banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Chữ nghĩa làng văn

tháng 07.2017

phingochung
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải.


Thuật nhi bất tác
Trong văn chương chữ nghĩa thỉnh thoảng có tác giả đề ra “Thuật nhi bất tác”. Hiểu theo nghĩa là truyện viết chỉ là chuyện kể, chứ chẳng sáng tác gì!
Thực ra câu này của Khổng Tử. Khi dịch thuật các Kinh, làm sách Xuân Thu để rao giảng đạo Nho của mình. Khổng Tử nói “Thuật nhi bất tác” hàm ý khiêm tốn là chỉ thuật lại đạo của người xưa chứ chẳng sáng tác chi!.
(Nguyễn Tử Quang – Điển hay tích lạ)

Chữ Việt cổ (I)
Từ cổ tiếng Việt trong "Đại Nam quốc âm tự vị" của Huỳnh Tịnh Paulus Của. Những cứ liệu khảo sát từ cổ rất đa dạng và phong phú, nhưng do điều kiện về thời gian, chúng tôi chỉ khảo sát những từ đã từng tồn tại là những từ bình thường, nhưng nay đã hoàn toàn biến mất trong từ vựng hiện đại.

Cam: ngọt
(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)

Chữ nghĩa hiện thực
Vạn sự khởi đầu nan

Gian nan bắt đầu nản.

Chữ Việt cổ (II)
Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền (phường Tân Dân, Việt Trì, Phú Thọ), là người từ bao năm nay đãlặng lẽ bỏ bao công sức đi tìm và giải mã chữ Việt cổ.

Ông bắt đầu lặng thầm trên con đường tìm chữ Việt cổ. Ông tìm thấy bộ chữ 17 ký tự gọi là hoả tự (nhìn giống ngọn lửa cháy) của Vương Duy Trinh (năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa) viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng đây là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp (186) bắt bỏ hết để học Hán tự”. Ông tìm thấy bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc.
Ông đọc sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống nói: “Đời Đường Nghiêu thứ 5 (2352 trước công nguyên) người Nam Di Việt đến chầu, hiến con rùa lớn…”. Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà – tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này.
Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái Tông cũng ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh cũng nhắc đến chữ khoa đẩu thời tiền sử của dân ta.
(Trần Vân Hạc – Chữ Việt cổ)

Thiền lơ mơ lỗ mỗ

cnlv072017

Cái bát vỡ…
Một người đàn ông lớn tuổi đang gánh một gánh bát trên đường. Đột nhiên, một chiếc bát rớt xuống đất và vỡ, nhưng ông lão không hề nhìn xuống đất mà vẫn tiếp tục đi về phía trước.
Thiền sư qua đường cảm thấy rất kỳ lạ liền hỏi: “Tại sao cái bát của ông bị rơi vỡ, ông lại không mảy may động tâm?”
Ông lão đáp: “Tại sao ta lại phải nhìn, vì nhìn nó thì nó vẫn là cái bát đã vỡ rồi mà”.
(Trần Tiết)

Tứ cố vô thân
Cố” được hiểu theo nghĩa là cũ như “cố nhân” (người xưa), hoặc chết như “quá cố”.

Nhưng “cố” đây nghĩa là ngoảnh, quay đầu lại.
“Tứ cố” ngoảnh cổ, quay đầu lại bốn phía.
Câu “tứ cố vô thân” có nghĩa là “quay đầu lại bốn phía chẳng có ai là người thân”
(Duy Lý – báo Tự Do)

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Nếu ngoài Bắc có trà “Thái Đức” nói lái là “thức đái” cả đêm thì trong quyển Hơn nửa đời hư của Vương Hồng Sển có nhiều chuyện nói lái, như xe thổ mộ được gọi là xe “u mê” vì dàn bà con gái ngồi bệt trên sàn xe gỗ cứng nên … “ê mu”.
Ngoài ra còn chuyện trong tiệm ăn người Tầu hay dùng “dấm” đỏ là “xủ”. Khách hàng thay vì gọi cô xẩm xin “dấm” hay “xủ”, họ gọi gom chung cả Việt lẫn Tầu là “dấm xủ”.
“Dấm xủ nói lái là…vú xẩm.
(Nguyễn Hữu Phước – Nói lái)

Ca dao tình tự
Nói đến ngoại tình
Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát, phần chồng, quả ngọt phần trai
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều
(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Chữ nghĩa làng văn xóm chữ
Trong đoạn hồi ký này, xuất bản vào năm 1988, Duyên Anh đã vô tình báo trước cái chết thảm của mình vào 9 năm sau.
Vốn là trên bước đường bán thuốc dạo, truyện viết hai thầy trò (ông thầy thuốc bán thuốc dạo & Duyên Anh) đàm đạo đủ chuyện nhân sinh, triết lý, đạo đức, chính trị, và một hôm thầy bảo trò: “Mày mâu thuẫn với chính mày. Mày sẽ trở thành con người tổng hợp trí nhớ, trí tuệ, trí khôn và trí ngu. Rốt cuộc, mày là đứa đối địa, nghịch thiên, chung thân bất mãn, chồng chất oan khiên. Mày sẽ giống Nễ Hành* [*một tay thuyết pháp trong truyện Tầu] không chết bởi tay Tào Tháo, Lưu Biểu, mà bị bêu nhục bởi đám vô lại Hoàng Tổ.” (tr. 222).
Tám chín năm sau, trong khi đang đi trong khu tiệm sách Tú Quỳnh trên đường Bolsa, Quận Cam, Duyên Anh bị đánh bởi một bàn tay sắt. Theo lời của một họa sĩ nhân chứng ngồi trong tiệm ăn Ngân Ðình gần đó kể lại, thì Duyên Anh đang đi, có hai kẻ từ phía sau tiến đến gần, lên tiếng gọi. Duyên Anh ngoái cổ lại xem ai, thì một bàn tay sắt vung lên, đánh một cái gọn vào thái dương anh. Chỉ một cái, rồi người đó và kẻ đồng hành đi thẳng, ra đường Bolsa, khuất sau một góc nhà về phía đường Bushard, biến mất. Duyên Anh bất tỉnh, được đưa vào bệnh viện. Vì định cư ở Pháp, anh không có bảo hiểm sức khỏe ở Mỹ, nên được đưa lên máy bay về Pháp. Cú đánh đã khiến nạn nhân tê liệt nửa người, sau này phải tập viết bằng tay trái. Anh từ trần ngày 6 tháng 2, 1997 tại Paris. Vụ ám hại Duyên Anh đã tốn nhiều giấy mực, và nước bọt, khi dư luận đặt các giả thuyết ai muốn giết nhà văn? Việt Cộng, tư thù cá nhân, hay một tổ chức kêu gọi kháng chiến, như câu văn “có linh” anh viết từ nhiều năm trước, viết ở trên: “...mày sẽ giống Nễ Hành, chết bởi tay Hoàng Tổ.”
(Duyên Anh (1935-2.1997) chọc trời khuấy nước – Viên Linh)

Đất lề quê thói với phong tục cổ truyền
Mới đẻ chưa đặt tên con
Theo phong tục, một người từ sinh ra đế khi chết mang rất nhiều tên gọi: Mới lọt lòng thì thằng Cu, thằng Cò, con Hĩm, thằng Mực, con Cún, thằng Chắt em, con Chắt ả... thường là đặt tên xấu cho dễ nuôi, đến khi lớn lên thì anh Hai, anh Ba, chị Bảy... lấy vợ lấy chồng thì anh Nhiêu, anh Đồ, chị Xã...Có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu, đến khi chết thì đặt tên hèm gọi là hiệu để cúng, người có học thì tự đặt tên tự, người có chức tước thì đặt tên thuỵ, người có chức tước học vị cao sang thường được xưng tôn theo họ, hay tên địa phương: Cụ án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, ông Trạng Trình, ông Tú Vĩ Xuyên, Quan Thám Nam Sơn... Đó là theo phong tục xưng hô của Trung Hoa. Trong nhiều tên gọi nhưng chỉ có tên huý là chính: Tên huý là tên đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ, khi đi học đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ, khi đi học.
Tại sao mới đẻ chưa đặt tên chính (tên huý)?
Ngày nay đẻ ra là khai sinh, có thủ tục hộ tịch chặt chẽ. Ngày trước mỗi làng xã cúng có hương hộ lo sổ sách sinh tử, giá thú nhưng không chặt chẽ, Làng xà chỉ quan tâm đến sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để thu thuế và bắt lính, bắt phu, vì vậy vào sổ làng càng muộn càng hay, lớn lên đỡ được vài năm thuế thân, phu phen tạp dịch.
Ngày xưa, tình trạng hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, ít có gia đình sinh năm đẻ bảy được vuông tròn, vì vậy qua các tuần cữ mới tạm yên tâm, khi đó mới đặt tên huý.
Các họ mỗi năm tế tổ một lần, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ và vào sổ họ cho các con trai trước lễ yết cáo, ngày đó mới có tên huý chính thức, được họ hàng công nhận.
Trong khi vào sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân hay không. Nếu có tức là phạm huý thì phải đổi tên. Không những phải tránh phạm huý tổ tiên bên nội mà còn phải tránh phạm huý can cụ ông bà ngoại mặc dầu khác họ, tránh phạm huý hiệu của thành hoàng, thánh mẫu, linh thần từng làng xã, các vị có uy vọng trong làng, trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời.

Lâm dâm
Lâm dâm : nhỏ
(nói lâm dâm)
(Tự điển tiếng Việt cổ - Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)

Thành ngữ lơ mơ lỗ mỗ
(…trích lục lại)
Yêu em mấy núi cũng trèo
Đến khi có chửa, mấy đèo anh cũng giông

Làng nấu rượu
Năm 1933, do tình trạng buôn và nấu rượu lậu khó kiểm soát, do nguồn thu từ sản xuất và tiêu thụ rượu góp phần không nhỏ vào ngân sách, đồng thời, công nghiệp phát triển dẫn đến yêu cầu cồn ngày càng nhiều, rượu sản xuất công nghiệp không đủ đáp ứng yêu cầu của người dân. Vì thế chính quyền bảo hộ đã để cho một số làng nghề thủ công có truyền thống lâu đời nấu rượu thủ công ở Việt Nam, như:
Làng Vân (Bắc Giang), Kim Sơn (Ninh Bình), Xuân Lai (Sóc Sơn), Quan Đình (Từ Sơn), Đỗ Xá (Hải Dương), Văn Điển (Hà Nội) v.v. Họ tiếp tục sản xuất rượu để bán. Tuy nhiên, việc sản xuất vẫn phải chịu sự giám sát chặt chẽ của chính phủ bảo hộ để thu thuế.

Truyện hậu hiện đại
Nếu chúng ta không thoát ra được một số những thành kiến văn hoá gắn liền với những khái niệm căn bản của “thể truyện”. Như chữ "tiểu thuyết" hay chữ "truyện", chẳng hạn.
Tuy nhiên, điều không thể hoài nghi được là một số những ấn tượng xưa cũ gắn liền với chữ "tiểu thuyết" như là những câu chuyện lặt vặt và nhảm nhí ở đầu đường xó chợ chưa chắc đã được gột sạch khỏi tâm thức người Việt Nam. Cảm giác ít nhiều khinh thường tiểu thuyết dĩ nhiên không ngăn cản người Việt Nam mê đọc tiểu thuyết. Dù vậy, nó cũng khiến người ta đọc tiểu thuyết với chút gì như rẻ rúng, chủ yếu là để giải trí. Mà cũng chỉ giải trí một cách hời hợt: Được phiêu lưu theo cốt truyện.
Chính chữ "truyện" ấy là điều rất đáng nói. Trong tiếng Anh cũng có chữ truyện tương tự: story. Tuy nhiên, như là một thuật ngữ văn học, chữ story rất ít được dùng, phần lớn chỉ xuất hiện trong khái niệm truyện ngắn: short story. Còn với tiểu thuyết thì đã có chữ fiction hoặc chữ novel. Cả hai từ đều có nghĩa định tính hơn là chỉ thuần mô tả. Novel, ngoài nghĩa là tiểu thuyết, còn có nghĩa là mới. Hai ý nghĩa sóng đôi ấy tồn tại như một sự nhắc nhở âm thầm: Viết tiểu thuyết là viết một cái gì mới mẻ, chưa ai kể bao giờ. Chữ fiction cũng vậy, vừa có nghĩa là tiểu thuyết vừa có nghĩa là hư cấu và văn học tưởng tượng nói chung.
Hai ý nghĩa sóng đôi ấy lại cũng tồn tại như một sự nhắc nhở âm thầm: Viết tiểu thuyết là đi vào một thế giới tưởng tượng. Trong tiếng Việt, ngược lại. Ý nghĩa của sự nhắc nhở khác hẳn: Viết tiểu thuyết là viết truyện. Mà viết truyện là kể một câu chuyện.
(phỏng theo Nguyễn Hưng Quốc – Truyện: Một số vấn đề mỹ học)

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ông Sui: là bố mình thân mật gọi bố của vợ mình.
Chứ không có nghĩa là “Mr Unlucky” đâu.
(Nguồn: từ sổ tay của một người Mỹ học tiếng Việt)

“Từ điển” của một người Bắc vào Nam sau 75
(Chữ nghĩa làng văn giữ nguyên chữ và câu cú, không…”nát bàn” với lời bàn Mao Tôn Cương)
Bành ki = bự
Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
(Nhớ đâu viết đấy… - Nguyễn Văn Trường)

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Những sai lầm tai hại trong hai quyển Từ điển từ và ngữ Việt NamTừ điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân.
Chúng sinh 眾生
Theo soạn giả, chúng = nhiều người, đông; sinh = sống. Ông đã giảng đúng nghĩa của chữ chúng 眾, nhưng chữ sinh 生 ở đây mà giảng là «sống» thì chưa ổn. Ðành rằng, chữ sinh 生 có nghĩa là sống, nhưng đó chỉ là một nghĩa chính, ngoài ra nó còn có hơn 30 nghĩa khác gồm cả động từ, danh từ, tính từ, mà nghĩa cụ thể ở đây là sinh vật, tức là động vật và thực vật. Về từ chúng sinh, soạn giả nêu ra hai nghĩa: 1) các sinh vật (theo cách nói trong Phật giáo), và 2) các cô hồn không ai thờ cúng (theo mê tín), rồi ông đưa ra một câu ví dụ: Ðổ cháo vào lá đa cuộn lại để cúng chúng sinh. Ðúng ra, phải là: để cúng cô hồn chúng sinh. Tra cứu ở một số từ điển tiếng Việt, cả Từ nguyên và Từ hải của Trung Quốc, chúng tôi không thấy nghĩa thứ hai như soạn giả đã nêu. Từ chúng sinh chỉ có một nghĩa là mọi sinh vật chứ không hề có nghĩa là cô hồn không ai thờ cúng. Như vậy, khi giải thích từ chúng sinh, soạn giả đã phạm hai lỗi: chưa nêu thật đúng nghĩa của từ tố sinh và còn gán cho từ chúng sinh một nghĩa mà nó không có.
(Lê Mạnh Chiến & H.H.Phúc)

Ca dao tình tự
Nói đến ngoại tình
Của chua ai thấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em đâu phải trầu cày
Mà cho chị mượn, cày ngày, cày đêm
(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao dân ca)

Chữ nghĩa làng…nhậu
Rượu kim lan ve vàng chước tửu,
Em mở miệng chào bạn hữu tương tri
Bá Nha vắng mặt Tử Kỳ
Ôm đờn luống chịu sầu bi một mình.

Chữ Việt gốc Tầu
Có thể nói khoảng từ 50% tới 60% những chữ trong tiếng Việt là tiếng Hán Việt. Còn Chữ Việt gốc Tầu (hay tiếng Việt gốc Tầu) là những chữ, những âm mà ta dùng thẳng từ của người Tầu hiện tại và dùng âm của mẫu tự quốc ngữ viết lại (có khi hơi nói trại đi một chút vì không có chữ tương đương). Và khi ta nói lên tiếng đó, người Tầu “liên hệ” có thể hiểu được.
Thí dụ như:
Xí lắt léo là chữ Việt gốc Tầu. Chữ nguyên thủy Hán Việt là “tử liêu”. Triều Châu có nghĩa là…”chết”. Ta đọc trại đi là…xí lắt léo.
Hui nhị tì nghĩa là…chết, là về…nghĩa địa. Chết tiếng Quảng Đông và Triều Châu là hui. Tiếng Hán Việt là về.
Hò, xử, xang, xê, cống, líu là từ ngữ của cổ nhạc Nam phần. Nguyên gốc Hán Việt đọc là “Hà, sĩ, thượng, xích, công, lục”.
(Nguyễn Hữu Phước – đặc san Phù Sa Sông Cửu)

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đắng cay chua ngọt đã từng.
Anh mà bỏ rượu, em đừng có mơ.

Mì hay phở
Lần ghé thăm Đà Nẵng, được anh bạn rủ đi ăn mì Quảng. Mì là bánh phở làm bằng bột gạo. Ăn đang ngon, tôi lỡ dại buột miệng: “Mì ăn với... bánh phở à? Tưởng là mì thì phải ăn với mì chớ?”. Anh bạn hơi lúng túng: “Từ hồi nào tới giờ tiệm vẫn làm như vậy".
Ngày chia tay được ông anh của người bạn tặng cho cuốn Hương xưa của Lam Hà (Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam, 2003). Tôi say mê đọc những bài viết của Lam Hà. Đặc biệt là bài Mì Quảng. Tình cảm sâu đậm. Hương vị ngất ngây. Lam Hà cho biết :
Gần như định lệ, tại xóm quê nào, ít ra cũng có đôi nhà sắm cối xay bột hoặc lò tráng để từ đó mọi gia đình có thể nhờ vả phương tiện tự túc làm mì. Với số gạo mùa đã vuốt và ngâm tự lúc nửa đêm, bây giờ đem xay và tráng, với mớ rau cải quơ quít quanh vườn, dầu mỡ có sẵn trong chai, gà trong chuồng đã nhốt, hoặc nếu cần, nách rổ qua một thôi đường chợ, người ta đã có một bữa mì tươm tất.(tr. 119).
Đúng là sợi mì Quảng truyền thống được làm bằng bột gạo. Tráng thành bánh, thái thành sợi. Hoàn toàn giống bánh phở. Hết thắc mắc sợi mì Quảng...Nhưng tôi vẫn còn thắc mắc tại sao mớ bánh phở pha nghệ kia lại được gọi là mì ?
(Nguyễn Dư – Chim viêt.free.fr)

Về hai câu thơ
Hai câu thơ:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Nguyên thủy là của Trần Danh Ánh thời Lê Mạt:
Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh
Trùng phong khâm tử hộ dư hương

Mười phương
Từ chữ “thập phương”. Người ta thường nói “chín phương trời, mười phương Phật”, nghĩa là nhiều nơi tụ lại. Trong truyện Quan Âm có câu “Mười phương Phật chín phương trời – Chưa hay đến sự dưới đời oan ru ”.
Mười phương gồm có:
Đông, tây, nam, bắc, đông bắc, đông nam, tây bắc, tây nam, trên trời, dưới đất.

Chữ quốc ngữ
Cho đến bây giờ, chúng ta chưa tìm biết được ai là tác giả đã đặt tên cho thứ chữ ghi âm theo mẫu tự La tinh là “chữ quốc ngữ”.
Thực ra đây là một trường hợp sử dụng từ sai lầm vì “quốc” là nước, “ngữ” là “tiếng”. “Quốc ngữ” là tiếng nói của một nước.
Như thế khi ta dùng từ ngữ “chữ quốc ngữ” để chỉ chữ viết của nước ta là sai hoàn toàn bởi lầm lộn giữa “văn tự” và tiếng nói (ngôn ngữ). Trong Việt Nam Văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã nêu vấn đề trên, nhưng theo ông thì “Từ ngữ này mọi người đã quen dùng rồi không đổi được nữa”.
(Trần Bích San – Văn Khảo)

(còn tiếp)

 

Đăng ngày 19 tháng 07.2017