Tác giả & Tác phẩm

 

Trang Y Hạ  (III)

 

 

 

  Hồi ức về Tổng thống Diệm

 

    

       Nỗi lòng
      "Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
      Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không!
      Xe muối nặng nề thẩm vó ký
      Đường mây rộng rãi tiếc chim hồng
      Vá trời lấp biển người đâu tá?
      Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
      Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
      Cắm sào đợi khách thuở nào trong?"
      Ngô Đình Diệm 1953

     “Tôi không phải thần thánh
      Mà là người bình thường
      Tôi thức khuya, dậy sớm
      Vì đất nước, quê hương
      Tôi tiến, mong các bạn
      Hãy cùng tiến theo tôi
      Tôi lùi, hãy bắn bỏ
      Tôi chết, nối chí tôi”.
      Ngô Đình Diệm

Cha tôi sinh năm một nghìn chín trăm không bảy [1907]. Nghĩa là cha tôi chỉ sinh sau ông Diệm có sáu năm. Cha tôi lớn lên trong thời kỳ đất nước Việt Nam bị đế quốc Pháp đô hộ gần một trăm năm. Cha tôi không ảnh hưởng văn hóa của nước Pháp, ông am hiểu chữ Pháp, chữ Nho từ cha của ông [tức ông nội của tôi]. Cho nên cách sống, cách suy nghĩ và xử thế có phần nguyên tắc theo kiểu trung thần “quân xử thần tử…” của một nhà Nho. Cha tôi cũng có học chữ Việt, nhưng chỉ đủ để đọc sách chứ không đi thi lấy bằng. Tôi chịu ảnh hưởng nhiều ở cha tôi.
Cha tôi nói rằng: "Ông Diệm là người công chính, là người ái quốc. Ông lo cho dân cũng như tiền đồ tổ quốc. Ông chấp chính với hai bàn tay trắng. Hiệp Định Genever 1954 chia đôi đất nước Việt Nam. Miền Bắc thuộc phe Cộng Sản. Miền Nam thuộc phe tự do Quốc Gia. Miền Nam - lúc bấy giờ quá hỗn loạn không khác gì loạn “Mười hai sứ quân”, mỗi phe phái cát cứ mỗi lãnh địa riêng… Bằng tài năng hiếm có, ông Diệm đã bình phục và thâu phục các giáo phái, đảng phái chính trị, các thân hào địa chủ… đứng về phía Chính phủ. Hoa kỳ đồng ý viện trợ để giúp ổn định tình trạng xã hội. Công lao của ông Diệm quả là to lớn. Tuy nhiên, những thành quả mà chính quyền của ông Diệm đạt được cũng đã gây ra sự va chạm, trước tiên là các chủ đồn điền cao su của người Pháp, thương gia người Hoa và của một số người Việt đã một thời theo Pháp mà được giàu sang, có học vị cao, hoặc các đảng phái tuy quy thuận chính phủ nhưng chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng. Ngoài ra, một số tướng tá xuất thân từ lính “Khố xanh, Khố đỏ” của Pháp tuy được chuyển qua quân đội Quốc Gia miền Nam và được giữ nguyên cấp bậc, chức vụ - nhưng do trình độ văn hóa, chính trị yếu kém lại ham quyền lực mà bị mua chuộc rồi đâm ra phản bội - quay súng lại giết ông Diệm và cả dòng họ của ông”.

Tôi còn nhỏ, mỗi khi nghe cha tôi nói về ông Diệm thì nghe vậy chứ chưa có một dấu ấn gì trong lòng mỗi khi nhìn thấy ảnh của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Cuối năm lớp nhất, tôi được vinh dự đứng trong hàng ngũ học sinh đi đón Tổng thống Diệm khi ông về thăm xã chúng tôi - một xã Dinh Điền - nằm trong chương trình di dân lập ấp. Bữa đó ông tổng thống mặc bộ Veston màu trắng, đầu đội mũ phớt, tay cầm cây gậy. Ông nói chuyện gì với dân chúng thì tôi không còn nhớ vì còn nhỏ. Tôi chỉ nhớ người dân vỗ tay rất nhiệt thành.
Cha tôi nói với tôi rằng: Ông Diệm không đàn áp Phật Giáo như những gì phe quân đội đảo chánh nói cũng như các bên chống đối khác nói. Bởi trong nội các chính phủ gồm Quân đội, tướng tá và viên chức hành chánh trong chính phủ đa phần là người của Phật giáo.
Chính phủ ông Diệm cũng không “tham nhũng”. Vì nếu tham nhũng thì còn tiền đâu mà thực hiện các chương trình cải tổ canh tân, lo cho dân cho nước… Việc mở rộng Phi Trường Tân Sơn Nhứt năm 1960 là bằng chứng tiết kiệm ngân sách của tổng thống Diệm.
Phi trường Tân Sơn Nhứt được nối dài phi đạo 3.000 mét, đó là vào năm 1960. Hoa Kỳ đồng ý tài trợ 4,5 triệu USD. Ngân khố VNCH bỏ ra 70.000 đồng. Việc bỏ thầu tại Washington. Hoa Kỳ đề nghị phía VNCH cử đoàn giám sát. Bộ Công chánh - Giao thông - Nha Hàng không dân sự cử kỹ sư Tạ Huyến, kỹ sư Nguyễn Xuân Hiếu. Cả hai đều học Pháp về, trực tiếp tham gia nghiên cứu tiền dự án. Thời gian đi 3 tuần, phụ cấp 20 USD mỗi ngày và 3.000 USD giao tế phí. Danh sách hai kỹ sư cử đi được Tổng trưởng Công chánh Giao thông và Tổng trưởng Ngoại giao đồng ý và chuyển trình Phủ Tổng thống xem xét. Đích thân ông Ngô Đình Diệm đọc công thư và bút phê như sau: “Chỉ đồng ý cữ đi một kỹ sư. Chỉ cho đi 2 tuần. Cắt bỏ hết 3.000 USD giao tế phí, vì kỹ sư giám sát không cần giao tế gì lớn".
Cuối cùng, Tổng thống Ngô Đình Diệm yêu cầu các thiểm bộ liên quan: Công chánh, Ngoại giao và Nha Hàng phải tiết kiệm. "Bởi tình hình tài chánh quốc gia đang khó khăn, không được lãng phí tiền đóng thuế của Quốc dân Đồng bào”.
TT Ngô Đình Diệm cho biết: "Hoa Kỳ họ viện trợ nhưng đa phần họ quy ra vật phẩm có sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan của họ".
Ông Diệm cũng không là tay sai cho Mỹ. Bởi ông kiên quyết không để cho Mỹ đưa quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam hoặc can thiệp quá sâu vào nội tình đất nước cũng như chính phủ. Đưa quân và can thiệp quá sâu sẽ mất đi chính nghĩa của người quốc gia. Ngay sau khi chấp chánh tổng thống Diệm đã hô hào toàn dân hãy “Tự Túc, Tự Cường, Tự Lực Cánh Sinh”, quyết không dựa vào sự viện trợ của nước ngoài. Chính sự “phản kháng” nầy mà ông Diệm bị Hoa Kỳ [đảng Dân Chủ] giết một cách tàn nhẫn vào năm 1963 để rồi tới năm 1965 ồ ạt đổ nửa triệu quân vào Miền Nam và vội vàng rút ra bỏ mặc cho Miền Nam tự lo liệu! Ông Diệm không những bị khối CS đánh, ông còn bị khối tự do kể cả Phật giáo, Tòa thánh Vatican và nhóm linh mục, giáo dân công giáo cuồng tín... không thích!
Chính phủ của ông chỉ tồn tại có chín năm - nhưng trong chín năm đó là chín năm gặt hái được rất nhiều thành công trên mọi lãnh vực, như: Ổn định về chính trị - Ổn định về ngoại giáo - Ổn định về quốc phòng - Ổn định về trật tự xã hội - Ổn định về kinh tế thương mại, kỹ nghệ - Ổn định và phát triển về văn hóa giáo dục và Y tế…”.
Cha tôi còn nói: Hoa Kỳ và phe quốc gia không ký tên vào Hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam năm 1954. Trong Hiệp định đó chỉ có: Bắc Việt, Trung Cộng, Liên Xô và Pháp đặt bút ký. Do đó Hoa Kỳ và phe Quốc Gia không bị ràng buộc cũng như không chịu trách nhiệm trước lịch sử. Ông Diệm và gia đình của ông bị chết thảm. Nguyên nhân chính là do người quốc gia và Hoa Kỳ chủ mưu! Mất miền Nam kể từ khi ông Diệm chết!
Cha tôi nói: Tổng thống Ngô Đình Diệm là người Việt Nam đầu tiên được đọc diễn văn bằng tiếng Anh trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 9.5.1957. Đồng thời Tổng thống Diệm luôn tôn trọng quốc phục Việt Nam (áo dài khăn đóng) để đi kinh lý nước ngoài và tiếp khách tới viếng thăm.

Lớn lên tôi tìm hiểu, đồng thời tôi đọc rất nhiều tài liệu lịch sử của nhiều sử gia, cũng như hồi ký của những người lật đổ và giết ông Ngô Đình Diệm cả người Việt, người Mỹ, người Phương Tây, người CS (nhất là sau khi khối CS Liên xô và Đông Âu sụp đổ). Tôi mới hiểu ra rằng: những gì cha tôi kể cho tôi nghe về ông Diệm hoàn toàn đúng. Trong cuốn hồi ký của Tổng thống Hoa Kỳ có đoạn như sau:
“Chúng ta đã dính tay vào vụ giết ông Diệm. Và giờ đây bàn tay ấy đang hiện lên trước mắt chúng ta”. Trang 30 (Lyndon Johnson)
"Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ nói:
“Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam” . (Pentagon Papers viii)...
(Chín năm cầm quyền của TT. Diệm, chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo).

CHƯƠNG TRÌNH TÁI THIẾT MIỀN NAM TIÊU BIỂU:
- Ngày 26/10/1955. Trưng cầu dân ý.
- Ngày 26/10/1956. Công bố bản Hiến pháp và đổi tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa, Quốc trưởng đổi thành Tổng thống.
- Hiệp định phân chia hai miềm Nam – Bắc. Tổng thống Ngô Đình Diệm đón nhận một triệu người di cư vào Nam. Lo an cư lạc nghiệp và phát triển về mọi mặt đời sống.
- Thực hiện Cải Cách Điền Địa. Chính phủ mua ruộng của các điền chủ để phân phối miễn phí cho nông dân.
- Đối với người Thượng trên Cao Nguyên. Chính phủ không lấy đất của họ, nơi nào cần thì thương lượng, bồi thường xứng đáng và giúp đỡ trên mọi vấn đề… Chính phủ để cho họ tự quyết mọi sinh hoạt trong buôn làng cũng như học hành chữ viết tập tục của họ. Họ được học tiếng người Kinh. Người Thượng được ưu tiên có bằng Trung học là thuộc tài nguyên sĩ quan thay vì tú tài như người Kinh. Người Chàm khỏi phải nhập ngũ.
- Chính Tổng thống Diệm đặt tên cho các sắc dân [sắc tộc]trên Cao Nguyên là Thượng (Người Thượng ở trên vùng cao) thay vì kêu họ bằng "Mọi" một cách miệt thị.
- Giáo Dục: Miễn phí. Tuy nhiên có trường Tư Thục và trường Hàm Thụ. Giáo dục dạy theo đường lối “Khai Phóng – Nhân bản và Dân Tộc”. Giá trị văn bằng được Bộ Giáo Dục công nhận ngang nhau nhằm khuyến khích con em đi học.
- Y Tế miễn phí cho toàn dân. Ngoài ra còn có Bịnh Viện Tư Nhân.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm cho mở chương trình xổ số để lấy tiền lời kiến thiết quốc gia.
- Tái thiết đường sắt xe lửa từ Đông Hà vào Sài Gòn năm 1959.
- Mở rộng xa lộ Biên Hòa.
-Tái thiết Quốc lộ 19 nối liền duyên hải Miền Trung và Cao nguyên Trung phần (Pleiku và KonTum).
-Tái thiết quốc lộ 14 từ Buôn Mê Thuột tới KonTum và Hiệp Đức Quảng Nam.
- Xây Dựng Viện Đại Học Huế. Ngoài ra Tổng Thống Ngô Đình Diệm dùng khoảng 6 triệu đồng tiền lời của 8 lần “Xổ số Kiến Thiết Quốc Gia” liên tiếp để thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Và thành lập các viện đại học khác trong cả nước.
- Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Tổng Thống Ngô Đình Diệm chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường Quốc Gia Hành Chánh. Trước đây, trường nầy đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. Năm 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt Học Viện Quốc Gia Hành Chánh dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng, sau đó thuộc phủ Tổng Thống (tức trực thuộc sư chăm sóc của ông).
Chương trình học của học viện này do Michigan State University (MSU) trợ giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được coi là một trong những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Sinh Viên cũng được huấn luyện quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn luyện Quang Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám v.v
Môn học chính của Quốc Gia Hành Chánh gồm những kiến thức như: soạn thảo công văn, kế toán thương mại, định chế chính trị, luật hành chánh và cả luật quân sự. Tùy theo bằng cấp khi tốt nghiệp như: Tham sư, Đốc sự, Giám sự. Các chuyên viên hành chánh cao cấp này sẽ về làm việc tại các bộ như:
Giám sự được bổ nhiệm ở các Phủ, Bộ chuyên môn khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường thì chuyên viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo hay Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia cho đến các Ty, các Sở địa phương như: Phó tỉnh trưởng hoặc Phó quận trưởng. Trưởng ty…!
- Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam:
 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đến năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng lại mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo 4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.
- Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức:
Năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ, Truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính”.
- Năm 1958 và 1962 Tổng thống Ngô Đình Diệm phân chia lại một số các địa hạt hành chánh tỉnh và phân chia thành 4 vùng chiến thuật. Trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này là Quân Đoàn: Quân Đoàn I bản doanh tại Đà Nẵng, Quân Đoàn II tại Pleiku Quân Đoàn III tại Biên Hòa, Quân Đoàn IV tại Cẩn Thơ.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm được giải thưởng Magsaysay 10.000 Mỹ Kim. Ông đã tặng số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma đang sống lưu vong ở Ấn Độ. Đồng thờ cũng viện trợ 1,5 tấn gạo.
- Giảm quyền lợi và ảnh hưởng của người Hoa, giúp người Việt có vai trò kinh doanh buôn bán được cân đối.
- Chính thức phát hành tiền tệ riêng. Một biểu tượng của quốc gia độc lập. Giá trị đồng tiền Việt Nam Cộng hòa sau đó gắn liền với đồng Mỹ kim với tỷ giá chính thức 35 $ = 1 Mỹ Kim
- Thành lập khu kỹ nghệ: Biên Hòa, Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, đập Đồng Cam [Phú Yên], nhà máy sản xuất vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Sài Gòn, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn.v . v… Đồng thời lập trường đào tạo kỹ sư.
- Thành lập Viện Hạt Nhân Đà lạt
- Lập nhiều Cô Nhi Viện, yểm trợ các Trại Cùi, các Trung Tâm Y Tế Công Cộng, các Trung Tâm Sinh Hoạt và giáo dục các người tật nguyền.
- Lập các quán cơm xã hội giúp cho người lao động và học sinh có chỗ ăn uống vừa túi tiền.
- Đưa Việt Nam tiến lên tầm cao mới (Việt Nam được 80 Quốc gia trên Thế giới công nhận , Việt Nam là Hội viên Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, .... )
- Đề ra một số đạo luật khá đặc biệt, trong đó đáng ghi nhận nhất là Luật Bảo vệ Gia đình và Luật Bảo vệ Luân lý.
- Thiết lập mã vùng điện thoại viễn liên quốc tế [84] cho quốc gia và mã không lưu cho phi trường Tân Sơn Nhứt tới nay vẫn còn đang xử dụng.
- Thiết kế đường xe lửa trên không cho Sài Gòn
- Lập đồ án xây dựng vùng đất Thủ Thiêm
- Tổng thống Ngô Đình Diệm với chương trình du học "Colombo". Gửi sinh viên du học sang Hoa Kỳ, Anh quốc, để giảm áp lực ảnh hưởng Pháp.
- Chương trình di dân lập ấp "Dinh Điền" cho hàng triệu người không đất đai ruộng vườn, được an cư lập nghiệp nơi vùng đất mới và cho tới nay vẫn còn tồn tại và phồn thịnh.
- Ngày 17.4. 1961 Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ra đời Chính Sách Chiêu Hồi. Chính sách Chiêu Hồi nhằm kêu gọi những thanh niên theo Việt cộng trở về nhà và được trọng dụng tùy theo khả năng. Đây là chính sách mang tính nhân đạo.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm, cúng 500.000 nghìn đồng và ra lệnh xuất 2 triệu đồng để xây Chùa Xá Lợi rộng 2.000 mét vuông. Chùa xây hoàn thành năm 1956.
- Cấp đất xây chùa Chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa Nam Thiên Trụ, Chùa Phổ Quang. Khu đất rộng xây chùa Vĩnh Nghiêm được ông Diệm ký bán với giá tượng trưng một đồng. Ngoài ra ông còn giúp trùng tu: Chùa Từ Đàm, Chùa Diệu Đế và một số chùa ở các tỉnh.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng 5 tượng đài để tôn vinh Đức Mẹ tại 5 thành phố:
1. Đức Mẹ Giang Sơn (Ban Mê Thuột),
2. Đức Mẹ Thác Mơ (Bình Phước),
3. Đức Mẹ Phượng Hoàng (Gia Lai),
4. Đức Mẹ Trinh Phong (giữa ranh giới Ninh Thuận & Lâm Đồng)
5. Đức Mẹ Tà Pao (Bình Thuận).
- Năm 1960, Banglades bị nạn đói hành hành, thậm chí xảy ra cả việc ăn thịt người lẫn nhau. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã viện trợ cho nhân dân Banglades 200.000 tấn gạo, 5 triệu Mỹ kim cứu trợ. Ba năm sau, khi NGÔ TỔNG THỐNG bị thảm sát, chính phủ và nhân dân Banglades đã để quốc tang 7 ngày và khóc không ngừng nghỉ. Quốc gia Banglades cho xây: Một con đường đặt tên Tổng thống Ngô Đình Diệm; một bức tượng Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫy tay chào người dân Banglades, hai bên là hoa sen, Quốc hoa của Việt Nam Cộng Hòa, để tưởng nhớ Tổng thống Ngô Đình Diệm .

NỘI CÁC CHÍNH PHỦ NỀN ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
Gồm:

18 Bộ Trưởng:
- Người bên Phật giáo giữ : 8 Bộ trưởng
- Người bên Công giáo giữ : 5 Bộ trưởng
- Người bên Khổng giáo giữ : 5 Bộ trưởng
38 Tỉnh:
- Người bên Phật giáo giữ : 26 Tỉnh trưởng
- Người bên Công giáo giữ : 12 Tỉnh trưởng
Tướng lãnh có 16 tướng:
- Người bên Phật giáo : 13 Tướng
- Người bên Công giáo : 3 Tướng
Chánh Văn Phòng Tổng thống Ngô Đình Diệm:
- Ông: Võ Văn Hải. Người Phật giáo
Chánh Văn Phòng Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu:
- Trung tá Phạm Thư Đường. Người Phật giáo.

Các chính khách và nguyên thủ quốc gia trên thế giới nhận xét về TT Ngô Đình Diệm:
1. Cựu Hoàng Bảo Đại đã khẳng định: “Ngô Đình Diệm nổi tiếng là thông minh liêm khiết".
2. Tổng Thống Dwight D. Eisenhower ca tụng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là "Con người thần kỳ của Á Châu" được sử gia John M. Newman nhắc lại trong tác phẩm “JFK and Vietnam”.
3. Tổng Thống Lyndon B. Johnson nhận định: “Tổng Thống Diệm là Churchill của thập kỷ mới trong hàng tiền đạo của các nhà lãnh đạo bảo vệ tự do".
4. Ký giả Bernard Fall, Giáo sư Tiến sĩ Đại Học, nhận định về tinh thần đạo đức của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong cuốn sách “The Two Vietnams” như sau: “Đúng là con người nổi tiếng thanh liêm và trung thành với nguyên tắc".
5. Nữ ký giả Marguerite Higgins, phóng viên của trên 60 tờ báo lớn thế giới, đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau: “Ông là một lãnh tụ tốt, trung thực, quả cảm và đáng kính”.
6. Sử gia Arthur M. Schlesinger, Giáo sư Đại học Harvard, người thiên về phe chống lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng trong tác phẩm “A thousand Days”, ông đã xác nhận: “Và chính Ông Diệm là người ngay thẳng và cương quyết, tận tâm và liêm khiết".
7. Ký giả Stanley Karnow xác định: “Ông Diệm ngay thẳng, can đảm và hăng say trung thành với chính nghĩa quốc gia".
8. Giáo sư Phạm Kim Vinh trong tác phẩm “The Politics of selfishness: Vietnam. The Past as Prologue” nhận định: “Nhưng lợi điểm lớn nhất của miền nam Việt Nam năm 1954 là có được một lãnh tụ có khả năng và đạo đức tương đương để chọi lại huyền thoại Hồ Chí Minh”.
9. Khi hay tin tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Mao Trạch Đông thốt lên "Chánh quyền Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rõ rệt".
10. Học giả người Úc Denis Warner đã tặng cho ông Ngô Đình Diệm biệt danh “The Last Confucian - Người hiền triết Khổng giáo cuối cùng”.
11. Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm.

Công trạng về Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được lịch sử và người đời sau ghi nhận. Nhưng tiếc thay, hiện nay mộ phần của ông và người thân của ông từ ngày ông bị thảm sát không được phép đề tên của ông, thậm chí người dân thương nhớ ông cũng không dám công khai tới thắp nhang để bày tỏ lòng biết ơn. Người ở Hải Ngoại cũng lãng quên! Các đảng phái, các giáo phái, các cá nhân còn nuôi trong lòng hận thù. Từ lòng hận thù đó mà họ viết sách, viết hồi ký, viết báo… vạch lá tìm sâu để phê phán, chỉ trích thậm tệ nền Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Chính họ trước đó đã được chính phủ Ngô Đình Diệm “gắn lon, phong chức”, gia đình no ấm… Họ nguyền rủa không những cá nhân tổng thống Ngô Đình Diệm mà còn cả dòng họ của ông. Người Việt tỵ nạn khắp năm châu kể từ sau ngày 30.4.1975 tới nay chưa một ai dựng tượng để nhớ ơn một vị tổng thống khai sinh ra nước Việt Nam Cộng Hòa. Nghe đâu ở bên Thụy Sỹ có một người đứng ra dựng tượng tổng thống Ngô Đình Diệm – dựng ở sau vườn nhà chứ không dám công khai!
Người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ gần hai triệu người gồm đủ cả các phe phái, đảng phái và quân cán chính. Tuy đông như vậy, nhưng không một ai đứng ra vận động để xây dựng một tượng đài ghi ơn ông tổng thống Diệm. Họ sợ chính quyền Hoa Kỳ, bởi chính quyền Hoa Kỳ đã giết ông Diệm. Lịch sử đã chứng minh sai lầm về việc giết ông Diệm. Chính quyền Hoa Kỳ, người dân Hoa Kỳ và các nhà chính khách Hoa Kỳ và trên thế giới đã thú nhận việc giết ông tổng thống Ngô Đình Diệm là sai lầm, là tội ác.
“Chúng ta đã dính tay vào vụ giết ông Diệm. Và giờ đây bàn tay ấy đang hiện lên trước mắt chúng ta”. Trang 30 (Lyndon Johnson).
Nghĩa tử là nghĩa tận. Ông bà ngày xưa đã nói. Vậy, mong rằng những người quốc gia tỵ nạn tại Hoa Kỳ và những người quốc gia tỵ nạn trên khắp thế giới hãy dẹp bỏ hận thù cá nhân, đảng phái, phe phái đối với tổng thống Diệm - xúm nhau gom góp tài chánh xây một tượng đài để cho các thế hệ con cháu mai sau còn nhớ tới một quốc gia Miền Nam Việt Nam, mà trong quốc gia đó có đủ các quyền làm người đã ghi trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, như: Quyền tư hữu, quyền tự do, quyền đa đảng, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí (tư nhân), quyền tự do lập hội, quyền tự do đi lại, quyền tự do kinh doanh buôn bán… để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình và xã hội.

Chúng ta đã từng biết tổng thống Nam Triều Tiên Park Chung Hee cùng thời với tổng thống Diệm. Sự cải cách cứng rắn của ông Park Chung Hee đã bị người Nam Triều Tiên cho rằng: độc tài và họ ám sát tổng thống của họ. Thế nhưng, sau nầy chính người dân Nam Triều Tiên đã nhìn ra công ơn to lớn trong công cuộc cải cách đất nước... Người dân Nam Triều Tiên đã hối hận và họ đã phục hồi danh dự cũng như ghi công ơn tổng thống của họ vào sử, vào sách giáo khoa để dạy dỗ cho học sinh.
Xét cho cùng, thì công lao của tổng thống Ngô Dình Diệm còn to tát hơn cả ông tổng thống Park Chung Hee. Bởi tổng thống Diệm là người khai sinh ra nền Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam bằng lá phiếu phổ thông của toàn dân.

Tôi cảm ơn cha tôi đã cho tôi biết khá nhiều về một vị tổng thống Ngô Đình Diệm tài giỏi, đạo đức, yêu đồng bào, yêu quê hương đất nước. Đồng thời có tầm nhìn về lịch sử, chính trị và cải cách đất nước sâu rộng mà không mất đi tính chính danh của một quốc gia.

Trang Y Hạ
Viết tại San Francisco

https://www.facebook.com/ha.trangy

__________


Những đêm ngày di tản

Ngày chuẩn bị về tỉnh để thi lấy cái bằng Tiểu Học. Trong lòng tôi vừa mừng vừa lo. Mừng là được về phố! Lo là lo không biết có đậu hay không? Bởi vì, dầu gì tôi cũng là người ở quê - lạ nước, lạ cái không đủ tự tin và bình tĩnh thi thố tài năng cùng các "sĩ tử" thành phố. Vào phòng thi, tôi nhận được chỗ ngồi số 217.
Tôi là dân Quảng Nam phát âm chữ Tay với chữ: Tai -, phân giọng rất rõ ràng, không như người miền khác phát âm cùng một giọng... "tay" như nhau. Sau đó là chữ: "nếp gấp"? Tôi không biết chữ nếp gấp là chi? Người nhà quê mà...! Và tôi cũng không phân biệt được chữ Tay và Tai để hiểu ra ý nghĩa câu văn trong bài văn thi qua giọng đọc chính tả của ông Thầy phát âm theo giọng Bắc! Vậy là môn chính tả tôi mất điểm. Cuối cùng tôi không đậu bằng Tiểu Học mặc dầu tôi là học sinh giỏi về môn văn. Đó là chuyện của tôi thời tiểu học - xưa quá rồi!
Hôm nay tôi cùng gia đình chịu cảnh người "chạy giặc" từ quận Dakto xuống, được cho xếp vô ở trong trường tiểu học Phan Chu Trinh, Kontum. Trời xui đất khiến thế nào mà gia đình tôi lại ở đúng cái số phòng ngày xưa tôi đã từng ngồi thi. Kỷ niệm cay đắng xưa bỗng hiện về và hình ảnh cô bé ngồi thi bên cạnh thuở ấy... không biết hiện giờ cô ấy ở nơi đâu?
Dòng Dakpsi ướp tuổi thơ đã thấm
cồn giữa sông cát trắng khỏa mây chiều
nắng hạ chiếu cánh chim sà thâm thấp
chừ xa nhau gió đẩy bóng xiêu xiêu!
 
Kontum bây giờ càng ngày càng co cụm bởi mất quận Dakto. Mất quận Dakto là coi như mất gần phân nửa tỉnh vì trước đây, năm 1965 đã mất quận Toumorong và Dakpek. Người dân các nơi chạy về tỉnh lỵ tỵ nạn càng ngày càng đông, công tác tiếp cư thật vất vả. Tuy nhiên, chính quyền tỉnh không để người tỵ nạn thiếu thốn, các cán bộ tiếp cư phân phối gạo, mắm muối, quần áo, chiếu chăn mùng mền cho người tỵ nạn tương đối đầy đủ.
Kể từ khi mất Dakto vào đêm 24.4.1972, một phần dân chúng tại tỉnh lỵ có điều kiện đã bắt đầu rục rịch tự di tản bằng đường bộ đi các nơi khác mà không cần nhờ ở nơi chính phủ. Cho đến một ngày Cộng quân chiếm đồi Chư Pao chặn đường Quốc Lộ 14 từ Pleiku lên Kontum, dân số tại thị xã đã vơi bớt, chỉ còn lại dân tỵ nạn, dân vùng ven các nơi dồn về... Cộng quân càng siết vòng vây bằng những trái đạn pháo lẻ tẻ vô trung tâm thị xã Kontum nhằm uy hiếp tinh thần. Những trái đạn pháo nầy cũng gây thương vong một số thường dân và nhà cửa nhưng không đáng kể. Tôi còn nhớ mãi một người mẹ ẵm đứa con gái nhỏ bị văng miểng đạn toét mông tại ngã ba cuối đường Trịnh Minh Thế - Nguyễn Huệ. Bà tất tả ẵm con chạy ra sân vận động để toán cứu thương quân đội băng bó. Sở dĩ có toán cứu thương ở Sân Vận Động là vì phi trường Kontum ban ngày cũng bị uy hiếp bởi những quả đạn pháo (hỏa tiễn) 122 ly của Cộng quân rót vào. Từ đó, lính bị thương tập trung về sân vận động để trực thăng chuyển đi. Thành ra mới có toán cứu thương ứng trực. Sân vận động KonTum nằm sát góc đường Trịnh Minh Thế và Lê Thánh Tôn. Một bên là bến xe đò, chợ lồng KonTum, hơi xa một chút là trường trung học Hoàng Đạo. Bước ra sông Dakbla cũng không mấy xa. Dân di tản tất cả tập trung về sân vận động nầy để đi về phương trời khác tỵ nạn...?!
 
Công tác di tản dân vẫn tiếp tục bằng đường hàng không do máy bay quân sự C 130, C 47, Caribou. Máy bay hoạt động lên xuống vào ban đêm. Ban ngày khi thấy máy bay hạ cánh là bị Cộng quân pháo kích tới tấp - đã có vài chiếc trúng đạn hư hại hoàn toàn. Khi máy bay hạ cánh, bao nhiêu đạn được thực phẩm ở trên máy bay được tuôn xuống phi đạo thật nhanh, sau đó dân chúng "di tản" đã chờ sẵn, được sự giúp đỡ của toán quân nhân phụ trách tại chỗ hướng dẫn chạy ào lên máy bay và máy bay hối hả cất cánh. Sở dĩ ban đêm phi trường ít ăn đạn pháo kích là bởi Cộng quân ngán máy bay đến B 52 rải bom. Ban đêm tại sân vận động luôn túc trực ba chiếc xe GMC, dân chúng được sắp xếp theo từng gia đình cho ngồi trên xe đợi sẵn. Người trực tiếp phụ trách di tản là ông Thiếu Tá Mùi làm "Trưởng ban Di tản". Mỗi khi nhận lệnh, ba chiếc xe GNC chở dân chạy ra sân bay do ông thiếu tá làm Trưởng xa.
Phía sau, bên dưới khán đài sân vận động có một số gia đình người tỵ nạn nằm chờ di tản. Tôi gặp một thiếu phụ ngồi co ro với hai thằng con, đứa lớn cỡ mười hai tuổi. Chị ấy nói: Chồng chị chết trận. Xóm nhà gia binh nơi chị ở người ta tự túc di tản đi hết, phần chị, mẹ góa con côi không dám ở lại, phải dọn ra sân vận động nhờ chính phủ cho di tản. Mẹ con chị ngụ ở đây cả tháng nay... Tôi trình bày với ông Thiếu Tá và ba mẹ con chị được sắp xếp đi trong chuyến bay lúc mười một giờ đêm.
 
Những người vợ lính cùng con nhỏ theo chồng ở khu gia binh rày đây mai đó quả là cơ cực! Hoặc họ không theo chồng, mà ở lại quê nhà thì cũng phải lo buôn bán, cày cấy... đời sống phần nhiều chật vật. Chồng còn sống, họ lo lắng từng đêm đợi chồng đi hành quân trở về mà mất ăn mất ngủ. Quanh năm chỉ trông nhờ vào đồng lương ít ỏi của chồng sống đắp đổi qua ngày. Mọi ước mơ là mong mỏi một lúc nào đó quê hương không còn tiếng súng. Nhưng ngày ấy còn quá xa vời! Trong lúc chiến sự lan tràn bị vây hãm như thế nầy, người vợ có chồng còn bồn chồn sợ sệt nhưng chí ít cũng còn có "chỗ dựa". Huống hồ những chị em có chồng tử trận thân gái bơ vơ như trong lúc di tản nầy thì quả là cô đơn buồn tủi!
Anh nằm xuống mờ mờ theo gió bụi
súng còn vang mà anh bỏ đi xa
khu gia binh một thân em lầm lủi
hỏa châu soi có biết hướng về nhà?
 
Đúng lý ra, các chị em vợ lính phải được vinh danh! Công cán của các chị không phải nhỏ. Các chị có công góp phần ổn định hậu phương... Nuôi dạy con thơ để cho chồng yên lòng đi chiến đấu. Khi chồng chết ngoài việc nuôi dạy con lớn khôn, đôi khi còn phải nuôi cha mẹ chồng. Với đồng tiền tử tuất hằng tháng làm sao mà sống nổi. Ngoài ra chị em còn tham gia vào các công việc xã hội tại địa phương, thậm chí cả công việc "tình báo" như thu lượm nghe ngóng tin tức từ các buổi chợ hay đình đám hội hè đem về kể lại với chồng... Công việc âm thầm đó quí giá biết bao nhiêu! Nhưng nào có được vinh danh, nào có được gắn huy chương, hay bằng khen cho người vợ lính. Sự "bất công" nầy cứ dai dẳng từ năm nầy đến năm khác mà không thấy ai nhắc nhở và quan tâm!
 
Mẹ và mấy em gái tôi ở nhờ tạm trong ngôi nhà một tầng của anh bạn trên đường Phan Thanh Giản, gần ty Tài Chánh Kontum, gia đình anh ấy đã di tản từ trước. Thấy trong gia đình đông người nên tôi nhờ một chị bạn quen có chồng lái máy bay trực thăng. Vậy là tôi gửi hai mẹ con đứa em gái kế tôi, cùng đứa em gái út tám tuổi đi nhờ trực thăng xuống được Pleiku. Tôi nghĩ nếu xuống được Pleiku các em gái của tôi sẽ tìm cách về Sai gòn dễ dàng hơn. Bởi thời gian nầy ở Kontum chưa có lệnh di tản chính thức. Còn lại mẹ tôi và ba đứa em gái khác được một người bạn thân chở bằng xe "La Da Lat' ra sân bay lúc hai giờ sáng trên chuyến bay quân sự C47 về Sai Gòn và được đưa thẳng xuống trại tạm cư Long Thành.
Khoảng gần mười ngày sau, tôi nhận được tin từ cô bạn gái cho biết các em của tôi còn ở Pleiku chưa di tản về Sai Gòn được. Tôi lo lắng không biết làm sao có thể vượt qua đồi Chư Pao để xuống Pleiku xem tình trạng như thế nào thì cô bạn gái nói "Em có cách, hãy đi cùng em tìm người hướng dẫn". Trong túi tôi chỉ còn một tháng lương, tôi mượn thêm của cô bạn gái ấy một tháng lương nữa. Tôi được một người dẫn đường băng qua Chư Pao một cách dễ dàng. Đến thành phố Pleiku, tôi đi đến khu nhà thờ Minh Đức. Nơi đây người tỵ nạn lưa thưa, họ nằm ngồi trên những chiếc chiếu trải trên nền xi măng lạnh lẽo. Trời đã vào mùa mưa - một vài cơn mưa núi đầu mùa vội vàng đổ ập xuống mang theo hơi rừng và sương mù lành lạnh cho dù là mùa hè. Mùa hè ở Cao nguyên là bắt đầu vào mùa mưa. Tôi chạy quanh quẩn tìm kiếm hai đứa em gái và cháu gái nhưng không thấy. Tôi quá nóng ruột thì có một bà chị thấy tôi lơ ngơ nên hỏi "Ông tìm ai?" Tôi tả hình dáng mấy đứa em gái. Chị ấy nói "Những người mới xuống có thể ở trên lầu, ông lên trên đó tìm thử xem". Tôi cảm ơn chị ấy và quay đi thật nhanh.
Căn phòng cuối, dãy bàn ghế trống trơn, nhiều chiếc chiếu bày ra với mùng mền quần áo nhưng không thấy người. Duy nhất chỉ có một cô bé quần áo mỏng tanh, ngồi dỗ dành đứa bé gái mới sáu tháng tuổi đang nằm khóc ngằn ngặt trên chiếc chiếu nhỏ. Căn phòng ánh sáng nhờ nhợ từ cái bóng đèn tròn tỏa xuống màu vàng nhạt. Tôi đã nhận ra em gái út đang vỗ về đứa cháu gái. Cô em út mới tám tuổi đầu nhìn thấy tôi vụt đứng dậy chạy lại ôm tôi khóc như mưa bấc. Đứa cháu gái sáu tháng tuổi nằm trên manh chiếu nghe tiếng "dì" khóc nó càng khóc lớn hơn! Một giàn hợp xướng thê lương làm cho tôi cũng không cầm được nước mắt! Tôi hỏi:
- Chị Ba em đâu?
- Chị Ba đi phụ bưng phở cho một quán phở nào đó tới tối mới về, em không biết, chị nói mất hết tiền rồi anh hai ơi! Lại khóc... Tôi đi mua cơm cho em gái và sữa cho đứa cháu gái. Sau đó tôi đi tìm cô em gái "phụ bán phở". Tôi tìm ra cô em không mấy khó khăn, bởi thành phố Pleiku người dân đã di tản, những quán ăn, quán cà phê, quán tạp hóa... còn mở cửa rất là thưa thớt. Tôi chạy ra chỗ bán vé máy bay Hàng Không Việt Nam. Nơi đây nói chỉ còn hai vé đi Sài Gòn. Quá mừng! Tôi mua liền hai vé đó!
Mười giờ sáng ngày hôm sau. Nhìn chiếc máy bay Hàng Không dân sự Việt Nam, hiên ngang bay ra khỏi bầu trời Pleiku trong lòng tôi mới thật sự an tâm, đồng thời cũng cảm nhận một nỗi trống rỗng cô đơn tràn ngập vào lòng. Mới hơn một tháng trước, người cha của tôi mất tại Dakto không kịp chôn cất! Đứng nhìn lại ngôi nhà thân yêu, mảnh vườn cây trái sum suê mà đành đoạn băng rừng ra đi về tỉnh lỵ, không hối tiếc, lại còn mừng rỡ vì đã chạy thoát về vùng tự do! Coi như là còn may mắn hơn nhiều người khác. Nhớ lại hồi năm 1965, Cộng quân chiếm xã Tri Đạo chẹn họng quốc lộ 14 ngăn chia Dakto với tỉnh lỵ trong ba tháng. Đời sống thiếu thốn mọi bề nhưng chính phủ không cho di tản. Sau năm 1975 mới biết, dù có ở lại DakTo thì nhà cửa tài sản cũng mất trắng. Cộng quân lùa dân vô sâu trong rừng sống trong cảnh tăm tối mà theo những người còn sống sót kể lại "Còn khổ cực, tủi nhục hơn một con chó ghẻ...". Tôi không bao giờ quên giây phút chia tay với hai em gái ở ga Hàng Không Pleiku. Đôi mắt em gái nhòe nhoẹt nước mắt gọi lớn:
- Còn anh Hai thì sao?.
Lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu "Bất cứ quân nhân, viên chức hành chánh nào tự ý bỏ hàng ngũ đều bị đưa ra Tòa Án Binh...". Tôi nói lớn cho hai đứa em gái nghe:
- Anh Hai phải trở lại Kontum.
Thời gian sau tôi được biết các em tôi đã gặp mẹ tôi ở trại tạm cư Long Thành.
 
Thành phố Pleiku sương mù bây giờ càng mù sương, người đi lưa thưa vội vã, không thấy một tà áo dài tha thướt nào cho ấm lòng người trai chinh chiến. Quán xá phần nhiều đóng cửa, một vài quán ăn, quán cà phê còn đông khách, nhưng chỉ là quân nhân. Họ ăn nhanh và tính tiền để ra đi cũng nhanh. Không ồn ào, không tiếng cười, vẻ mặt người nào cũng đăm chiêu phớt chút u buồn. Đêm nay tôi phải ngủ lại Pleiku để sáng sớm mai đi trở lên KonTum sớm. Thời gian còn nhiều, tôi lang thang ra rạp hát Diệp Kính. Nơi đây đã đóng cửa, tôi đứng nhìn hình ảnh trên tấm quảng cáo phim mà trong lòng nao nao nhớ cái rạp hát Thanh Bình ở Kontum, cũng cùng chung số phận!
Trời Kontum nhuộm một màu tang tóc
sợi vải sô tấm lưới phủ Pleiku
những đứa trẻ nhớ thương cha đứng khóc
vợ bồng con di tản dưới sương mù.
Tôi thuê một phòng ngủ nghỉ tạm qua đêm, ai ngờ lại gặp thằng bạn. Trước kia hắn là lính Biệt Kích Mỹ, đóng quân ở sân bay Phượng Hoàng Dakto, sau này Mỹ rút quân, số lính biệt kích chuyển qua quân lực VNCH. Tùy chức vụ đã giữ trong thời gian phục vụ ở lính Biệt Kích, lúc sát nhập đã được trả cho cấp bậc tương đương bên quân đội. Hắn ta được mang cấp bậc Thượng Sĩ. Hắn cũng đưa gia đình về Qui Nhơn vừa xong. Ngày mai hắn cũng trở lại Kontum như tôi. Đêm đó chúng tôi thức trắng.
 
Đồi Chư Pao không cao nhưng toàn là đá và hang đá, chung quanh rừng rậm. Cộng quân chiếm cứ nhằm cắt đứt đường tiếp vận cho Kontum. Những ngày đầu xảy ra trận đánh kinh hồn, tổn thất khá nặng nhưng không thể mở đường được. Máy bay có ném bom cũng không ăn thua gì. Mục đích của "họ" là "công đồn đả viện", chiến thuật xưa nay của họ là vậy. Tuy nhiên, họ không đủ quân số dàn trải ra để kiểm soát hết đoạn đường rừng từ Chư Pao cho đến đồi Sao Mai KonTum. Họ không ngờ quân tiếp viện Quốc Gia đi vòng sau lưng đồi Chư Pao lên Kontum trước, còn súng đạn quân nhu chuyển tải bằng đường hàng không quân sự. Họ bị lính quốc gia chặn bao vây hai đầu đường và công pháo dữ dội, nên tuy chiếm được đồi nhưng không kiểm soát đoạn đường hoàn toàn. Nếu họ mò xuống vệ đường quốc lộ 14 sẽ bị ăn đạn ngay. Do đó buổi sáng lợi dụng sương mù có thể đi qua mà không sợ bị bắn tỉa. Hoặc đi bằng đường mòn trong rừng cũng "vượt trạm" như thường. Cùng về Kontum với chúng tôi có hai người phụ nữ hơi lớn tuổi. Họ nói trở lại Kontum để cùng chồng "tử thủ"... Chúng tôi cảm thấy hổ thẹn cho những "ai" có ý định đào nhiệm.
 
Trở lại Kontum, tôi được phân công ở chung với nhóm "mất đơn vị" các nơi chạy về gồm: Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân, Địa Phương Quân... Các người lính đi về phép còn kẹt lại. Gom lại chừng non một Đại Đội, được trang bị vũ khí cá nhân, có cả vũ khí cộng đồng như Trung liên ba, đại liên M 60, và súng M 72, M79, mìn claymore... Đào giao thông hào, hầm trú ẩn, công sự chiến đấu làm bằng bao cát bên bờ sông Dakbla. Quân số túc trực, ăn ngủ tại chỗ. Buổi chiều trên đường phố còn thấy một vài chiếc xe Jeep do vài người lính Hoa Kỳ lái, trên xe có gắn giàn đạn phóng "rocket" chạy về hướng thành Dakpha.
Dân chúng đi di tản gần như hết, chỉ còn một số ít người dân các nơi về muộn không kịp di tản thì tạm thời vẫn ở trong sân vận động, hoặc chuyển xuống khu tạm cư Marylou ở Tân Phú hay Đồi Sao Mai, những nơi nầy tương đối còn yên tĩnh. Nhà đèn hoạt động vào giờ cần thiết nhưng rất hạn chế bởi thiếu dầu. Phố chợ, cửa sắt đóng im ỉm, mọi chuyện buôn bán ngưng hoàn toàn. Một thành phố ma đúng nghĩa! Những ụ công sự bằng bao cát được dựng tại các ngã tư trong phố, do các toán bán quân sự đảm nhận cả đêm lẫn ngày, vừa chiến đấu đồng thời giữ gìn tài sản nhà cửa của dân trong lúc họ đi vắng.
 
Một đêm tối, bầu trời dày đặc mù sương, Cộng quân âm thầm vượt sông DakBla ở phía nam thành phố, bất thần tấn công từ hướng Phương Nghĩa chiếm khu nhà dòng Cuenot, Nghĩa địa, Tòa Giám Mục, trường trung học Lê Hữu Từ... Tràn qua chiếm phi trường và Tòa Hành Chính tỉnh. Xem như mất phân nửa thị xã KonTum. Cuộc tái chiếm giằng co quyết liệt nhất là ở trong nghĩa địa lớn trước mặt tòa Giám Mục. Trời vừa tan sương, những chiếc máy bay chiến đấu phản lực thả từng chùm bom xuống khu vực Cộng quân chiếm giữ gần bờ sông phía nam, cuối đường Nguyễn Huệ, Paradise... Đứng ở đầu đường Nguyễn Huệ, gần cầu Dakbla nhìn thấy rất là rõ những chùm bom rơi... Các đơn vị tác chiến chủ lực giằng co với Cộng quân mấy bữa mới giải tỏa xong. Đi dọc theo đường Lê Thánh Tôn, đoạn từ Tòa Giám Mục đến trường Trung học Lê Hữu Từ đạn ghim lỗ chỗ. Trong Nghĩa Địa một số lớn ngôi mộ đúc tan nát! Đường Lê Thánh Tôn, đường Phan Chu Trinh chạy dài đến đoạn thuộc địa bàn Phương Nghĩa nhà cửa, cây cối gãy đổ, xác súc vật... chết banh thây, da thịt bầy nhầy lẫn lộn với những mảnh quần áo, giày dép... còn vung vãi. Chưa kể những nơi có giao tranh khác.
Những ngày kế tiếp là các đợt tấn công liên miên của Cộng quân từ hướng Bắc - Trung Nghĩa, Trung Tín, Bộ chỉ huy sư đoàn 22, biệt khu, phi trường... càng dữ dội hơn. Xe tăng của Cộng quân tiến vô đến tận thành Dakpha, đánh "xáp lá cà" với xe tăng quân đội Quốc Gia nơi tháp canh đầu phi trường. Ban đêm từng phi vụ B 52 liên tục rải thảm bom cho tới gần sáng, lửa chớp nháng sáng rực trời, mặt đất rung rung giật giật liên tu bất tận thật là khiếp đảm. Nằm dưới đất không thể chịu nổi vì sự chấn động. Có đêm phải giăng võng nằm mới chợp mắt được. Nếu không có những phi vụ B52 và không quân miệt mài cày xới... thì giữ cho được Kontum trọn vẹn cũng rất là khó khăn chưa nói đến những tổn thất về nhân mạng nặng nề.
 
Một buổi tối thành phố Kontum tắm mình trong sương lạnh. Tôi đi theo toán lính tuần tra ngang qua công viên trước tòa hành chính tỉnh, nhìn qua phía công viên trước tòa hành chính. Tôi thấy trên mặt đất trắng xóa một màu đùng đục, ngỡ là màn sương rơi dày. Lại gần mới biết là những người lính tử thương được quấn gọn gàng vào túi ny lon, buộc dây cẩn thận nằm xếp lớp ngay hàng thẳng lối như lúc tập họp để đi thao diễn... Chúng tôi thật sự xúc động, vội đưa tay làm dấu thánh và lâm râm đọc kinh... ! Những người lính hy sinh cho thành phố Kontum tồn tại sẽ lần lượt được chuyển về cho vợ con cha mẹ của họ...! Tôi nghĩ, một phần nào trong số những người lính hy sinh đang nằm chờ ở công viên nầy họ cũng có thân nhân gia đình di tản. Không biết giờ nầy, nơi phương trời cách biệt người thân của họ có linh cảm được sự đau khổ - bởi cha chồng con em đã hy sinh hay không?!
Máu thanh xuân rưới trên màu đất đỏ
bậu đi xa cảm nhận nỗi đau nầy
mai hòa bình xin hãy nhìn cho rõ
hồn chiến binh còn luyến ngọn cỏ cây.
 
Chúng tôi đứng nghiêm chỉnh, kính cẩn đưa tay chào những người lính hy sinh cho quê hương đất nước. Đêm lạnh, sương lạnh, chúng tôi bước đi trong im lặng và mỗi người mỗi suy nghĩ nhưng tựu trung là - "rồi sẽ đến phiên mình..." - bởi cuộc chiến đang tiếp diễn cùng với sự bao vây của Cộng quân càng lúc càng siết chặt. Bằng bất cứ giá nào cũng phải chiến đấu... Chứ không còn con đường nào khác để rút lui.
 
Những người thanh niên "sinh bắc tử nam" dưới những trận mưa bom, mưa pháo vãi ra như trấu... liên tu bất tận ngày đêm. Chắc chắn, sự tổn thất của họ về nhân mạng rất là nặng nề thê thảm gấp hàng chục, hàng trăm lần bên phía Quốc Gia. Người chết không kịp kéo đi bỏ lại nằm ngổn ngang nơi trận địa, chưa kể bị bom, pháo phân thây...! Người bị thương - gãy tay, gãy chân, mù mắt... mất máu dù có mang đi được nhưng ở giữa rừng thiêng nước độc làm sao có đủ phương tiện thuốc men để cứu chửa. Chưa kể bị truy kích ngày đêm  phải di chuyển thường xuyên. Làm sao có thể mang người bị thương theo cho hết. Như vậy, phải bỏ người bị thương lại đâu đó trong rừng rậm ! Muỗi, mòng, ve, vắt... "tấn công" khổ sở lắm chứ không đơn giản...! Sự chết chóc sẽ đe dọa bởi không có người chăm sóc, thiếu máu, thiếu nước biển...Vết thương nhiễm trùng tử vong là điều không thể tránh khỏi.
Những người trai trẻ miền Bắc đâu có tội tình gì mà phải chịu chết thảm thương trên dãy Trường Sơn gió lộng. Họ chỉ là những nạn nhân của một tập thể chỉ huy đầy tham vọng... Để từng đêm người mẹ miền Bắc vẫn thương nhớ ngóng trông đứa con đi "xẻ dọc trường sơn" ! Người mẹ hai miền Nam Bắc cũng cùng đau khổ như nhau!
 
Sân bay lỗ chỗ  vết đạn không xử dụng được. Để tiếp tế cho Kontum, những chiếc phi cơ vận tải bay vòng vòng trên bầu trời phía nam - nơi cầu Dakbla và đồng ruộng bắp phía bên kia sông... Những chiếc dù tiếp tế liên tục thả xuống... Có vài chiếc dù rơi trúng ngay mấy cây bã đậu cỗ thụ trong khuôn viên Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn, Ty Học Chánh, Câu Lạc Bộ DakBla... Các nhánh cây tức thì gãy nát đổ xuống..., có vài chiếc dù rơi xuống sông, rơi trên ruộng bắp... Cũng có vài chiếc dù được gió đẩy đi xa ra khỏi vùng kiểm soát... Bị bao vây lâu ngày, thực phẩm chỉ ăn toàn gạo sấy, đồ hộp... phát ngán ! Heo, gà, chó... chạy rông không dám bắt làm thịt bởi chúng cũng đói nên chúng ăn xác người... Duy nhất chỉ dám ăn thịt bò, thịt trâu, thịt dê - phố xá vắng tanh làm gì còn có thịt bò, thịt trâu, thịt dê mà ăn. Còn cá tươi, cá hấp thì đành chịu nhịn thèm. Rau là thổ sản của Phương Nghĩa cung cấp cho toàn thị xã, nhưng bây giờ cũng không còn! Rượu... càng quí như vàng!
 
Không lực VNCH đóng góp không nhỏ trong việc oanh kích giải vây thị xã Kontum. Một buổi sáng khoảng chín mười giờ... Một chiếc máy bay thả bom có chong chóng thoát ra khỏi thành phố trên thân máy bay tỏa khói mù mịt... Máy bay - bay vòng qua bên kia sông rồi lượn về hướng nam sau đó rớt xuống đám ruộng. Chúng tôi chứng kiến cảnh chiếc máy bay rơi từ từ mà bất lực... Thật đau lòng ! Cả tuần sau mới nghe tin - chiếc máy bay thả bom bị súng phòng không Cộng quân bắn. Người phi công lái chiếc máy bay tử thương là Thiếu tá Phạm Văn Thặng!
 
Ban đêm đường phố Kontum dìu hiu, tối om, ngoài những chốt chiến đấu bằng bao cát và họng súng chĩa ra, không thấy bóng dáng người dân đi lại, không thấy một tà áo dài hay trẻ nít. Trường trung học Hoàng Đạo, Teresa nằm im thin thít dưới tàng cây. Khu hàng keo và quanh sân vận động lá rơi đầy... Đi trong phố tựa như đi trong Nghĩa Địa. Quá thèm một ly bia, quá thèm một ly chè, quá thèm những ánh mắt tiếng cười...! Còn lại nơi đây có chăng chỉ là... những khuôn mặt đầy lo âu, hồi hộp bước đi vội vội vàng vàng như ma đuổi. Người ra đi di tản nơi phương trời tâm trạng chắc cũng không hơn gì người ở lại. Tôi nghĩ vậy!...
Trường Hoàng Đạo nhớ mắt ai còn níu
cây trong sân run rẩy tiếng đạn bay
bông dã quì phảng phất màu ai điếu
sông ngược dòng giấu mấy giọt cay cay.
 
Nơi công sự tử thủ bên bờ sông Dakbla, tôi gặp một cặp vợ chồng mới cưới. Anh là thiếu úy về phép, cưới vợ được vài bữa là bị kẹt đường ở lại Kontum tử thủ luôn. Chị vợ trẻ không chịu di tản, quyết ở lại cùng chồng, cũng cùng ăn cùng ngủ bên chồng dưới giao thông hào chịu khổ sở như một người lính tử thủ... Hai vợ chồng đã bày tỏ sức mạnh tình yêu trước cái chết cận kề mà không sợ. Họ quyết chết sống bên nhau! Tôi thật lòng nễ phục!
 
Qua hơn ba tháng trời tử thủ. "Kontum Kiêu Hùng" giờ đây đã chiến thắng! Mọi người lũ lượt trở về! Thành phố không mấy chốc đã hồi sinh... nhưng cái giá cho sự hồi sinh là quá đắt! Mất quận Dakto, quận Măng Đen. Một số căn cứ hỏa lực...! Nhưng những cái mất đó rồi cũng có thể lấy lại được cho dù có khó khăn. Nhưng còn hàng trăm, hàng nghìn người lính hy sinh mạng sống hay bị thương tật suốt đời để bảo vệ cho một thành phố Kontum tồn tại thì không bao giờ lấy lại được ! Một số người dân không quay trở về Kontum bởi không còn nhà cửa, đất đai để mà về...! Vùng đất họ ở lâu nay đã bị Cộng quân chiếm! Cho dù rất thương nhớ Kontum! Họ phải sống đời tạm cư trong các trại tỵ nạn để chờ chính phủ cho đi đến một "Vùng Đất Mới" ở đâu đó gầy dựng lại cuộc sống.
 
Cuộc sống đang êm trôi như dòng sông Dakbla hiền hòa. Ai ngờ tháng ba năm 1975 người dân Kontum lại phải "di tản" thêm lần nữa! Lần nầy không phải di tản bằng "không lộ" như xưa - mà là một sự... trốn chạy Cộng quân trên "Tử Lộ 7 B" ! Nỗi kinh hoàng: chết chóc, đói khát...bủa lên thân phận người dân vô tội và binh lính. Từng đoàn xe lần mò theo đoạn đường xương xẩu, gai góc, núi cao, rừng rậm để đến bên bờ sông Krong Ba nước sâu chắn lối . Con đường "sạn đạo" 7 B đi vào ngõ cụt cho dù Trương Lương, Hàn Tín có đội mồ sống dậy cũng chào thua. Xác người dân hai tỉnh Kontum và Pleiku cũng như binh lính Quốc Gia chết rải rác trên suốt con đường 7B! Những địa danh xương máu: đèo Tu Na - Củng Sơn và những đêm đói khát... nằm chờ hoàn thành cây cầu phao để qua bên kia bờ sông Krong Ba... Nỗi đoạn trường này mãi mãi đi vào chiến sử đôi bên - một tội ác của một cuộc chiến huynh đệ mà sự man rợ giết người để chiến thắng - được tôn lên ngang hàng với thần thánh! Mãi cho đến tận bây giờ những người còn sống trong cuộc "chạy trốn" kinh hoàng trên con đường 7 B đó vẫn chưa tìm lại được người thân bị thất lạc...!
 
Những người còn sống "huy hoàng" hiện nay hãy nhìn vô sự thật, chỉ có sự thật mới vỗ về xoa dịu bớt từng vết thương đau ngỡ như đã lành miệng... Nhưng thật ra, vết thương đau đó vẫn còn nhức nhối triền miên trong xương tủy của mỗi người còn sống sót hiện nay cũng như các thế hệ kế tiếp!
Đừng chối bỏ trách nhiệm và đùn đẩy hết cho lịch sử!
 
*
Một buổi chiều tôi đi làm rẫy về, trên vai vác cái cuốc quảy tòn ten phía sau cái bình nhựa nhẹ tênh màu vàng. Thường thường mỗi buổi sáng mẹ tôi đổ vô đó bốn lít nước cho tôi uống trọn một ngày ở ngoài rẫy. Trời mùa hè, đã năm giờ chiều rồi nhưng những tia nắng còn xiên ngang gay gắt. Về đến đầu xóm, tôi thấy một người phụ nữ cầm cây tre dài có mũi nhọn xóc mấy tấm tranh đưa cho người con trai lợp mái hiên nhà. Tôi thấy chị ta có vẻ quen quen hình như có gặp ở đâu đó mà hiện thời không thể nhớ ra...?
Tôi về nhà hỏi mẹ. Mẹ nói: "Khi tạm cư ở Long Thành, mẹ gặp ba mẹ con chị ấy từ Kontum vô, chị nói giọng Quảng Nam, chồng chết trận, nên mẹ rủ ba mẹ con chị ta theo mẹ về đây định cư để giúp đỡ lẫn nhau...Chị ta tên Huệ. Chị ấy coi mẹ như người dì đỡ đầu... Ngày xưa con ít về nên không gặp. Sau này đi tù "cải tạo" thì mần chi mà con biết được. Bộ con có quen chị ta hả...?". Vậy chị ấy đúng là người phụ nữ năm xưa ở dưới khán đài sân vận động Kontum chờ di tản. Sau nầy đứa cháu gái họ của tôi và con trai đầu của chị cưới nhau... Đúng là... quả đất xoay tròn!
 
Những đêm ngày đi tản triền miên khổ ải trên quê hương chiến tranh để lại không biết bao nhiêu là đau khổ. Ngoài sự chết chóc ra - đất đai ruộng vườn nhà cửa hoang tàn đổ nát... Nhưng dù có hoang tàn đổ nát đi chăng nữa, thì tất cả vẫn còn nguyên đó. Trở về và xây dựng lại. Sau ngày "hòa bình"  đất đai bị tịch thu dồn vô "Tập đoàn, Hợp tác xã, rồi quy hoạch giải tỏa...". Đất ruộng vườn vẫn là vấn đề tranh chấp giữa người nông dân với Nhà nước dẫn đến "khiếu kiện" triền miên từ năm này sang năm khác mà không đến hồi kết! Thế mới biết quyền Tư hữu thiêng liêng, quí báu vô cùng! Người dân miền Nam lại tự mình di tản bằng cách “vượt biên” để đi tìm tự do ở các quốc gia tư bản.
Một sự ly hương (di tản) mang nhiều uất ức! Ngày xưa dù sống trong thời lửa đạn. Nhưng vẫn còn có chốn để nương thân trên chính quê cha đất tổ.

Trang Y Hạ
Nhớ về một mùa hè đỏ lửa!

http://trangyha.blogspot.com/2013/10/nhung-em-ngay-di-tan.html
________

Ngày cuối cùng ở Dakto 27/4/1972

Xã Tri Đạo những ngày không yên tĩnh
Đoàn công tác Tâm-Lý-Chiến chúng tôi đang công tác tại xã Tri lễ trên Tỉnh lộ 512 cách phi trường Phụng Hoàng - Dakto 2, chừng 3 cây số thì được lệnh rút về xã Tri Đạo (gần Võ Định) trước Tết Âm lịch 1972, 10 ngày. Xin nói rõ là: Từ Kontum theo QL 14 lên Võ Định - Tri Đạo - Kontranglangloi - Konhnong - Konhring - Diên Bình - Tân Cảnh. Đoạn đường dài khoảng 46 cây số. Từ Tân Cảnh đi tiếp cũng theo QL 14 lên quận Dakto 12 cây số. Từ Tân Cảnh quẹo trái vào Tỉnh lộ 512 lên dốc cao ngang qua Trung đoàn 42 - Phi trường Phụng Hoàng hay còn gọi là Dakto 2. Đi tiếp đến xã Tri Lễ, cầu Dakmót vào tiền đồn Ben Hét hay còn gọi là đồn Bạch Hổ 20 cây số. Nơi đây là ngã ba biên giới, gần đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường huyết mạch của Cộng quân.

Khi đoàn chúng tôi về xã Tri Đạo thì đã có lực lượng Pháo binh và Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù, lập công sự phòng thủ tại cầu Tri Đạo rất kiên cố. Tri Đạo là một xã Dinh điền thành lập năm 1957, dân số khoảng 3000 người đa phần ở Quảng Tín, Quảng Nam và Bình Định gồm 3 thôn, nhưng thôn 3 Bình Định bỏ đi nơi khác từ năm 1965 do Cộng quân tấn công Dakto, chiếm Tri Đạo cắt đứt QL 14 trong thời gian gần 2 tháng. Chúng tôi cùng với ông Xã trưởng. Đơn vị Nghĩa quân, Nhân dân Tự vệ cùng người dân trong xã canh giữ, đề phòng Cộng quân ban đêm xâm nhập vào xã quấy phá... Hơn hết là dựa vào sự yểm trợ của đơn vị lính Dù. Không khí chiến tranh bao trùm rừng núi, tiếng gầm thét của pháo binh, của máy bay suốt ngày đêm, Tri Đạo không bao giờ yên tĩnh!

Tết Âm lịch cổ truyền đến! Người dân trong xã vẫn đón Tết trong không khí tưng bừng! Bánh, trái, vui chơi như: Múa lân, bài chòi, văn nghệ cây nhà lá vườn trong ba ngày Xuân. Tổ chức “Cây mùa Xuân chiến sĩ” xã mua một con bò, còn người dân ai có gì góp nấy: Bánh tét, bánh ú, mứt, trà, thuốc, rượu... gồm hai bao tạ vắt hai bên hông con bò! Ông Xã trưởng và các vị thân hào, chức sắc mặc áo dài khăn đóng cùng chúng tôi, dẫn con bò chở hai bao quà bánh ra Bộ chỉ huy Lữ đoàn dù “Mừng xuân chúc Tết” thể hiện tình Quân-Dân... Tội nghiệp các anh, đời lính xa nhà. Nhìn món quà Xuân... ngồ ngộ! Sau những cái bắt tay, đôi mắt các anh người nào cũng đỏ hoe!

Tình hình chiến sự ngày càng xấu đi, khi căn cứ Charlie sau một thời gian cầm cự... Ngày 14.4.1972 đã thất thủ! Tin anh Nguyễn Văn Đương và Nguyễn Đình Bảo cùng những người lính Dù tử trận! Mọi người ai cũng buồn, lo lắng và có ý định di chuyển về Kontum. Rồi tin từ Dakto và Tân Cảnh bị Cộng quân pháo kích, nỗi sợ càng tăng thêm vì người ta quá biết - chỉ có một con đường QL 14 độc đạo nếu bị chặn là chịu chết!

Lần về thăm nhà định mệnh
Chiều ngày 24.4.1972. Lúc 4 giờ chiều, tôi có mặt tại nhà Cha mẹ tôi ở Diên Bình. Cha tôi nói: “Tụi nó pháo kích vào Trung đoàn 42 mấy ngày nay, còn sáng nay cha ra sau vườn thấy một toán lính nó bảo "Cụ vào nhà đi, đêm nay và ngày mai đừng ra ngoài". Cha không biết lính của ai? Hay mấy chú Nghĩa quân đi gài mìn cũng không biết nữa!” Cha tôi đem ra hai xị rượu thuốc bày ra trên nền sân tráng ciment. Cha tôi nói: “Uống chút với cha, ba bốn tháng nay con với về. Nhớ đêm nay xuống đồn mà ngủ, đừng ở lại nhà, cha linh cảm có chuyện chẳng lành...”. Khi uống xong ly rượu cuối cùng, tôi và cha tôi đếm đi đếm lại cây bông hồng trước sân, cây bông nở vừa đúng 24 cái!

7 giờ tối, tôi có mặt tại đồn Nghĩa quân Diên Bình bên dòng sông hiền hòa vì mùa khô cạn nước. Tôi gặp lại những bạn bè đi phép về thăm gia đình, tối đến thường ra đồn ngủ cho an toàn, nếu có chiến sự thì chiến đấu luôn. Diên Bình đến Tân Cảnh 6 cây số. Nên tiếng đạn pháo từ Tân Cảnh dội về nghe rất rõ. Trung đoàn 42 - Tân Cảnh bị Cộng quân tấn công! Ánh lửa sáng rực một góc trời... Tất cả mọi người đều yên lặng để theo dõi tin tức qua máy truyền tin PRC 25. Người âm thoại viên nói: “Em không liên lạc được với Chi khu Dakto” Trung tá Lò Văn Bảo, Quận trưởng quận Dakto.
Người hùng của Chi khu tiền đồn heo hút giờ nầy ra sao? Cũng không biết, tôi thật sự lo lắng! Với tôi Trung tá Bảo - ngoài một số công tác, còn có một chút kỷ niệm. Đó là, một lần trong quán ăn tại Tân Cảnh, các anh BĐQ tại Ben Hét tưởng lầm tôi giống ai đấy... nên đến “mượn” súng của tôi đem về đồn. Tôi trình bày sự việc với Trung tá Bảo. Ông cười chẳng nói gì. Vậy mà hai ngày sau ông gọi tôi lên. Ông nói: “Súng chú em ở trong hộc bàn”. Sau này tôi làm Tổ trưởng phòng phiếu đơn vị Ben Hét 2 lần các anh nhận ra và bắt tay xin lỗi - cười xòa. Đêm nay, trong cái đồn Nghĩa quân nhỏ bé bên dòng sông, hầu như không một ai nói đến chuyện đi ngủ.

Càng về sáng tiếng nổ càng ít dần và các đám cháy vẫn còn nghi ngút khói... Nhưng có một điều chúng tôi không hiểu là tại sao không có chiếc máy bay B52 nào đến bỏ bom? Cũng không có máy bay phản lực nào bay đến oanh kích?... Chín giờ sáng anh em chúng tôi vẫn còn ở trong đồn, chưa dám về nhà, bởi không thấy ai từ Tân Cảnh chạy về báo tin sống chết như thế nào. Thì có một bà mẹ gìa đến báo: “Cộng quân chặn đường ngay đầu thôn 1 - không thể đi xuống làng Konhring được nữa!”

Dồn lực mở đường
Lực lượng gồm có: 1 Trung đội Nghĩa quân, 10 CB/XDNT; 20 Nhân dân Tự vệ Ấp; lính về phép 10 người. Vũ khí gồm có: Súng cá nhân M 16, Carbine, 2 Trung liên, 2 súng phóng lựu M79 và lựu đạn. Là dân địa phương nên rành địa hình, chúng tôi cho người mò về thám thính và được biết phía sau những vườn chuối gần xóm nhà cha tôi chạy dài ra sông Dakpsi, Cộng quân bố trí nhiều ụ súng phòng không và những cột truyền tin, đào hầm hố có vẻ bám giữ lâu dài. Về quân số có thể là cấp Tiểu đoàn hoặc Trung đoàn. Chúng giữ dân trong nhà bắt xuống hầm trú ẩn nên chúng tôi đành chịu... Tuy nhiên chúng tôi cũng tổ chức tấn công áp sát và khiêu chiến đến 2 giờ chiều nhưng không hiệu quả. Cộng quân vẫn án binh, thỉnh thoảng mới bắn ra nếu chúng tôi đến gần. Đành rút về sân vận động giữa thôn nghỉ ngơi, chúng tôi có ba người bị thương nhẹ.

Di tản bằng đường vòng
3 giờ chiều ngày 25.4.1972. Anh em chúng tôi thấy lính Trung đoàn 42 đi xuống, đến sân vận động gặp chúng tôi. Người Thiếu tá đi đầu nói: “Trung đoàn thất thủ trong đêm hôm qua, anh em còn lại phải về Kontum gấp, các anh có đi theo không?” Tôi nói: “Cộng quân chặn đường, chúng tôi cố mở từ sáng đến giờ nhưng không được...” Người Thiếu tá nói: “Chúng ta đi bọc. Địa hình thôn 1- lưng dựa dòng sông Dakpsi, trước mặt là đồng ruộng mênh mông chen lẫn những gò mối và đồi cỏ thấp”. Do đó chúng tôi băng ruộng đi bọc xuống Konhring. Tôi ước tính lính Trung đoàn còn lại chừng 200 người. Súng cá nhân còn đủ, 3 xe M 113 chở người bị thương và vũ khí đạn. Trên nét mặt mọi người không hốt hoảng, nhưng đăm chiêu mệt mỏi, không ai nói với ai lời nào, cứ âm thầm mà đi. Từ Diên Bình xuống Làng Konhring khoảng 3 cây số (sau nầy nghe nói toán quân về được Kontum). Tôi đi vào Làng Konhring lúc này đã hơn 4 giờ chiều nhưng bầu trời còn sáng tỏ. Sở dĩ tôi không theo đoàn quân vì tôi nán lại chờ tin tức cha mẹ và các em tôi.

Đêm Konhring - Thức trắng!
5 giờ chiều. Tôi vẫn đứng như trời trồng tại ngã ba Konhring, trong lòng ngổn ngang trăm mối... nếu đêm nay trở lại tìm người thân chắc chắn sẽ bị bắt, còn không thì sáng mai buộc phải về Kontum mà nghe trong lòng tan nát! Bỗng dưng như một phép lạ! Đoàn người dân từ Tân Cảnh, Diên Bình, Dakrao... ào ào kéo xuống... Người khỏe cõng người bị thương; phụ nữ bồng bế con thơ, mặt mày thất sắc; người già tựa vào người trẻ lê thê, lết thết đi trong bóng chiều như những hồn ma… (tôi nhìn thấy có Cha Carat Linh mục thừa sai Paris, Chánh xứ họ đạo Diên Bình và một ít lính Trung đoàn 42). Tôi gặp đứa em gái thứ 6 của tôi trong đoàn người. Nó còn quá nhỏ nên tôi chẳng biết gì hơn ngoài những giọt nước mắt tuôn rơi!
Làng Konhring nhỏ xíu, số người di tản quá đông, người ta nằm la liệt trong nhà thờ, trong bệnh viện do các nữ tu quản lý. Họ cứu chữa những người bị thương, lo ăn uống. Tiếng kêu khóc! Cha mẹ, vợ chồng, anh em, con nít lạc nhau trong lúc chạy hoặc còn kẹt lại ở nhà. Nỗi lo lắng là đêm nay cộng quân pháo kích hoặc đến bắt đi vào rừng. Bởi bây giờ lính Trung đoàn 42 tan rã, không còn ai nữa bảo vệ dân...!!!

11 giờ đêm. Hàng loạt tiếng nổ long trời từ hướng Diên Bình và sông Dakpsi, có những tiếng nổ sát làng Konhring đinh tai điếc óc... tiếng dội của bom chấn động dữ dội mọi người bụm hai tai, điếng hồn. Tiếng kêu khóc hoảng loạn chạy ra khỏi nhà thờ, bệnh viện bởi tiếng rung chuyển từ mặt đất. Sau 10 phút trôi qua mọi người ngơ ngẩn sờ nhau như những hồn ma tìm về dương thế... Tôi và những người lính thì không lạ gì tiếng bom của máy bay B 52. Nhưng ngạc nhiên là tại sao đêm hôm trước không thấy B52 thả bom cứu Trung đoàn 42. Sau đó B52 còn bỏ thêm đợt nữa nhưng xa hơn (sau 1975 VC tuyên truyền rằng: Mỹ bỏ bom giết dân tại làng Konhring...). Thật là hồ đồ hết biết! Không có người dân nào chết, chỉ sợ và hoảng loạn thôi. Chính Trung đoàn Cộng quân chốt chặn tại Diên Bình có thể bị tổn thất do trận dội bom B52 đó. Bằng chứng là sáng ngày hôm sau 26.4, những người dân do chúng giữ đều chạy xuống Konhring được hết, không thấy ai ngăn cản.
Đêm nay ở Konhring mọi người đều thức trắng!

Đi vào rừng tìm Tự do
Konhring - 5 giờ sáng ngày 26.4.1972 dân chúng vội vã chuẩn bị lên đường về Thị xã Kontum. Cha xứ Carat người Pháp - chánh xứ Diên Bình dẫn đầu đoàn con chiên ngang nhiên đi trên QL 14, khi vừa đến khúc quanh làng Konhnong. Thì gặp Cộng quân chốt chặn ở đó đón lỏng (làng Konhring cách làng Komhnong 3 cây số) Cha cố Carat bị bắt! Dân chúng nhất là các chị, các bà xúm nhau khóc lóc, quỳ lạy, năn nỉ... xin đừng có bắt ông Cha - nhưng Cộng quân không chịu và còn giữ luôn họ vì tội chạy theo “Mỹ - Ngụy”, tốp phía sau nghe tin dữ vội vã tháo chạy ngược về lại Konhring thông báo: Cộng quân chặn đường ở làng Konhnong! Như vậy là trước sau đều thọ địch. Không oan gia mà lại gặp ngõ hẹp! Nghe tin như sét đánh ngang tai tôi bàng hoàng... như vậy chỉ còn một cách là băng rừng.

8 giờ sáng đoàn người kéo nhau vào rừng. Tôi nấn ná ở lại chờ xem trên Diên Bình có còn ai xuống để hỏi thăm tin tức gia đình. Thấy không còn hy vọng, tôi dắt đứa em quay đi, thì tôi nghe một người đi ngang qua và nói: “Hình như tôi có thấy người nhà của anh đang đi xuống”. Gặp lại Mẹ các em gái và đứa cháu 4 tháng tuổi. Cha tôi bị Cộng quân bắt vào rừng (sau này có người cho biết ông nhớ vợ con nên trốn về nhà tìm và bị bắn chết trên đám đất của ông. Người con đỡ đầu nhận ra Cha tôi và đã chôn ông. Anh cũng bị bắt làm tù binh, sau năm 1975 đi Cải tạo 6 năm. Hiện định cư tại Hoa Kỳ). Từ làng Konhring xuống Tri Đạo khoảng 20 cây số. Nhưng đi đường rừng thì vô cùng nguy hiểm.
Tôi đi sau nên không biết những người đi trước đi theo ngã nào. Nhóm còn lại sau cùng theo tôi có 2 Sĩ quan Trung đoàn 42, 15 thành viên gia đình người Thượng, một số người kinh và gia đình tôi tổng cộng 31 người. Không có bản đồ và địa bàn, cũng may là tôi sống ở vùng này nhiều năm và am hiểu địa hình. Tôi không dám đi theo đường mòn - đường mòn dễ bị Cộng quân chặn bắt. Tôi nhắm hướng đồi Charlie đi vào nhằm tránh chốt chặn tại làng Konhnong, dặn mọi người im lặng và không cho con nít khóc. Trên đường đi chúng tôi thấy rất nhiều dây điện thoại của Cộng quân giăng ngang và những dấu chỉ dẫn đường khắc trên những thân cây. Sáu giờ chiều chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi trong cánh rừng rậm. Khoảng 12 giờ đêm chúng tôi nghe rất nhiều tiếng nói vọng lại, toàn giọng Bắc. Tôi thì thầm với mọi người bình tĩnh và tuyệt đối im lặng, lấy tay để hờ trên miệng mấy đứa nhỏ, nếu nó khóc thì bụm miệng nó lại. Chừng 1 giờ sáng máy bay B52 đến bỏ bom từng đợt... từng đợt... gần một giờ. Chúng tôi ngồi dựa vào những gốc cây chờ sáng...

Hôm nay là ngày 27.4.1972. Trời vừa hừng sáng, chúng tôi không còn nghe những giọng Bắc vọng lại như hồi khuya, chỉ nghe tiếng chim kêu rời tổ. Tôi đoán trận bỏ bom hôm qua họ chuyển đi chỗ khác chăng? Thôi, mặc kệ họ! Nhiệm vụ của tôi bây giờ là tìm đường ra xã Tri Đạo. Tôi nói với hai người Sĩ quan là chúng ta đi về hướng tay trái, cũng mở đường mà đi. Chúng tôi thay phiên nhau vén cành cây, không gây tiếng động, đạp cỏ, loài cỏ ba khía bén ngọt, nhùng nhằng cắt nát chân tay mặt mày chúng tôi, cộng với mồ hôi túa ra xót ngứa đau đớn vô cùng! Tội nghiệp hai người Sĩ quan ở miền xuôi đổi lên Cao nguyên tăng cường chiến đấu chưa được bao lâu. Nay gặp hoàn cảnh nấy, bản thân đói khát nhưng còn phải giúp đỡ phụ nữ và trẻ thơ qua đèo vượt suối...

Đến khoảng 11 giờ trưa, tôi leo lên cây cao và nhìn thấy QL 14 gần cầu Tri Đạo. Không nghỉ ngơi gì cả chúng tôi bồng bế nhau chạy qua cầu! Trời mùa Hạ buổi trưa nắng nung mặt đường nhựa bốc khói... Vậy mà chúng tôi: Chân không giày dép, đầu không nón, áo quần tả tơi, đói khát ba bốn ngày qua vượt rừng băng suối... cứ cắm đầu, cắm cổ chạy như ma đuổi. Đến xã Tri Đạo chúng tôi hoàn toàn kiệt sức. Dân ở đây di tản hết mấy ngày trước. Chỉ còn Ban tiếp nhận những người từ Dakto chạy xuống. Chúng tôi được đưa lên xe về Thị xã Kontum!

Bỏ Quận Dakto
Sau đoàn người chúng tôi, không còn một ai chạy thoát được, tất cả đều bị bắt vô rừng. Âm mưu của Cộng quân là giữ dân để tuyên truyền với thế giới là dân chúng bỏ vùng Quốc gia về với Quân giải phóng. Quận Dakto coi như bỏ ngỏ để cho Cộng quân miền Bắc kiểm soát... Tôi thương nhớ Dakto - thương nhớ Tân Cảnh - thương nhớ Diên Bình - nơi một phần tuổi thơ của tôi ở đó! Em gái tôi chết lúc ba tuổi cũng ở đó! Cha tôi chết cũng ở đó! Những người bạn chiến đấu của tôi cũng ở đó! Tôi có khóc đâu... mà sao nước mắt... cứ rơi!

Trang Y Hạ
Những ngày cuối cùng ở Dakto. Tôi viết bằng sự thật không một chút hư cấu. Để tưởng nhớ Cha tôi và những người Chiến sĩ VNCH vì bảo vệ miền Nam Tự do cùng với người dân vô tội nằm xuống vĩnh viễn nơi núi rừng đèo heo hút gió!

http://hon-viet.co.uk/TrangYHa_NgayCuoiCungODakto27April1972.htm
https://huongduongtxd.com/vuon_trangyha.html
_________


Tản mạn về ngày 30.4
 
Thấm thoát thời gian đã đi qua một chặng đường dài - Bốn mươi lăm năm! Kể từ ngày “giải phóng 30.4”. Nhớ lại những ngày tang thương…! Tôi từ KonTum chạy về Sai Gòn, được phân công làm công tác tiếp cư ở làng Đại học Thủ Đức. Làng đại học lúc bấy giờ chưa xây xong hoàn toàn, còn ngổn ngang: gạch, cát, đá…, chỉ có một số phân khoa hoàn thành. Dân tản cư chạy giặc từ vùng một, vùng hai và một số tỉnh lân cận chạy về Sai Gòn đều tập trung về làng đại học. Người tản cư được tiếp tế: thức ăn, nước uống, chăn chiếu... Mỗi ngày ngong ngóng chờ tin tức người thân và tình hình chiến sự...! Hằng ngày xúm lại mở đài BBC theo dõi tin tức.
Đài nầy loan tin quân miền Bắc như có cánh… Thắng như chẻ tre - rượt đuổi quân dân miền Nam… Chính đài nầy cũng đã góp thêm “thành quả” cho quân miền Bắc.
Tất cả mọi người - đứng ngồi gần chỗ loa phát thanh, để nghe ông Tổng Thống Thiệu đọc diễn văn từ chức... Ông tổng thống Thiệu nói “Đồng bào mất đi một tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng đồng bào còn một trung tướng Nguyễn Văn Thiệu… làm bạn của Mỹ rất khó, làm kẻ thù của Mỹ rất dễ…”. Bà con nhìn nhau ngầm hiểu là số phận miền Nam đã cáo chung! Tôi quay người đi ra, bất chợt thấy một người đàn ông dáng dấp giống ông thầy năm lớp nhứt, - thầy Tôn Thất Đ…! Tôi kêu tên thầy, thầy quay lại ngơ ngác… rồi dòng người quá đông chen lấn qua lại, chẳng còn thấy bóng dáng thầy…!

Tôi cũng như bao người lính và dân miền Nam, sau khi nghe “lệnh đầu hàng của tân tổng thống Dương văn Minh”. Nước mắt cứ trào ra tức tưởi…! Ngước lên trời - màu trời trong xanh lưa thưa một vài áng mây trắng bay ngang qua, ước chi được ngồi trên đám mây ấy. Không ai nói với ai lời nào, lặng lẽ ôm chút đồ đạt rời làng đại học, chưa học một ngày nào để trở vô Sai Gòn, hoặc tìm cách về quê. Tôi nghe người con gái tuổi khoảng đôi mươi nói với người thiếu phụ có lẽ là mẹ - "Thật nhục nhã! - Thua thật là nhục nhã!".

Từ làng đại học tôi cùng mọi người đi bộ về Sài Gòn… Đến Thủ Đức, tôi gặp các lớp tân binh trong trường bộ binh Thủ Đức, họ bỏ trường túa ra rất đông, đầu trần, họ bình tĩnh di chuyển ngay hàng bên phải, không vội vã… Trên người họ vẫn mặc đồng phục của quân trường. Những tân binh im lặng, lầm lì…, họ cũng đi về hướng Sài Gòn như chúng tôi. Từ nội ô Sài Gòn, trưa 30.4 dân chúng ào ạt dùng tất cả mọi phương tiện trở về quê; người đi ra quá đông còn người đi vô như chúng tôi thì ít. Tôi đi tới đầu cầu Tân Cảng Sai Gòn nơi Quân Cảng Hải quân VNCH. Tôi thấy ai phá kho dự trữ thực phẩm dưới chân cầu và nhào vô lấy đồ hộp…
Một bác xích lô đưa cho tôi một bình thủy tinh nước ép trái cây lớn. Một vài người dùng xe xích lô, chở “chiến lợi phẩm” ngược vào Hàng Sanh, cộng với người và xe đi trở ra tạo nên cảnh kẹt xe không thể nào chen chân được. Không Cảnh Sát, người dân tự dàn xếp với nhau để mà đi, trên khuôn mặt nặng trĩu nỗi buồn pha chút hoang mang… Trên mặt cầu còn những vỏ đạn và vết máu…!
Tôi cũng chen lấn để qua cho khỏi cầu Tân Cảng Sai Gon và đến được ngã tư Hàng Sanh. Tôi vô quán nước ngồi kêu nước uống và nghỉ chân. Ngồi nhìn quang cảnh dân chúng phá kho gạo... Họ nườm nượp đi khuân chở gạo, mặc cho trời nắng như thiêu. Lúc nầy, đối với họ nắng nôi đâu có gì là quan trọng đâu! Lo cho cái ăn là chính. Tôi kêu tính tiền, một cặp có lẽ là vợ chồng, tóc đã hoa râm, mỗi người hai tay xách hai thùng tròn, khoảng một “galon” chạy lại nhờ tôi xem những cái lon nầy có phải thức ăn hay không? Tôi nhìn trên lon, ghi tiếng Anh. Tôi nói: “Đó là thùng sơn màu trắng”. Họ không tin lời tôi nói, và cứ xách mấy thùng sơn đó lẫn theo dòng người...

Trên đường phố Sai Gòn xe tăng quân miền Bắc phủ đầy cành cây rừng, trên pháo tháp, trên nòng pháo, trên nón và xung quanh lưng quần. Một số người ở trần, họ mặc quần dùi, họ cũng quấn lá quanh người, ngồi trên xe “motolova”. Một số ít dân chúng cầm cờ mặt trận “giải phóng miền Nam” tung hô, đông nhất là thanh thiếu niên đeo băng đỏ ngồi trên những xe jeep vẫy cờ hoan hô… chiến thắng!
Sai Gòn lúc hỗn loạn, không còn ai kiểm soát, ai cũng có quyền lấy đi bất cứ thứ gì, miễn lấy được thì lấy...! Họ vào trong những nhà hàng, khách sạn… như chỗ không người. Bởi giờ nầy đâu có còn ai quản lý trông nom, tất cả đi tìm cho bản thân và gia đình một con đường thoát…! Văn hóa phẩm: Sách và những văn bản, băng đĩa vứt ra trắng đường…! Đường Yên Đỗ nơi có Thư Viện Đắc Lộ, đội đeo băng đỏ đem hết sách ở đây ném ra ngoài vỉa hè từng đống…! Những nhà sách khác cũng chịu hoàn cảnh tương tự. Sách anh văn, sách giáo khoa, bói toán, kiếm hiệp, tiểu thuyết, thơ, sách dịch, phim ảnh… đều vứt bỏ hết. Những tủ sách gia đình cũng bỏ ra đường, không ai dám lưu giữ, sợ bị qui cho cái tội “truyền bá văn hóa đồi trụy Mỹ Ngụy”. Tôi nhìn thấy bộ sách “Bộ Luật Hành Chánh”. Thèm lắm! Nhưng đành quay mặt…! Bản thân giờ nầy không còn hướng để đi thì sách đâu có còn ý nghĩa gì nữa đâu! Giao thông bát nháo, ai muốn chạy tới đâu thì chạy không theo quy tắc gì hết.
Những “chú bộ đội” nắm tay nhau đi từng tóp năm, tốp ba vì sợ thất lạc, có người mang giày (hình như mới kiếm được), nhìn chung nhưng hầu hết đều mang dép râu… Mấy chú ấy, ngơ ngáo, trầm trồ, chỉ chỏ… - họ chỉ nói chuyện với nhau và đi tìm mua đồng hồ đeo tay… Ở Sai Gòn, ngoài đồng hồ Seiko tự động của Nhật ra, thì đồng hồ Hồng Kông cũng tương tự, nhưng bị nhái, nên mới có câu: “Hồng Kông bên hông Chợ lớn” là vậy! Mấy chú bộ đội hầu hết bị mấy thanh niên chiêu dụ mua loại đồng hồ bên hông Chợ Lớn nầy.
Những cô gái có móng tay dài đều phải cắt cụt (?) son phấn, nước hoa cũng bỏ (!) Đồ dùng bằng inox cũng ném xuống cống (?). Ai ai cũng chờ xem “cách mạng sẽ đối đãi” như thế nào với người Sai Gòn! Một buổi chiều tháng năm, tôi đi trên đường Petrus Ký, đoạn gần đường Trần Hưng Đạo, thấy người ta xúm nhau xem truyền hình… Tôi dừng lại xem thử, tôi thấy một O du kích mặc áo bà ba dẫn đoàn xe tank bộ đội vào giải phóng Sai Gòn. O du kích ngồi trên xe tank quấn khăn rằn quanh cổ, vai mang súng AK, cười - trông dáng cô rất oai phong… Tôi nghe nói là cô Nhíp nào đó - người con gái của đất Sài Gòn.

Tôi chạy xe ra ngã tư Trung Chánh, Hóc Môn… Thấy người dân ở đây thong dong đi lượm những bộ quần áo, giày nón của lính “Ngụy” đem giặt rồi phơi trên hàng rào chung quanh vườn… Họ thản nhiên cười giỡn như chưa hề có một cuộc “thay ngôi đổi chủ” với nỗi tang tóc bị ai còn đang diễn ra sờ sờ trước mắt… Tôi hỏi: Không sợ cách mạng bắt sao…? Một người phụ nữ trả lời tỉnh queo, rằng: Lượm giặt sạch để dành mặc đi lao động chứ - hơn nữa tôi cũng là người của cách mạng, tôi sợ chi…? Như vậy, là… chỉ có tôi sợ thôi! Tôi nhận thấy có những người già họ đi lượm mấy tấm ảnh, sách, băng nhạc kể cả cờ vàng…!

Tôi đến ngã năm và Quân Y Viện Cộng Hòa, ở đây những người thương bệnh binh đang tìm đường về quê, trên người còn bông băng… Nhiều người không có ai đón, hoặc ở xa đành phải ra - nằm ngồi ngoài đường xin ăn, xin tiền để tìm cách về nhà! Tôi thấy một người phụ nữ trẻ, đang ẵm một người thương phế binh ra chiếc xe xích lô, chẳng biết cô ấy đi về đâu…?! Thấy tình cảnh đau lòng… Tôi viết vội: “Vợ tao ẵm tao như một đứa trẻ sơ sinh” nét vô túi áo. Và sau nầy tôi làm bài thơ “Tâm sự người thương phế binh, hoặc có tên khác là “Những người lính năm xưa”. Dân chúng Sai Gòn “háo hức” đổ xô đi dự lễ Lao Động một tháng năm và xem xe tank của bộ đội…!
Ngày nào phe ”cách mạng” cũng kêu gọi anh em “Nguy Quân, Ngụy Quyền” ra trình diện. Hai tuần sau, tôi lại “Ủy ban quân quản” tại tỉnh Gia Định cũ trình diện. Ở đây, họ cấp cho tôi một mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay do ông Cao đăng Chiếm ký tên. Họ bảo tôi về nhà chờ giấy báo đi học tập… Nhà (cha mẹ nuôi) của tôi ở bến Hàm Tử gần cổng sau Bịnh Viện Chợ Quán, phía bờ sông… Người nhà bảo tôi đi khuân gạch từ dưới ghe bầu lên bờ, kiếm chút tiền sống qua ngày... Một miếng ván dày, bề ngang chừng hai tấc - bắc từ thành ghe bầu lên bờ, chồng gạch cao tới cổ họng, đi không quen, tôi bị trật chân rơi tõm xuống sông liên tục…!

Một hôm mẹ bảo tôi về quê nhận đất để khỏi đi học tập. Tôi ra bến xe miền Đông ở Ngã Bảy xếp hàng chờ mua cho được cái vé... Nhưng tìm hoài không thấy cái số xe số ghi trong vé. Tôi lơn tơn lại quầy vé nghía vô cái sổ phân “tuyến xe”… Ông già có khuôn mặt ốm, ngồi cạnh cái cuốn sổ. Ông ta nhìn tôi rồi đập bàn, quát: Anh có biết tôi là ai không? Sổ nầy là sổ gì không? Tôi trả lời rằng tôi không biết. Ông ta nói tiếp với vẻ mặt của kẻ đắc thắng: Tôi là cán bộ quản lý khu vực nầy, muốn gì thì phải hỏi tôi, không được dòm ngó lung tung... Dằn mặt tôi xong ông kéo trong hộc bàn ra cái “băng đỏ” đeo vào tay áo. Tôi im thin thít và nghĩ: Thì ra, ông nầy cũng là… “cách mạng 30.4”! Ông cán bộ, quên đeo cái “nhãn hiệu” - vậy là ổng chửi oan cho tôi…
Từ đó, tôi tự nhắc nhở mình phải cẩn thận hơn!

Về quê được mấy hôm, tôi được mấy anh du kích xã lại mời tôi tới xã trình diện và khai lý lịch… Người lấy lời khai của tôi là một O du kích còn rất trẻ, cây súng lúc nào cũng kè kè bên hông của cô ấy. Tôi ngồi vắt chân, cô nói nhỏ: “… bỏ chân xuống...!”. Độ nửa tháng sau, tôi nghe trên loa xã kêu tên tôi và cho biết hãy chuẩn bị tiền ăn mười một nghìn sáu trăm đồng (11.600) và quần áo, xuống xã để đưa tới nơi học tập trong vòng 20 ngày. Chỉ “hai mươi ngày” rồi về thôi. Vậy mà… hơn bảy năm trôi qua trong tù tội... Tôi còn may mắn hơn những chiến hữu khác là Chúa giữ cái thân tôi cho các em, cho mẹ tôi! Tôi cảm ơn các em và mẹ đã “thăm & nuôi” tôi - nuôi một thằng “con nít” mới ngoài hai mươi tuổi đầu! Tôi khâm phục và biết ơn những người phụ nữ. Họ là người lính “hậu phương” không số quân trong thời chiến. Ngày “hòa bình”, một mình nai lưng làm lụng để nuôi con, nuôi chồng trong tù… Chưa kể trên đầu họ và con cái của họ còn phải mang cái “lý lịch gia đình Ngụy” và mất hết quyền lợi…! Ai, ai là người vinh danh hay gắn huy chương cho họ đây…?!

Cuộc chiến đã im tiếng súng gần nửa thế kỷ, những người thất bại chừ họ cũng đã chết, không còn lại bao nhiêu, mà có còn cũng đã “sương trắng miền quê ngoại”, lang thang tìm kế sinh nhai trong mọi ngõ ngách trên quê mẹ Việt Nam và lang bạc khắp nơi trên thế giới...! Những người thất bại còn mang trong thân thể vết thương chiến tranh, lê lết… Cho dù có lành sẹo thì cũng dễ bung ra một khi đọc một bài báo, một câu nói hay một cái nhìn không mấy thiện cảm của mọi người…! Gần nửa thế kỷ đi qua… Vậy mà… thương thay, vẫn nhìn nhau bằng mặt chứ không bằng lòng… Chuyện lịch sử vẫn còn y nguyên đó - làm sao mà quên - có kẻ khuyên hãy quên quá khứ… Quá khứ định hình cho tương lai… làm sao mà quên đây? Người Mỹ có câu nói “Tôi tha thứ, nhưng tôi không quên”. Đúng, kẻ đó khuyên người khác quên vì họ không mất thời gian ở tù… Vua Văn Vương đi tù bảy năm ở Dĩu Lý. Ông cũng cũng đâu có quên những tháng năm tù đày đâu! Ông để lại câu nói truyền tụng tới mấy nghìn năm nay chưa bao giờ mất giá trị “Nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại hề”. Tôi mượn hai câu đối của ông Nguyễn Hữu Đang (1913 – 2007) trong “nhóm nhân văn giai phẩm”, để tạm kết thúc.
- Nào công, nào tội, nào nhục, nào vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi.
- Vận nước, vận nhà, biết thời, biết thế, quí cuộc đời Nguyễn Trãi, Trương Lương.
(Nguyễn Hữu Đang)

Trang Y Hạ
Viết tại San Francisco

https://www.facebook.com/ha.trangy
__________

 

Màu than của đêm

Ba chiếc xe thồ, mỗi chiếc chở ba bao tạ than, trọng lượng của mỗi xe tệ lắm cũng trên hai trăm ký lô. Mỗi xe thồ có hai người thay phiên nhau cầm lái và phụ đẩy... Từ trong rừng - lúc nầy đã là năm giờ chiều, đoàn người ăn vội vàng vài củ khoai lang, khoai mì nướng chấm với: muối đậu phộng có thêm đường. Không cao lương mỹ vị nhưng mọi người ăn rất ngon lành, không ăn thì không có sức mô mà đẩy xe than đến vựa để bán trong đêm nay.

Trời miền Đông, vùng Căn Cứ cuối năm nắng cháy lẫn gió nồm nam thổi liên tu bất tận, cây cối thiếu nước lại thêm gió lùa xơ xác trông thật tội nghiệp. Ban đêm gió vẫn còn sốt sắng thổi, nhưng yếu hơn... Vùng đất rừng vào mùa khô, sau khi thu hái hoa màu xong người dân hầu như hết việc làm, chỉ còn cách vô trong rừng: cưa cây, cưa củi, đốt than, chặt tre, lấy mây, đục máng heo, đem ra chợ bán kiếm chút ít tiền lo sắm sửa cho ba ngày tết... Khổn nỗi... phải lén lút! Nếu không lén lút, lỡ "may mắn" gặp các anh cán bộ "kiểm rừng" là coi như - bị tịch thu sạch hết... Ba chiếc xe thồ chở than hì hục đẩy vượt đường rừng lúp xúp chạy gần hai giờ mới về đến gần bìa làng. Đoàn người dừng chân nghỉ ngơi bên bờ suối cạn. Đi ban đêm trời mát lại thêm gió mùa rứa mà trên lưng áo mỗi người đều ướt nhẹp mồ hôi, đoàn người lấy bình nước mắc trên xe đạp thồ ra chuyền cho nhau uống ừng ực... Uống xong tất cả ngồi bên vệ đường thở dốc... Một người trong bọn họ nói:
- Mấy củ khoai mì, khoai lang, rơi rớt dọc đường hết rồi anh hai ơi!

Người đàn ông - anh hai - làm "đoàn trưởng" ngước nhìn lên bầu trời đầy sao... Cơn gió của đêm dịu mát hong mồ hôi trên lưng áo, áo chưa khô còn hơi ỉu... ỉu... Anh ta hỏi:
- Mấy giờ rồi rứa hè?
- Bảy giờ! Một người trả lời có cái giọng giống: Kim Mao Sư Vương!
- Bộ... muốn "họ" biết anh em ta đi bán than lậu chắc?
- Xin lỗi anh hai! Tại cái mỏ... ếch kêu oang oang... của em sửa hoài mà hổng được...
Trên nét mặt khắc khổ của người anh Hai đượm vẻ đăm chiêu, lo lắng... Anh ta đứng lên căng mắt nhìn về hướng con đường quanh co hẹp tré đi tắt ở phía sau làng. Từ con đường tắt nầy có thể "vượt trạm" nếu có người dẫn đường đi suôn sẻ chừng một giờ là đến chỗ vựa "thu mua" than. Trong lòng người đàn ông anh hai cũng đã nghĩ đến chuyện "Sau khi bán được số than sẽ dẫn các em tìm một nơi ăn uống, lai rai vài xị rượu cho ấm lòng quân tử lúc thất thế sa cơ...". Người anh hai nói:
- Các chú em đói lắm phải không? Ráng chịu đựng khoảng một giờ nữa,... bán than xong chúng ta sẽ đi giải quyết chuyện cái bao tử. Anh cũng đói lắm rồi!
Ba chiếc xe thồ than đã giấu trong mấy bụi chuối... Một bóng đen lù lù càng lúc càng gần, cái bóng đen đi đến vừa đúng chỗ "hẹn", anh ta: ngó... ngó... chung quanh không thấy ai. Cái bóng đen đưa tay lên, búng: Tróc... Tróc...Tróc...! Thì ra, đó là tín hiệu... Tức thì người anh hai từ trong bụi chuối bước ra, nói:
- Răng mà trễ như rứa hỉ? Đã qua bảy giờ tối rồi, đi trễ quá "chó" sủa om sòm mấy anh "kiểm rừng" phát giác là chết cả đám.
- Không răng... Bữa ni mấy ổng đang bận bịu công việc - ăn đám thôi nôi đứa con trai của chủ vựa than... Em dẫn mọi người đi đường tắt chừng hơn nửa giờ là ung dung băng qua đường cái quan thẳng ra phía sau nhà - người của chủ vựa than đợi ở đó, họ sẽ cân mua nhanh gọn... Anh hai khỏi lo, thằng em đã "ba-rê" hết trơn rồi.
Người anh hai ra lệnh cho đoàn xe lăn bánh. Đúng là lộ trình đã có quân "tế tác" điều nghiên kỹ lưỡng nên cuộc "hành quân đêm" không gặp chướng ngại vật hay địch quân phát giác. Khi gần đến nhà chủ vựa than, đoàn quân tỏ ra căng thẳng, hồi hộp... Không hồi hộp làm răng được, đi bán than chui mà...! Ánh đèn mănxông từ trong nhà chủ vựa hắt ra chiếc xe hơi có cái thùng sắt to kềnh đeo lủng lẳng phía sau đuôi trông rõ mồn một. Trong nhà; tiếng cười, tiếng nói, tiếng cụng ly chan chát... Vọng thinh âm ồn ào xoáy vô màn đêm đến nỗi con dế ngoài vườn sợ sệt nằm im không dám gáy... Con chó vện ngồi phía trước hiên vẻ mặt vênh váo, hớn hở! Trong lòng nó rộn ràng bởi được một bữa vui lây cái đám thôi nôi con của chủ nhà, nó say sưa hít... hít...! Ngửi ngửi... mùi thịt nướng thơm lừng, mơ... mơ... cục xương nên quên mất nhiệm vụ canh gác...

Sau ngày "hòa bình - thống nhất"! Xe đò bỏ xăng dầu, chạy bằng thứ nhiên liệu mới, đó là than củi! Chiếc xe nào cũng có cái thùng sắt to tổ tía đeo lòng thòng nơi đít xe, người lơ xe ngồi phía sau thỉnh thoảng cầm cái cục canh bằng gỗ gõ... gõ... vô thùng than. Nhất là lúc xe bò lên dốc yếu lửa anh lơ xe càng gõ dữ tợn... Bụi than khói bay ra phủ đầy
trên đầu, đầy trên cổ, đầy trên quần áo hành khách... Thời đại nầy, không có mấy ai dám mặc quần áo trắng đi xe than bao giờ. Xe than chở gỗ súc: gỗ lim, gỗ căm xe, gỗ trắc, gõ đỏ, gõ bông lau, bằng lăng... chất kín trong lòng xe chạy thẳng về Hố Nai, Biên Hòa bán cho các tiệm mộc. Hành khách đi xe đò ngồi đối mặt nhau trên hai dãy băng ghế dọc theo thân xe, chân gác lên trên các súc gỗ được che chắn bằng tấm bạt và giỏ xách của hành khách... để ngụy trang. Che là che cho có chứ tất cả các trạm đều đã được bôi thuốc, nên xe chạy trơn tru... Đôi khi cũng có bị "ách"! Lý do ngoài ý muốn...
Cung cấp than cho các nhà xe là người đốt than. Người chủ xe mua than không phạm pháp. Người đi đốt than, bán than mới là kẻ phạm pháp, bởi tội phá rừng! Người anh hai và người dẫn đường sau khi cân bán than xong, liền chạy thẳng ra điểm hẹn với đồng đội đang đợi...

Trong lúc ngồi nhâm nhi chút rượu, người anh hai nói:
- Thời nhà Trần, đã ba lần đánh tan giặc Nguyên chạy trối chết về Tàu. Một đạo quân xâm lăng khét tiếng hung bạo, chưa có một quốc gia nào dám đương đầu chống lại... Vậy mà, vua tôi nhà Trần bằng "Hội Nghị Diên Hồng" đã viết một trang sử hào hùng cho dân tộc Việt Nam nghìn đời lưu dấu sử xanh! Một trong các tướng đánh giặc Nguyên giỏi thời nhà Trần có danh tướng Trần Khánh Dư. Ông tướng nầy giỏi thì có giỏi thật, không cần phải bàn cãi mần chi! Ông có để cho hậu thế một câu nói nổi tiếng mà người Việt Nam thường cho là nói "thẳng như ruột ngựa": "Tướng soái là chim ưng, dân lính là vịt. Dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ!"
Có lẽ do câu nói nầy mà các tướng lãnh, quan chức các đời kế tiếp hiểu sai ý nghĩa trong câu nói thẳng thắn của ông nên bắt chước để hành dân, xem người dân như vịt, hoặc tệ hơn vịt...! Chẳng những hành dân mà còn hành cả người trong thân tộc của họ nữa! Cũng may là chỉ có một ông danh tướng nói, chứ nhiều ông danh tướng, mỗi người nói một câu "rất hay và thẳng thắn" như ông danh tướng Trần Khánh Dư thì các thế hệ cháu con "bắt chước" làm sao cho hết.
Dân lính là vịt, vịt phải nai lưng ra làm và đóng thuế cho các quan phụ mẫu hưởng thụ, quan phụ mẫu sẽ kiểm soát vịt từ vật chất đến tinh thần. Dân lính là vịt chỉ biết ăn và lao động... Ngoài ra, không cần chi phải biết ba cái thứ tào lao thiên địa "tự do - nhân quyền - chủ quyền..." gì ráo. Tất cả đã có người khác lo..."!

Lúc ông danh tướng Trần Khánh Dư "bãi chức" về quê đi buôn bán than. Không biết ông danh tướng có ép giá để mua than giá rẻ của đám bần dân rồi đem đi đầu cơ tích trữ trục lợi hay không? (thời đó than củi chỉ để dùng cho việc nấu ăn, sưởi ấm, chứ không dùng làm nhiên liệu chạy xe đò như bây chừ). Một vị lãnh tụ giỏi, hay một vị tướng, dù tài ba đến đâu, nếu không đức độ, không lòng nhân, thì dù có lưu danh thiên cổ, người đời vẫn không trọng vọng... Có trọng vọng đi chăng nữa cũng chỉ là... ngoài mặt, hoặc bắt ép phải trọng vọng chứ trong lòng không "khẩu phục tâm phục". Ông danh tướng Trần Khánh Dư đâu có biết rằng người bần dân (vịt) trực tiếp đốt than, đốt cho ra được một mẻ than cực khổ biết chừng nào! Bởi từ chỗ người dân không có đất để canh tác, hoặc có đất nhưng chỉ vài ba công, trong khi gia đình lại đông con thành thử làm nông không đủ sống buộc phải vô rừng đốt than, cưa củi..., dù biết rằng làm như vậy là phạm tội phá rừng.
Người đốt than củi hít phải khói bụi độc hại từ bụi tro than cho nên thân thể của họ bị nhiễm nhiều thứ bịnh, cọng với sức nóng từ lò lửa than, lâu ngày huyết trong người khô, bầm... ói máu ra mà chết!
Người anh hai nhớ lại câu hát ru của mẹ:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than

Ông danh tướng Trần Khánh Dư "về vườn" sớm, lo đi buôn bán than chứ không trực tiếp đốt than, cho dù ông có trực tiếp đốt than đi chăng nữa thì ông cũng không phải là người lỡ vận... Ông danh tướng đã có cơ may và còn nhiều cơ may từ quyền lực phong kiến nhà trần ưu ái phong tặng... Ngày xưa có thể chế độ phong kiến không có các cán bộ "kiểm rừng" nên ông quan danh tướng Trần Khánh Dư đi mua bán than công khai mà không sợ mấy ông kiểm rừng bắt phạt, tịch thu... Người dân nghèo thuở trước đốt than kiếm sống hằng ngày coi bộ thoải mái hơn thời bây chừ? Thời bây chừ nghề đốt than thủ công khó kiếm ăn quá, bởi lúc nào cũng sợ bị phạt, bị tịch thu, vì tội phá rừng! Tội phá rừng còn gọi là: Lâm tặc! Đủ loại lâm tặc cao thấp, lớn nhỏ ngang nhiên đi phá rừng giữa ban ngày ban mặt... Không phá rừng thì biết lấy cái chi mà sống đây hử...? Đốt than, người dân chỉ đốt mấy cây gỗ nhỏ kiếm ăn theo kiểu cò con, vậy mà còn sợ bị bắt, phải trốn chui, trốn nhủi. Cây gỗ lớn, cây danh mộc "lâm tặc chúa" cưa đi hết từ trước rồi! Nghề đốt than thủ công không có khó, chỉ tốn công đào đắp một cái lò cho chắc chắn, sử dụng nhiều lần để đốt. Đến khi lò sập, củi xa, tìm tới chỗ khác đắp lại lò mới. Cái cực là... phải đi bán chui cho người ta mua công khai để dùng vô việc thay thế xăng dầu... Than tuy đen nhưng đó là vàng đen của rừng! Người dân không ai dám lấy than sử dụng vô việc bếp núc.
Thương cho người lính miền Nam không có ai được cái hân hạnh "bãi chức" như ông danh tướng Trần Khánh Dư để về nhà đi buôn bán than rong chơi khắp thiên hạ...! Binh lính miền Nam "quăng súng đầu hàng trở thành ngụy tay sai bán nước cho đế quốc Mỹ xâm lăng"! Nghĩ mà xót xa cho đời trai tráng quá thiệt thòi đến tội nghiệp... Thời tuổi trẻ đi lính lội núi băng rừng tìm giặc mà đánh! Một mớ bỏ thây nằm trong nghĩa trang, một mớ mất tích chưa tìm thấy xác, dẫu có tìm thấy xác thì cũng nằm chung một nấm mộ! Người còn sống cũng phải vô rừng chịu cảnh "cải tạo", cũng bỏ thây trên rừng một mớ! Hết thời gian "cải tạo" một mớ cũng phải vô rừng đốt than, làm rẫy mà sống! Đó là chưa kể hàng nghìn anh chị em thương phế binh sống lây lất giữa chợ đời...
Đường cùng, không phá rừng chẳng lẽ... chịu chết đói?

Mọi người ăn uống vui vẻ nhưng không say vì ngày mai còn phải chăm lo mấy cái lò than... Trong lúc chờ than chín còn phải lo đi cưa củi dự trữ, canh chừng các anh "kiểm rừng" phát giác hốt sạch thì úp niêu. Mỗi khi bốc than ra khỏi lò đem đi bán, phải thông báo cho người dẫn đường đi trước "rà mìn mở đường". Người dẫn đường phải là người thân hoặc bạn chí thân, quen biết và giao du rộng - thuộc lòng các nẻo đường ngang, đường dọc kể cả những con chó... Quan trọng nhất là phải dò xem để biết được đường đi nước bước các ông "kiểm rừng"... Tìm hiểu: "giờ nầy, anh ở đâu"? Có đi "phục kích" hay rủ nhau đi ăn nhậu...? Nhậu ở đâu? Để khi đi "hành quân đêm" không sợ bị phục kích... Đôi khi cũng bị kế "dương đông kích tây" bởi tiếng chó sủa...!
Người dẫn đường còn phải liên lạc với chủ vựa than ngày giờ mua than nhất định, giá cả rõ ràng, chắc chắn. Gặp trường hợp khẩn cấp cần có tín hiệu thông báo cho nhau, nếu giải quyết không được thì rút rựa chặt dây vứt bỏ than, vác xe lên vai chạy thục mạng mỗi người chạy mỗi ngã đường đừng để bị bắt thì khốn khổ cho cái thân...! Đã từng xảy ra trường hợp như vậy rồi...! Con người sao giống y chang loài đớp muỗi âm thầm bay đi ăn trong đêm tối không một tiếng kêu. Loài đớp muỗi còn được tự do bay qua bay lại, tự do bay đi tìm cái ăn không sợ bị bắt nạt... Màu than đen hòa cùng màu đêm đen âm u, đoàn quân thồ than lờ mờ nhìn theo lưng người dẫn đường hối hả lao về phía trước bất kể đường sá gập ghềnh sỏi đá, hục hang, chỉ mong sao cho mau mau đến nơi an toàn! (Biết có được an toàn hay không nữa?). Trên đường đi miệng ngậm tăm, không ai nói với ai một lời. Đôi tai luôn cảnh giác mọi tiếng động, không gian yên lặng đến nỗi nghe rõ hơi thở hồng hộc của nhau... Từng giọt mồ hôi lăn dài trên trán, thấm nhẹp vô lưng áo dù đang đi giữa trời đêm gió cuốn bụi đường!
Có một lần, người anh hai được người dẫn đường dẫn thồ than qua một làng khác. Nơi đó, vựa than mua than giá cao... Ba chuyến xe thồ than đẩy chạy như bay trong đêm đen... Bỗng từ trong kiệt vắng nhảy ra một người đàn ông dáng đi nghiêng ngả, nói cái giọng nhừa nhựa:
- "Tao... là... là... "cha" của thằng "kiểm rừng" đây! Tụi bay dám bắt mấy bao than của tao hử? Ngày mai tao lên Trạm... là có chuyện đó...! Tui bay nghe rõ chưa hử...?".
Người dẫn đường bật tín hiệu cho đoàn xe thồ than phía sau tấp vội vô hàng rào dâm bụt, tất cả đứng chết trân như tượng đá, nín thở, mắt nhìn chăm chăm, thủ thế... chờ nghe hiệu lệnh tiếp theo... Có lẽ người đàn ông say rượu? Chân bước nghênh ngang xiêu vẹo, đầu cúi gầm đi lướt qua, miệng lảm nhảm:
"Một ngày nào... anh chết đi... em nhớ mua cho anh cái ... hòm... Nghe dặn rằng... đừng có cúng... đừng làm gà... đừng mời ai cả... em... ơi...!".
- Thiệt là... hú hồn, hú vía...! Đoàn người đi bán than nhịn cười bởi gặp phải người say. Mọi người nghĩ... có thể là mấy bữa trước anh ta bị các thầy "kiểm rừng" chặn bắt lấy hết than nên anh ta uống rượu cho vơi đi bớt nỗi buồn thế sự?

Bán than xong, người anh hai thở dài buồn bã, than thở với mấy người em:
- Mình làm ra cục than quả là quá cực! Buồng phổi lúc nào cũng chứa khí carbon độc hại, mặt mày, quần áo, thân thể, bụi than quyện với mồ hôi dính đen thui đen thủi. Đêm tối chở than đi bán kiếm tiền mua gạo lại lén lút như thằng rình trộm trâu... Người giàu có họ mua trữ hàng tấn than, trữ hàng chục khối gỗ... để sờ sờ ra đó. Không một ai dám đụng chạm đến, không một ai đến bắt hay "tịch thu"? Cuộc sống luôn luôn có sự nghịch lý như vậy...! Trên đường đi bán than chúng ta chẳng những sợ người say rượu phá bỉnh mà còn sợ cả mấy con chó sủa ma. Thân phận chúng ta hiện nay có thua chi "con vịt" của ông danh tướng Trần Khánh Dư thời nhà Trần ngày xưa...?
Lần bán than đó, người anh hai và mọi người nhớ đời. Dù đã gần nửa đêm, người anh hai không quay trở về nhà mà lại đi tìm mua rượu ngon, mua mồi ngon. Đoàn người kéo rốc trở vô rẫy, ngồi trong chòi uống rượu đàn hát vui vẻ thâu đêm một bữa ra trò.
"...Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn"! Câu nói của người xưa thật đúng nghĩa.

Thương thay cho số phận anh hùng lỡ vận, mạt kiếp phải lên rừng đốt than! Đốt than hay đốt cuộc đời trong màu than của đêm. Đi bán than, lần hồi... bán sạch sành sanh tuổi đời hư hao buồn tủi?
Trang Y Hạ
Miền Đông - mùa đông 1984
Nhớ Phú

https://www.facebook.com/ha.trangy

 

Đăng ngày 12 tháng 03.2023