sau nhất định ông ta phải được giải này(!!!) mà theo các văn thi sĩ dân đen thì ông này viết văn thơ, phóng sự, nhạc, hội họa chẳng thứ nào ra hồn! Ôi! Những người huênh hoang trong tiệc rượu, trong lễ hội, trong các cuộc họp thì làm sao hiểu nỗi cô đơn quan trọng như thế nào đối với người viết!

Cái hứng thơ, cái cảm nhận sâu sắc về cuộc đời chỉ chân thực, chín mùi khi nhà văn cô đơn, cô đơn tuyệt đối.
Những tuyệt phẩm: Muối Của Rừng, Những Người Thợ Xẻ của Nguyễn huy Thiệp; Những: Bước Qua Lời Nguyền, Thiên Thần Sám Hối, Đi Tìm Nhân Vật của Tạ duy Anh đã trở thành bất tử vì Nguyễn huy Thiệp và Tạ duy Anh cô đơn!
Mọi người chỉ loan truyền những bài thơ thất tình, cùi hủi… của Hàn Mặc Tử mà không biết rằng bài thơ tuyệt tác Đà Lạt Trăng Mờ đã bật ra khi Hàn Mặc Tử cô đơn (đó là nỗi cô đơn thi vị chứ không phải là nỗi cô đơn tầm thường… Như khi thất tình, thất chí, bị người xa lánh) trong một đêm trăng ở Đà Lạt:
Cả trời say nhuộm một mầu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe đụng chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng

Xuân Diệu hẳn đã cô đơn lắm khi hạ bút:
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê

Và Huy Cận nữa! Ai mà chẳng hơn một lần nghe mưa rót vào hồn rồi sầu buồn cùng chàng Huy Cận:
Tai nương giọt nước mái nhà
Nghe trời lành lạnh, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn hạt nhẹ nối lời vu vơ

Quách Thoại và Thanh Tâm Tuyền lại có những nỗi cô đơn không giống ai khi hai chàng nghĩ về kiếp người.
Trong khi Quách Thoại nhìn trăng thao thức và muốn:
Gửi cả lên trăng tiếng thở dài
Thì Thanh Tâm Tuyền đứng bên cửa sổ:
Mây đục đậu bên bờ cửa sổ
ở một bệnh viện:
Bệnh viện thành công viên khuất nẻo
Mà nghĩ đến những chuyện hôm qua:
Những chuyện hôm qua chuyện núi đồi
Ôi! Chàng này nói lớn: "Tôi không còn cô độc" nhưng thực ra chàng cô độc lắm!!!

Tô Thuỳ Yên về quê như đi vào nơi thần bí:
Ta về như giấc mơ thần bí …
… Thức dậy đi nào gỗ đá ơi
Nói chuyện với gỗ đá thì chắc chàng là: "Thiên hạ đệ nhứt cô đơn" rồi! Chẳng ai có thể tranh với chàng danh hiệu đó!
Không hiểu sao xã hội Việt Nam càng ngày càng ồn ào, náo nhiệt, mà các thi sĩ lớn thì càng ngày càng cô đơn.

Xuân Sách về quê… tới bến đò…
Ta về tới bến sông xưa
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò
Ai đọc tới đây mà không thắc mắc: Tại sao thế! Có lẽ tâm sự Xuân Sách ngổn ngang… chưa gọi đò vì… Quê hương… khó nói quá…! Có lẽ ông ở giữa quê hương mà cô đơn thôi!!!

Khoa Hữu về Hà Nội không phải là tìm ân oán, ông chỉ muốn tìm tình tự ngàn năm xưa. Nhưng:
Gọi ngàn năm vọng tiếng thưa tuyệt tình
Rồi ông lại đến Sài Gòn nơi mấy trăm năm xây dựng của dân Việt để làm nên hòn ngọc Viễn Đông. Nhưng chỉ nhận được nỗi cô đơn não nề
Về bôi mặt nhọ tìm nhau
Hỏi trăng xưa khuyết
Hỏi châu ngọc chìm

Phạm công Thiện, một con người chẳng phải tăng, không phải tục, lại càng không phải Thánh, cô đơn đứng trên đồi nhìn" mây trổ bông", nhưng dưới chân ông thì quê hương xao xác như bến cỏ bồng bởi những ngọn gió từ đồi Tây hay đồi Đông!
Tuệ Sĩ, vị Thiền Sư uyên thâm Phật Pháp nhưng không dứt nổi lòng trần. Lòng ông rất cô đơn và hờn tủi ngay giữa Trường Sơn hùng vĩ, ngàn năm thách đố biển Đông:
Quê người trên đỉnh Trường Sơn
Cho ta gửi một nỗi hờn thiên thu

Tôi kết thúc bài viết ngắn này khi điểm lại các vị có thể là nhà giáo, nhà báo, triết gia, thiền sư, quân nhân, nông dân… nhưng họ thật sự chỉ là nhà văn chân chính khi họ: CÔ ĐƠN

Chân Diện Mục
20-09-2015

 

Đăng ngày 04 tháng 12.2015