Tác giả & Tác phẩm
Trang Y Hạ (II)
Thơ của Thiền Sư
Trang Y Hạ, giới thiệu:
Hai bài thơ của Thiền sư Tuệ Sĩ - Một bài thơ (Phản Chiến Tranh) "hay và nổi tiếng" khắp thế giới của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Trong bài thơ phản chiến có câu: “Kẻ thù chúng ta không phải con người. Giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai?”.
(Ảnh Thiền Sư mượn trên net)
CHIẾN TRANH
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Xin hãy nghe tôi đây
Làng tôi hôm qua chỉ vì có SÁU người Việt Cộng về
Mà đã bị dội bom – hoàn toàn tan nát!
Cả làng tôi chết sạch
Nền hoang ngơ ngác
Lũy tre xác xơ
Miếu thờ ngã gục
Tôi về đây trong mây nước rưng rưng.
Có trăng sao mười phương
Có nhân loại, có anh em đây
Cho tôi cất cao lời tố cáo cuộc chiến tranh bẩn thỉu này
Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, dã man, thảm khốc,
Ai xô chúng tôi vào vũng lầy chết chóc?
Xin làm chứng cho tôi.
Hãy nghe tôi đây
Tôi nói rằng tôi không công nhận cuộc chiến tranh này
Chưa bao giờ và không bao giờ công nhận cuộc chiến tranh này
Tôi muốn nhắc lại một ngàn lần, trước khi tôi bị giết.
Hãy nghe tôi, như nghe chim đỗ quyên,
Vì anh em
Nhỏ giọt máu trên cành hoa mà kêu lên tiếng kêu bi thương thống thiết
Tất cả các anh hãy quay báng súng về đập vào khối đen hận thù tham vọng
Hãy đưa bàn tay của các anh ra mà chở che cho sự sống
Kẻ thù của chúng ta là cuồng tín, là bạo tàn
Là tham lam, là vu khống
Kẻ thù chúng ta không phải con người
- dù con người gọi là Việt Cộng -
Giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai?
Hãy đuổi chúng đi, những đàn âm binh từ muôn phương tràn tới
Gieo rắc vô minh, hận thù
Sầu thương vời vợi
Anh em giết nhau tủi nhục quá chừng
Cuộc chém giết vô nghĩa quá rồi, oan khuất nhiều rồi
Anh có nghe không?
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Lời gió mưa
Trang Y Hạ
Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam trong hơn hai mươi năm – nơi mà chiến trường đẫm máu nhứt chính là ở miền Nam.
Trong thời gian chiến tranh có nhiều người làm thơ, viết sách, viết nhạc hay sinh viên các trường Đại Học xuống đường biểu tình chống chiến tranh, gọi chung là: Thơ - Văn - Nhạc “Phản Chiến”. Tôi đã đọc nhiều, đọc nhiều lắm cái: “Tinh Thần Phản Chiến Dũng Cảm” của một số ký giả, tác giả thuộc hàng trí thức khoa bảng ở trong và ngoài nước lúc đó. Cho dù chiến tranh triền miên trên quê hương lửa khói nhưng họ (phe phản chiến), vẫn luôn được người lính ở ngoài chiến trường bảo vệ an toàn và sống an nhàn thoải mái nơi thành phố để phản chiến - hết mình, hết tài năng, hết sức lực... Tác phẩm, lưu danh của họ còn truyền tụng lâu dài… Trong số họ có Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Bài thơ phản chiến của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bài thơ "hay, nhân ái" nổi tiếng phản chiến hơn hết và được nhạc sĩ Phạm Duy trích phổ nhạc.
Tôi không bàn hay luận gì về nội dung bài thơ phản chiến của nhà sư, vì đó là “quan điểm” nhìn về cuộc chiến theo cái nhìn khác biệt của cá nhân Thiền sư. Hơn nữa là trong nội dung bài thơ Thiền sư đã xác nhận cũng như diễn giải rất rõ ràng chính kiến rằng tác giả đã đứng ở tọa độ nào rồi. Do đó không nhứt thiết phải mổ xẻ thêm làm gì, càng mổ xẻ thì lại càng xúc phạm tới việc phản chiến một chiều của Thiền Sư, vi phạm quyền “Tự Do Ngôn Luận” vốn được công nhận trong Hiếp Pháp của chính phủ Quốc Gia Miền Nam. Người xưa nói “Điều kiện tối thiểu để thấu hiểu một người và xin làm bạn, đó là: thời gian và điểm tương đồng...”.
Thương thay cho những người lính miền Nam, họ đâu có muốn tương tàn, tương tàn có ích chi đối với họ đâu. Họ chỉ biết cầm súng với “Tổ quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” hầu canh giữ cho người dân có một giấc ngủ an lành, cho em thơ cắp sách tới trường, cho tiếng chuông Chùa, cho tiếng chuông nhà Thờ được Tự Do ngân vang truyền đi tới từng nhà, tới từng người để sống trong “Từ Bi, Bác Ái, Ngay Thật”. Nguyện vọng thiêng liêng cao cả đó theo họ suốt cuộc chiến dai dẳng với hàng chục ngàn người bỏ mạng ngoài chiến trường và hàng vạn người mang vết thương chiến tranh tàn phá đau đớn trên thân thể gọi là “Thương-Phế-Binh”... Tội nghiệp cho họ là đã không hoàn thành được ước vọng vì thất bại! Từ thất bại đó nên họ bị tù đày, bị loại trừ để rồi lang bạt khắp nơi ở xứ người trong gần nửa thế kỷ qua. Người dân miền Nam cũng không hơn gì so với họ, bởi vượt biên tìm tự do đề rồi một số làm mồi cho hải tặc, cho cá mập…!
Lạc bến mái chèo khua viễn xứ
sầu dâng con quốc vọng đêm sương.
(Thơ: Trang Y Hạ)
Người đời thường hay đi tìm những điều “cao & sâu” ở nơi chân trời góc biển… Vậy mà chẳng biết gì về con Chuồn chuồn làm tổ ở chỗ nào? Con Chuồn chuồn ở rất gần chung quanh và dự đoán thời tiết khá chính xác. Kẻ trí thức không biết, người nông dân cũng không biết cái tổ ấm của con chuồn chuồn. Tuy vậy, với người nông dân tuy ít biết chữ nhưng từ rất lâu đã nhận diện con chuồn chuồn ở đâu. Đó là: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” rất là thực tế chứ không viễn vông… Tôi không phải là người am hiểu về triết học, nhưng qua những gì mắt thấy tai nghe gần hết cả cuộc đời mà nhận ra rằng: Bàn tay trái đánh người tới hộc máu mồm, bàn tay phải vội vàng hấp tấp chạy chữa vết thương. Từ đó suy ra: Thiện hay ác đều trú ngụ ở chính trong bản thân con người chứ nào ở đâu xa.
Chuyện xưa nay ai cũng thấy, cũng biết rằng có cả một cái làng – mọi người hăng say, hăng máu, đồng lòng, quyết tâm, cầm: gậy, gộc, gươm, đao, giáo, mác... hô hào chạy rần rần hè nhau, xúm nhau đánh... chết toi... một người đi bắt trộm chó. Hí hửng ăn mừng vì đã lập được chiến công to lớn. Lại rồi cũng cả một cái làng - vội vàng, hấp tấp, hối hả, sợ sệt... - lo đi đóng chặt cửa cổng, đóng chặt các cánh cửa nhà lại và rồi trốn kỹ ở trong nhà, trốn kỹ ở trong hầm sâu. Bởi nghe một ai đó ở trong làng hô lớn:
– Có cướp...! Có cướp…! Bọn cướp rất đông tới thăm viếng làng của chúng ta rồi bà con ơi! Hãy chạy ra mà đánh tụi nó...
Không một ai dám ra.
Đọc Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo thì ắt biết chứ gì.
Đừng viện dẫn câu “Nghĩa tử nghĩa tận” để biện minh cho bất cứ ai. Chết là hết đối với một sinh mạng, dù gì thì cũng phải tận tình lo ma chay, an táng mồ mả đàng hoàng. Bia ghi tên tuổi ngày tháng năm sinh, nơi sanh rõ ràng và tên người thân đứng ra lập mộ. Đừng trả thù trên mả của người chết bằng mọi thủ đoạn hèn hạ... Đó chính là nghĩa tử nghĩa tận. Còn việc làm của người chết khi còn sống – tốt xấu như thế nào – thì đã có câu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng” hoặc “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”.
***
Trang Y Hạ giới thiệu: Hai bài thơ của Thiền Sư Tuệ Sĩ
Nhà sư Tuệ Sĩ bị gán tội “Lật đổ chính quyền nhân dân”. Thiền sư bị tù đày ba năm nhưng trong tâm lòng Thiền sư luôn nghĩ về quê hương đất nước, “đạo pháp”. Sau đó Thiền sư bị tuyên án tử hình, rồi Thiền sư được giảm xuống tù chung thân. Trước khi được thả, nhà cầm quyền yêu cầu Thiền Sư làm đơn xin nhận tội để được ân xá. Thiền Sư Tuệ Sĩ đã khẳng khái trả lời:
“Không ai có quyền xét xử tôi. Không ai có quyền ân xá tôi”. Và Thiền sư tuyệt thực trong tù mười ngày. Sau cùng họ phải thả Thiền sư ra. Nhân cách, tư cách của một vị chân tu của Thiền sư Tuệ Sĩ là tấm gương sáng ngời cho hậu thế.
Nhà triết học Krishnamurti của Ấn Độ nói “Sợ hãi nảy ra thần thánh” và “Truyền thống là nguyên nhân của sự sợ hãi”. Cả hai đều đúng. Lời Chúa cũng đã nói “Kẻ nào cố giữ mạng mình thì sẽ mất”.
Vậy nên có niềm tin và suy luận nơi bản thân trước đã. Suy nghĩ và a dua theo bầy đàn có thể dẫn tới sai lầm.
TỰ TÌNH
Còn nghe được tiếng ve sầu
Còn yêu đốm lửa đêm sâu bập bùng
Quê người trên đỉnh Trường sơn
Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.
Tuệ Sĩ
Nha Trang, 4 – 1975
TÔI VẪN ĐỢI
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo Chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Tuệ Sĩ
(Đây là bài thơ mới làm của Thiền sư. Có thể làm trong khi chờ ra tòa chăng? Trang Y Hạ)
https://www.facebook.com/ha.trangy
https://www.facebook.com/ha.trangy?comment
_________
Gánh ve chai cuối năm
Bước xuống xe, tôi nhìn quanh quẩn…, khung cảnh ngày ra đi so với bây giờ cũng không khác gì mấy, có chăng là vựa ve chai của chú em trong mấy ngày cuối năm chất đầy ắp và lấn ra cả ngoài đường. Vựa ve chai của chú em đã có từ lâu. Thời gian sau nầy có lẽ do làm ăn chăm chỉ, tiền tặn nên phát triển thêm. Tiếc rằng, diện tích quá chật không đủ sức để chứa hàng.
Vào tháng chạp, nhà nào cũng dọn dẹp sạch sẽ để đón xuân. Các vật dụng không cần thiết được tống khứ, và những gánh ve chai oằn vai nặng trĩu!
Tôi về nước lần nầy mục đích là thăm mẹ già, bà đã gần chín mươi tuổi. Lưng còng, tai có nghễnh ngãng nhưng cặp mắt còn sáng tỏ, nhất là giọng nói chưa run, tay chân cũng vậy, còn tự ngoáy trầu để ăn được. Mỗi sáng bắt ghế cùng ngồi với mẹ tôi ở trước hiên nhà nhìn người ta gánh hoặc chở ve chai đến bán. Nhìn người em dâu tất bật vừa cân hàng xong là lật đật chạy ra chợ mua thức ăn - chợ gần nhà khoảng vài trăm thước. Còn chú em làm liền tay, mặc dầu có tăng cường thêm hai người làm phụ nữa. Mồ hôi, mồ kê ướt đẫm lưng áo của họ. Tôi muốn ra làm giúp nhưng chú em cản không cho.
Mẹ tôi rất là vui - bởi, xuân nầy con… có về !
Mẹ tôi nói chậm rãi gần như là nhắc khéo:
- Mẹ cứ nghĩ tết nầy con mà không về thì mẹ buồn lắm - con lại ăn tết bên Mỹ - bên Mỹ làm chi có tết Việt mà ăn. Những năm trước con còn ở Sài Gòn, khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảy tháng chạp là con về - chuẩn bị gói bánh tét, nấu chờ đón giao thừa. Kể từ ngày con đi biền biệt đến nay mấy đứa đâu có thèm gói bánh, cứ ra chợ mua đại mấy đòn về chưng trên bàn thờ... Năm nay con về thì con có muốn gói thì gói; mà mẹ coi bộ cái tuổi trên sáu mươi lại mập ú ù như vầy, chắc cũng không ngồi lâu được bao nhiêu đâu mà gói. Thôi để thằng Út đi đặt người ta cho tiện. Nhà bận rộn buôn bán thì đành chịu vậy chứ sao.
Mẹ tôi nói đúng! Bà hiểu thấu tâm can của thằng con trai đầu. Đi xa bao nhiêu năm nay trở về thời gian không nhiều mà anh chị em bà con bên nội ngoại quá đông, chưa kể bạn hữu đến thăm hỏi. Mời chung vui tất niên.
Gánh ve chai trên vai người phụ nữ vừa để xuống. Trên khuôn mặt vẫn còn mang cái "khẩu trang" kín mít như phụ nữ Hồi giáo. Đôi mắt long lanh nhìn tôi, nhìn qua thằng em tôi… Tôi nghĩ, chắc cô ta thấy tôi sao giống chú em của tôi “Ông chủ vựa ve chai”. Tôi chào và cô ta cũng gật đầu chào lại nhưng tuyệt nhiên không lấy khẩu trang ra. Tôi đoán mò tuổi qua đôi bàn tay – Có lẽ cô ấy khoảng ba mươi tuổi là cùng…
Mẹ tôi vừa xếp gọn những lá trầu vừa chậm rãi nói:
- Mấy năm nay nhờ ơn Chúa Mẹ, mấy em con làm ăn cũng khấm khá… Con Bảy cất được cái nhà mới, con Tám cũng vậy... Tuy còn thiếu nợ, nhưng ông bà mình từ xưa đã nói – “Một năm làm nhà ba năm mắc nợ”. Cháo nóng ăn quanh, nợ trả dần có sao đâu. Người ta cho trả nợ lần hồi là mừng lắm rồi! Con Sáu, con Bốn đã ổn định từ lâu. Thằng Út cũng xây lại căn nhà nên con về mới thấy khang trang rộng rãi như vầy. Hơn nữa nó xây cái nhà vệ sinh, gắn gạch men trắng toát để con về có chỗ mà tắm... Mấy đứa cháu lớn tụi nó về Sai Gòn vô đại học - học hành đỗ đạt - có đứa ra trường đi làm, không giàu có gì nhưng cuộc sống cũng tạm ổn.
Tôi rất hiểu tấm lòng của mẹ và vợ chồng chú em, nhưng tôi im lặng - nói ra thì cũng như bằng thừa có khi lại khách sáo.
- Mẹ chết! Thằng Hai mầy có về không?
Câu hỏi của mẹ làm cho tôi hơi bất ngờ. Tôi cầm cái cối và cái chìa ngoáy trầu làm bằng đồng, giả bộ ngoáy… - đưa lên miệng ăn. Mẹ tôi cười!
Tôi nói:
- Mẹ chết rồi con về làm chi nữa! Khi mẹ còn sống con không thường xuyên về thăm mẹ đến khi mẹ mất con về thì mẹ cũng đâu có thấy con. Khi ấy con có làm đám tang ăn uống ca hát tưng bừng chẳng qua chỉ để khoe với người sống mà thôi!
- Ừ hé! Thằng Hai mầy nói mẹ nghe cũng có lý… Mẹ thấy gia đình lão Củng dưới Cầu Đen đó. Khi lão ấy chết, mấy thằng con trai ở đâu không biết, nghe tin cha chết đi xe hơi rần rần về làm đám ma linh đình ăn uống mấy ngày… Sau đám tang chúng nó tranh giành nhau tiền phúng điếu oánh lộn la ó ỏm tỏi chẳng ra thể thống gì. Đến nay cái mộ cha của chúng nó mà chúng nó cũng không xây nổi.
Người phụ nữ tháo bỏ khẩu trang treo lên đầu gióng, đi lại vòi nước nằm kế hàng rào rửa mặt, vuốt lại mái tóc và búi cao lên cho mát để lộ ra cái gáy trắng ngần. Đúng như dự đoán của tôi. Nàng khoảng ba mươi tuổi, không đẹp lắm nhưng có duyên.
- Dạ… Hình như Chú là Việt kiều mới về?
Cô nàng hỏi rất ư là tự nhiên cứ như cô nàng là người thân quen trong nhà. Chợt nghe mẹ tôi hỏi cô ấy:
- Hôm nay con có mua được khá không?
- Cuối năm người ta ăn tất niên, lon bia và thùng giấy hơi nhiều bà ơi! Cô ấy trả lời.
Thì ra cô gái nầy là khách hàng lâu năm ở cái vựa ve chai của chú em tôi. Hèn chi, không thân quen mới là chuyện lạ.
- Tôi định cư ở nước ngoài nhưng không phải là “Việt kiều”. * Tôi là anh ruột của “chủ vựa ve chai” nầy. Tôi trả lời cô gái.
- Thoáng nhìn, con thấy hai người giống nhau quá! Ai ở nước ngoài về Việt Nam đều gọi chung là Việt kiều, sao Chú không công nhận?
- Cô nói đúng! Tuy nhiên có một số người không phải là Việt kiều, họ là những người “tỵ nạn chính trị”! Như tôi chẳng hạn.
Mẹ tôi nói chen vào:
- Đây là con trai đầu của bà đó, trước kia đi lính miền Nam. Khi miền Nam “giải phóng” được nhà nước khoan hồng không giết nên đã đưa đi “cải tạo” tám năm để thành "người tốt". Bây giờ ngồi nghĩ lại mà ngán ngẫm! Bảy tám năm dài đăng đẳng. Vậy mà nhiều người đi những mười mấy năm…, chưa nói bỏ xác trên rừng thiêng nước độc. Thằng Hai biết không: Cha cô ấy cũng là lính – là thương phế binh miền Nam! Ông ấy còn sống và sốt sắng giữ đạo. Mẹ đối với cháu đây tình thân như bà cháu, như người nhà – nhà cháu nó cũng nghèo – nghèo nên mới đi mua ve chai để nuôi con, nuôi cha.
Tôi nghe lòng mình chùng xuống và một nỗi buồn dâng lên…
Những ngày đầu “giải phóng”, hình ảnh những người lính đang chiến đấu với tất cả những quyết tâm giữ nước. Tự dưng buộc phải quăng súng đầu hàng vô điều kiện, nhìn phương tiện chiến đấu còn đầy đủ mà đành phải trút bỏ bộ quân phục ngoài đường để chạy thoát thân – chạy cũng không thoát được! Những người lành mạnh còn như vậy huống hồ những anh chị em thương phế binh thì càng thê thảm biết bao nhiêu. Mất miền Nam – coi như đã chết hoàn toàn. Cấp chỉ huy của họ - một số đào thoát. Một số tận trung báo quốc tuẩn tiết vì quê hương vì chính nghĩa không chịu đầu hàng, và đa số còn lại đi “học tập cải tạo”! Đã qua hai thế hệ, nhưng hận thù vẫn còn nguyên cho dù không còn tiếng súng; không còn bom rơi đạn lạc; không còn nghe tiếng đạn pháo kích đêm đêm từ ngoài bưng biền, trên rừng rót về... Những trái mìn giật sập cầu và còn nằm đâu đó dưới mặt đường chờ đợi… Con cháu những chiến binh mang họ “Ngụy” suốt đời vẫn là: “Ngụy tay sai bán nước, bán đất, bán biển, bán rừng cho bọn đế quốc Mỹ xâm lược”. Họ bị phe cách mạng nguyền rủa muôn đời! Bị “giải phóng” tức là thua - thua thì coi như đã chết. Không có quyền biện minh với bất cứ lý do gì. Tất cả mọi tội lỗi xấu xa nhất đều đổ ập lên đầu họ, lên cái Chính quyền tự do miền Nam nay đã “được giải phóng!”. Ngay cả với một đồng minh thân thiết cũng phản bội, cũng đổ thừa và rửa tay như “Phi la tô”; đau đớn hơn hết là chính những người cùng chiến tuyến dưới cờ năm xưa, nay vì lý do nào đó hoặc háo danh, hoặc hận thù cá nhân… đã viết sách kể công cũng như lên án chế độ Diệm – Thiệu. Miệt thị màu cờ sắc áo của chính mình đã một thời hết lòng phục vụ mà không cần chờ cho lịch sử công bình soi xét. Họ “hồ hởi!” chửi lên những xác chết - xác chết có bao giờ sống dậy được để mà biện minh …! Họ chửi có bài bản – logic…, chửi hay hơn kẻ thù chửi ! Hay hơn nữa - có một số tướng tá, viên chức chính quyền bỏ chạy trước khi mất nước, và một số - từng được đưa đi “học tập cải tạo” nhiều năm, nay đã “giác ngộ cách mạng” - đã và đang ca tụng "cách mạng" có công đánh Mỹ, diệt ngụy thống nhất đất nước… Phải chi họ cứ im lặng mà sống cho hết quãng đời lưu vong tỵ nạn nơi xứ người thì hay biết mấy(!)
Tôi nhìn người phụ nữ và ngập ngừng nói:
- Mẹ tôi khai “lý lịch” cho cô biết về tôi rồi đấy. Vậy nếu không có gì phiền, cô có thể cho tôi hỏi vài câu có được không vậy cô?
Có lẽ cô gái đoán biết được ý nghĩ của tôi.... Không đợi tôi đặt câu hỏi. Cô gái sốt sắng:
- Dạ thưa chú! Con không biết cha con đi sắc lính gì, nhưng cha con bị thương ở chiến trường Kontum trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm một ngàn chín bảy mươi hai. Nghe mẹ con nói - Tất cả người dân phải di tản khỏi tỉnh, trong đó có gia đình con. Kể từ đó gia đình con chuyển luôn về Sa Đéc – Sa đéc là quê nội của con. Sau khi bị thương ba con được giải ngũ. Ngày “giải phóng” ba con chỉ được đi “cải tạo” tại địa phương một tháng. Nghe nói: Ba con làm Đại đội trưởng gì đó… Con không dám hỏi sợ ba buồn. Ba chỉ tâm sự với mẹ..., con chỉ nghe lõm bõm được mấy câu: “Tui cảm ơn bà tần tảo nuôi mấy đứa con. Chúng mình như những đứa con ghẻ, sống cũng như chết, lưu vong chính trên quê hương đất nước của mình. Tội nghiệp mấy đứa nhỏ mang cái lý lịch của tui và cũng tội cho bà ngày xưa chúng mình lấy nhau thì tui mãi lo đi hành quân…”.
Những lúc nghe cha than thở với mẹ như vậy, mẹ con thường an ủi ba con “Sau cuộc chiến mình còn sống đến hôm nay coi như hột gạo trên sàng, nhắc làm chi cho thêm buồn. Em tin ở ông trời có con mắt”.
Sau nầy lớn lên con mới hiểu những lời tâm sự của ba con. Khi ở ngoài xã hội người ta phân chia rạch ròi, nào là: Gia đình có công với cách mạng - gia đình thương binh liệt sĩ - gia đình cách mạng - gia đình bộ đội - Mẹ Việt Nam anh hùng... Dĩ nhiên quyền lợi luôn luôn có sự ưu đãi về mọi mặt. Còn chúng con là những gia đình “ngụy” bán nước làm tay sai cho đế quốc Mỹ. Lũ trẻ con cùng trang lứa trong xóm cũng khinh khi chúng con . Còn Ba con hễ có cuộc họp nào ở khóm ấp, bất kể mưa gió cha con đều chống nạn đi họp đầy đủ, vì sợ chính quyền ghép tội - “bọn ngụy phản động!”.
Tôi hỏi:
- Bên nội cô ở Sa Đéc, vậy nhà của cô có ở gần làng hoa - Tân Quy Đông không? Làng Hoa nầy rất đẹp, đã nỗi tiếng trên trăm năm nay. Ngày xưa tôi có người bạn sống ở đó. Thỉnh thoảng tôi cũng có ghé thăm.
- Dạ, nhà nội con ở cách làng hoa chừng hai cây số, gần Thánh Thất Cao Đài phía mé sông, sau nầy chính quyền giải tỏa mới về miền Đông nầy. Hiện tại nhà của con cách chỗ nầy hơn ba cây số.
Nhìn vẻ mặt và giọng nói của cô gái có vẻ thật thà nên tôi khơi chuyện để biết thêm về người cha Thương phế binh và hoàn cảnh của cô gái. Bất chợt mẹ tôi nói chen vào:
- Từ nay đến tết thằng Hai nhờ thằng Út chở xuống thăm và làm quen với cha cháu nó, dù sao cũng là người đã từng chiến đấu như con và có một thời ở trên Kontum.
Tôi hỏi:
- Vợ chồng cô sao không chuyển nghề khác, đi mua ve chai làm sao đủ sống?
- Dạ, thưa chú! Con chẳng có nghề nào khác hơn ngoài cái nghề nầy hở chú! Chúng con đâu có học hành, có bằng cấp chi đâu mà đi xin việc. Con học hết tiểu học rồi ở nhà phụ cha mẹ. Em con sau nầy cũng không qua được lớp chín. Chồng con cũng vậy. Cha mẹ của chồng con chết hết trong lúc di tản năm một chín bảy mươi lăm. Ảnh sống với người dì rồi người dì bệnh chết. Anh ấy lang thang tự nuôi sống bản thân. Chúng con gặp nhau rồi cưới nhau... Vợ chồng con vẫn ở chung với ba mẹ và sinh được một đứa con trai. Vợ chồng con làm cật lực cũng may ra đủ ăn. Tiền học phí, tiền trường, tiền sách vở nặng lắm chú ơi - nên không dám sinh thêm. Ba con nói:
"Ngày xưa ở Miền Nam đi học không có đóng tiền trường, tiền học phí các loại - lại còn được cấp phát tập viết, được uống sữa..."
Có phải không chú?
- Ừ, đúng như lời ba cô nói.
- Chú biết không! Trong nhà con, tất cả đồ dùng toàn là đồ ve chai. Cái truyền hình đen trắng và đầu máy video thời ông “Trần Đàm – Phùng long Thất” nhập lậu về - lúc đó quí lắm, người ta xúm nhau mua. Bây giờ người ta giàu có, nhu cầu càng ngày càng cao nên họ lại đổi truyền hình màu, nhẹ, mỏng dính! Thế là họ đem bán ve chai cái cũ, chồng con mua rẻ ẵm về coi thoải mái khỏi phải chạy sang nhà hàng xóm coi ké! Cũng nhờ vậy mà chúng con mới biết được những chủ trương chính sách của nhà nước...!
- Vậy… hiện giờ cô có thấy khôn, và… sáng mắt, sáng lòng ra nhiều chưa? Tôi vừa cười vừa hỏi.
Cô gái hình như đoán được ý trong câu hỏi của tôi nói.
- Thì nhà nước nói sao dân nghe dzậy! Cứ làm thinh mà sống. Chứ có ai đâu dám chống đối chuyện gì, ngu dại gì mà chống đối để bị ghép vô tội phản động –“ lật đổ chính quyền nhân dân”... Đi tù rục xương luôn!
Cô gái nói tiếp:
- Chồng cháu mới đổi cái truyền hình màu mười bốn inche của hãng ve chai, đầu dĩa CD Califonia cũng của hãng ve chai. Chiếc xe honda 78, chồng cháu chạy để chở ve chai hằng ngày cũng là của hãng ve chai. Gom mỗi thứ cho đủ bộ rồi lắp ráp lại… Chồng con cứ chạy chui trong xóm chứ có dám chạy lên phố; chạy lên phố là công an giao thông phạt nặng lắm vì xe "lắp ghép" tùm lum các thứ - không thể “đăng ký” chủ quyền được. Người nghèo nói chung ai cũng vậy cả, nên đâu có xấu hổ gì. Miễn mình đừng đi ăn cắp, ăn cướp của người khác là tốt rồi!
- Xin phép, tôi hơi tò mò - ba của cô có việc làm không?
- Dạ, ba con bị mất một chân, nhờ cặp nạng gỗ nên đi lại được, hơn nữa ba con biết nghề sửa chữa đồ điện gia dụng. Sau nầy ba con tự học thêm nghề sửa vá xe đạp. Nhưng không có vốn để mở quán, chỉ làm ở trước nhà cho những người thân quen, lơi tức chút đỉnh đắp đổi qua ngày phụ với mẹ - mẹ con cũng đi làm mướn tùy theo thời vụ... Cách đây sáu bảy năm có một ông “Việt kiều” về ghé thăm, thấy thiếu đồ nghề sửa xe, nên ông giúp cho ba con một trăm đô la. Nghe nói ông nầy trước kia làm phó gì đó ở chung đơn vị với ba con. Hai người uống bia. Lần đầu tiên con thấy ba con uống bia và uống nhiều nhưng không có say. Ba đưa một trăm đô la cho mẹ con. Ba con nói: “ Bà mua vải may cho mỗi đứa một bộ đồ mới để mặc đi lễ nhà thờ. Riêng bà và con Thu may một cái áo dài. Còn bao nhiêu hãy sắm chút đồ nghề”. Thu chính là tên của con đó chú. Mẹ con hiểu thâm tình của ba con nên lặng lẽ làm theo. Một tối kia trong lúc ba ngủ say, con thấy mẹ con lấy cái thước dây. Mẹ rón rén đo chiều dài đôi nạng gỗ cũ xì, lở lói sứt mẻ của ba…(!)
Lần đầu tiên trong đời của con, em con, và chồng con mới thấy tờ bạc một trăm đô la mới toanh! Chúng con xúm nhau săm soi, ngắm nghía đã đời…, thằng út còn đưa lên mũi ngửi… ngửi... thiệt là lâu. Khi thấy hàng tiếng Anh “IN GOD WE TRUST” chẳng biết đọc và hiểu ý nghĩa như thế nào? Chúng con hỏi ba – ba con nói câu đó có nghĩa là “Chúng tôi tin vào thượng đế”. Rồi ba con giảng giải tiếp – Trên tờ giấy bạc thời trước năm một ngàn chín bảy mươi lăm ở miền Nam có ghi câu: “ HÌNH LUẬT PHẠT KHỔ SAI NHỮNG KẺ NÀO LÀM GIẢ MẠO GIẤY BẠC DO NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM PHÁT HÀNH”. Và trên tờ bạc còn có chữ ký. Thành ra đồng bạc rất có giá trị chứ không phải là tờ giấy lộn. Từ đó con học thuộc lòng luôn và không bao giờ quên!
Cô gái nhìn tôi rồi nói tiếp:
- Con nói thiệt! Chú đừng có buồn nha! Chú cũng sống ở nước ngoài sao mà con nhìn chú rất là bình dân… Người đi mua gom ve chai lam lũ như con, chú cũng chịu khó ngồi nghe kể chuyện mà không tỏ ra khó chịu… Con lặn lội mua ve chai khắp hang cùng ngõ hẻm, gặp đủ hạng người nên biết cũng nhiều… - Lắm ông bà “Việt Kiều” về nước hãnh tiến, sang trọng, bệ vệ, đi đâu cũng có xe hơi đưa rước. Ăn uống chọn lọc kỹ càng, cách trang phục cũng khác… Họ khoe đủ thứ chuyện bên nước ngoài… Nghe mà ao ước, tủi thân quá chừng! Bọn con ăn mặc rách rưới không dám lại gần sợ lây cái mùi ve chai hôi hám tới mấy bả mấy ổng. Đừng nói chi dám ngồi gần nói chuyện với họ... Mà có nói chắc chi họ lắng nghe như chú vui vẻ nghe con trao đổi qua lại từ nãy giờ. - Con cảm ơn chú nhiều lắm nghen!
Tôi nhớ một câu nói của nhà triết học Hy Lạp:
“Con người có thể vượt qua con người đến vô tận”.
Và tôi nghĩ, vượt qua con người để chà đạp lại con người thì vượt qua con người đến vô tận để làm gì cho đau khổ thêm! Tôi nhìn lại tôi, nhìn mẹ tôi đang têm trầu, nhìn cô gái phụ mẹ tôi cho chút vôi vào cối trầu rồi ngoáy dùm cho mẹ tôi; nhìn thùng nước đá “công cộng” để trước hàng hiên mà cả tuần nay - tôi và mọi người cùng uống. Như vậy tôi không phải là “Ông bà Việt Kiều quái dị” nào đó trong con mắt của cô gái nầy. Tôi nhớ những năm chưa định cư ở nước ngoài, tôi cũng thường hay nghe những câu đại loại như:
“Chơi sang như Việt Kiều – Xài tiền như Việt Kiều – Chỉ có Việt Kiều mới chơi trội, mới dám chơi xả láng…!”.
Đến khi tôi định cư ở nước ngoài - trong mấy năm gần đây tôi lại nghe nói:
“Việt kiều bây giờ xuống dốc lắm rồi! Ăn chơi không bằng VC…”.
Có đúng vậy không? Nếu đúng, thì câu nói xưa nay rằng “lên voi, xuống chó” rất là chính xác và thấm thía! Tự dưng tôi nhớ đến câu hát: “Đời vô tình thế, trước khi em của tôi đến nay sang một người…!”.
Tôi có biết nhiều "Việt Kiều" áo gấm về làng - cũng có một số người: nổ - nổ vang trời vang đất như: “Trảng Bom, Long Bình”! Nổ cũng là một phương-thuốc chữa cái tôi trống rỗng của một số người kém tự tin, không dám nói thật lòng rằng:
"Ở nước ngoài cũng phải đi làm mọi nghề - bưng phở, rửa chén, lượm lon, cắt cỏ, rửa xe… làm quần quật từ - mười đến mười hai tiếng đồng hồ trong một ngày, và làm hai ba "jobs" để trả đủ thứ tiền... Và, dành dụm chút ít gửi về cho người thân ở quê nhà. Dành dụm từ: Hai năm, năm năm, mười năm hoặc hơn để về thăm người thân…! Về nước “chảnh - nổ” với bà con bạn bè một vài bữa kể như vô tội vạ cho quên đi những ngày nơi tha phương "cày bừa…" mệt xỉu! Vậy thì, chảnh hay nổ... Có văng miểng tùm lum... cũng không đến nỗi làm bị thương hay làm chết ai. Trừ phi lừa đảo người khác bằng cái danh “Việt kiều hồi hộp"...!
- Chừng nào cô nghỉ đi mua… để ở nhà lo đón tết vậy hở cô?
- Dạ! Thưa Chú. Dân lao động như chúng con vẫn lo mần có khi đến hai mươi chín tết vẫn còn đi... Trước tết các mặt hàng phục vụ tết đều cao mắc... Người có tiền lo mua sắm chưng trong nhà hoặc làm quà tặng... Người nghèo đi mua sắm tết đa phần vào những ngày cuối cùng của tháng chạp. Những ngày cận tết ai cũng lo bán cho hết để về cúng ông bà, vả lại hàng hóa Tết họ bán cũng đã lấy lại vốn rồi, nên bán “hạ giá” để còn dọn dẹp về nhà lo cho gia đình. Chính lúc nầy, những người nghèo như chúng con mới đi mua sắm cho ngày tết! Từ thực phẩm, quần áo, giày dép, cho tới bánh trái hoa quả, nhang đèn… Nhưng mua sắm cũng rất hạn chế, vì những ngày sau tết mới thật sự đáng lo…! Tội nghiệp cho những người trồng hoa, năm nào họ cũng bị thua lỗ và ế ẩm do tâm lý người dân bây giờ họ... lạ lắm. Họ thích mua hoa ế, hoa rẻ... Do đó họ đợi đến chiều hai mươi chín hay ba mươi tết họ mới xúm nhau đi mua hoa. Người bán hoa lo nôn nóng về quê nên bán tống, bán tháo lấy được đồng nào hay đồng đó. Thương cho họ còn phải trả tiền "thuê chỗ bán",...!
Nhìn cô gái ngoáy trầu cho mẹ tôi, mà trong lòng cảm thấy ấm áp lạ thường. Tôi đổi cách xung hô cho thân mật hơn.
- Này cháu gái. Cháu có ý muốn mời chú ghé thăm nhà không? Tôi cười thân thiện nhìn vào mắt cô gái.
- Dạ, Chú cho phép! Con đại diện ba con xin được mời chú ghé thăm nhà con, chắc ba con sẽ vui mừng! Vì chú là ông “Việt kiều” thứ hai ghé thăm. Nhưng… nhà con xập xệ lại ở tuốt phía sau đồi. Nhà cũng làm bằng vật liệu ve chai, không có ghế để mà mời chú ngôi đâu đó!
Biết cô gái lém lỉnh cho vui, nhưng cũng thật thà. Tôi cười cười nói:
- Nhà hai vợ chồng cháu gom ve chai hằng ngày thì ghế nhựa thiếu gì phải không cháu? Còn nhà ở trước đồi hay sau đồi cũng là nhà mà. Đó là nơi để ở và cũng là tổ ấm hạnh phúc của gia đình. Chú sẽ đến thăm.
Như chợt hiểu lời tôi nói, cô gái cười tươi như hoa làm mẹ tôi cũng cười theo… - miệng móm sọm bởi răng rụng gần hết!
Gánh ve chai của cô gái - trút ra mặt đất - cô phân ra từng loại: Giấy, sắt, nhôm, đồng, nhựa và chai lọ... Sau khi cân xong, quy ra tiền: Cô nhận được - Bảy mươi ngàn đồng.
Cô gái xếp đôi gióng lại, chào mẹ tôi rồi quay sang tôi.
- Chào Chú con về!
- Ừ! Cháu về...
Tôi tiễn cô gái ra cổng, cô gái bất chợt quay đầu lại nói:
- Ngày mai cháu nghỉ đi mua ve chai, con ở nhà phụ ba mẹ con dọn nhà cửa để… Đón một mùa xuân mới! Giọng cô gái ngập ngừng lí nhí…
Tôi chợt hiểu ra, cô gái như muốn nhắc khéo chuyện tôi gợi ý đến thăm gia đình, và muốn biết chính xác ngày giờ hẹn của tôi. Cô gái quả là thông minh và dễ mến. Thật tình, chính tôi mới là… ngớ ngẩn!
- Ngày mai, lúc mười một giờ chú sẽ có mặt ở nhà cháu.
- Cảm ơn Chú! Ba mẹ và chúng con sẽ chờ đợi chú! Con chào chú con về.
Tôi nhìn theo cô cháu gái mới quen đi một quãng xa...
Nắng đã nghiêng về chiều nhưng hãy còn gay gắt… Tôi quay trở vô nhà mà nghe trong lòng rất dịu êm!
Trang Y Hạ
San Francisco - 2012
* Theo Từ Điển Thiều Chửu định nghĩa chữ Kiều (僑) như sau: Kiều (Bộ Nữ) là: - Giai nhân đẹp. Chữ Kiều (bộ mộc) là: - Cây cầu. Chữ Kiều (Bộ cư) "Người ăn nhờ ở đậu, ở nhờ vùng khác, làng khác hay nước khác gọi họ là kiều cư, kiều dân".
Chữ Bào (Pào). Hán Tự có hai nghĩa: 1 – Cái áo khoác bên ngoài. 2 – Cái bị, cái bì, cái bao, cái bào thai.
Không có chữ nào gọi là “Kiều Bào” ở trong Tự-Điển.
Việt Kiều là những người Việt mang quốc tịch Việt Nam sống nhờ ở các quốc gia khác, chứ không phải nói các công dân các quốc gia khác có gốc Việt.
https://www.facebook.com/ha.trangy
_________
Hoàng sắc âm nhạc
“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi. Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi. Người thương gia lợi tức. Người công nhân ấm no. Thoát ly đời gian lao nghèo khó”… (Ly Rượu Mừng, Phạm Đình Chương).
(Người miền Nam chỉ nói: Hát tân nhạc, Hát cổ nhạc, chứ không nói “Hát nhạc vàng”).
Hoàng sắc âm nhạc là loại nhạc nào mà lại có sắc? Ông Mao, nói: “Hoàng Sắc Âm Nhạc”, là loại âm nhạc chứa nội dung: tình yêu trai gái, khiêu dâm (dâm thanh), bẩn thỉu, thô tục, ủy mị…! Một số người trí thức thời đó cũng cho “hoàng ca” là loại nhạc “loạn thế chi âm, vong quốc chi âm”. Ông Mao và những người theo ông đều cho rằng thứ “nhạc vàng” làm hư hỏng văn hóa, con người, không phù hợp trong thời đại cách mạng, (nhạc đỏ mới là nhạc). Người Việt theo chủ nghĩa Mao cũng gọi “hoàng sắc...” là loại nhạc vàng. Và còn gán thêm cho hai chữ, nhạc: “đồi trụy”!
Người Hoa cổ xưa xưng “hoàng đế”. Bởi hoàng đế là ông tổ của nền văn minh Hoa Hạ “hoàng thổ” (đất vàng); “hoàng hà” (sông vàng); viêm hoàng (da vàng). Ấn tín màu vàng “kim ấn tử thụ”, áo nhà vua “hoàng bào”... Người Hoa làm giặc, dùng màu vàng - giặc “hoàng cân” (giặc khăn vàng). Tượng Phật, áo thầy chùa cũng màu vàng… Người Hoa xưa, ràng buộc bởi đạo đức, bởi luật trời, bởi luật người… Vua là thiên tử, tức con của trời. Hoàng Đế cũng chỉ là bề tôi của trời. Do đó mà trong các chiếu chỉ, viết: “phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết…”. Nhạc cổ Trung Hoa ngày xưa nội dung chỉ là: các điển tích, điển cố, phong cảnh, quê hương, bạn hữu… Âm điệu loại nhạc cổ xoay quanh năm [5] nốt nhạc chính gọi là ngũ âm. Ngũ âm được sắp xếp cao thấp bằng âm điệu: (Cung - Thương - Giốc - Chủy - Vũ).
Người Hoa không kiêng kỵ màu vàng. Màu vàng là màu biểu tượng của trời “hoàng thiên hữu nhãn”, của dân tộc họ… Vậy thì tại sao người Hoa sau nầy gọi nhạc cổ cầm của chính họ là thứ “nhạc vàng” một cách miệt thị? Thời của các vua chúa phong kiến Trung Hoa, đã dùng “dĩ nhạc trị quốc”. Tục Nhạc đã có từ lâu và phổ biến trong giới bình dân, lời ca dân dã bình thường nên không mấy phù hợp với - giới trí thức, giới quan lại, giới tu hành. Tuy cho rằng tục nhạc nhưng lời ca không làm mất thuần phong mỹ tục hay dâm dật…
Triều đại nhà Chu đã hình thành một loại nhạc khác có lời ca đậm tính văn chương, thanh điệu… tiếng Việt gọi là (nhã nhạc). Loại nhạc cung đình nầy, gồm có bát âm: [Thạch- Thổ- Kim- Mộc- Trúc- Bào- Ti- Cách]. Nhã nhạc ra đời nhằm đối xứng lại với [tục nhạc]. Nhã nhạc vua chúa thường dùng trong các dịp cúng tế trời đất hoặc đàn ca nơi chốn cung đình, quý tộc… Sau nầy giới nho gia rất thích nhã nhạc. Nhạc cung đình thời nhà Chu. Theo (Từ Hải Từ Điển). Nho gia gọi nhã nhạc là: “Trung Chính Hòa Bình”, hay “Khúc Nhã Thuần Chính”. Nho gia còn cho nhã nhạc cung đình là “Chính Âm”. Theo Kinh Lễ, nhã nhạc nhà Chu đi kèm với sáu điệu múa lộng lẫy, mà nội dung trong mỗi điệu múa mang ý nghĩa với một nhân vật thần thoại, lịch sử, như: - Vân Môn Đại quyển Đại Hàm - Đại Khánh - Đại Thiều - Đại Hạ - Đại Hoạch - Đại Vũ.
Những khúc nhạc nổi tiếng của người Hoa từ thời xa xưa, hiện nay vẫn còn giá trị trong lịch sử âm nhạc, vẫn lưu giữ ở các viện âm nhạc quốc gia: Hồng-Kông, Đài Loan, Singapore, Châu Âu… Nhạc, gồm có mười khúc:
- “(Cao Sơn Lưu Thủy). Khúc nầy chỉ có: Bá Nha và Chung Tử Kỳ, mới hiểu thấu ý nghĩa… - (Quảng Lăng Tán). Khúc nhạc cổ cầm, ở vùng Quảng Lăng. Tả chuyện Nhiếp Chính, thời Chiến Quốc, vì muốn trả ơn cho bạn là Nghiêm Trọng Tử, nên ông giết tể tướng Hiệp Lụy, rồi tự sát… - (Bình Sa Lạc Nhạn). - Tả cảnh chim nhạn bay về phương xa vào tiết thu sang... - (Mai Hoa Tam Lộng”) tả hoa mai… - (Thập Diện Mai Phục). Tả lại thời Hán Sở Tranh Hùng… - (Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ), hay còn gọi là: Tịch Dương Tiêu Cổ). Tả cảnh sắc trên sông Dương Tử... - (Ngư Tiều Vấn Đáp). Kể về cuộc nói chuyện giữa người ngư phủ và người tiều phu. - (Hồ Gia Thập Bát Phách). Tả về nữ thi nhân Thái Diễm thời Tam Quốc… - (Hán Cung Thu Nguyệt) . Tả nỗi buồn của người cung nữ trong cung… - (Dương Xuân Bạch Tuyết). Tả về cây cối trong mùa xuân có tuyết rơi...
Xét ra nội dung âm nhạc của người Hoa ngày xưa, họ chỉ diễn tả: điển tích, lịch sử, cảnh vật, đất nước, con người chứ không hề mang nội dung đồi bại, trụy lạc... Không hiểu tại sao những người theo thuyết Mao lại chối bỏ nền âm nhạc tinh hoa tuyệt vời đó cho tới hết cuộc đại “cách mạng văn hóa”. Và, đợi cho tới khi ông Đặng Tiểu Bình “lên ngôi” mới ra lệnh mở cửa ra làm ăn theo hướng “Kinh Tế Thị Trường Tư Bản”, mà theo như lời ông nói “Bất kể mèo đen hay mèo trắng miễn là bắt được chuột”. Từ đó, thứ “nhạc vàng” độc địa mà ông Mao chê bai ghét bỏ - đã sống dậy, kể cả nhạc phương Tây cũng cho phép du nhập vô trong nước.
Nhìn lại lịch sử thời cuối đời nhà Minh…Tướng Ngô Tam Quế, mở cửa Sơn Hải Quan, đón quân của tướng Đa Nhĩ Cổn vào chiếm Bắc Kinh và lập ra triều đại nhà Thanh. Nhà Thanh hiểu ra rằng: họ chỉ chiếm được đất chứ không thể chiếm được lòng người Hán và nền văn hóa đồ sộ của người Hán. Thay vì tiêu diệt họ, nhà Thanh quay sang hợp tác với tầng lớp tinh hoa của người Hán để đặt các chức quan từ trong triều đình cho tới các địa phương... Một quyết định hết sức sáng suốt.
*
Ở miền Bắc Việt Nam “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, cũng cấm tiệt thứ “nhạc vàng” độc địa giống y chang như ông Mao, cần phải loại bỏ, người dân nào sưu tầm ca hát sẽ bị bắt và bị tù đày… Nhạc vàng bị cấm chính thức vào năm 1975. Ở ngoài Bắc, vụ án lừng danh thiên cổ vì sưu tầm và hát nhạc vàng mà bị đi tù đày nhiều năm dẫn tới tan gia bạn sản, đó là vụ án:
“Toán Xồm - Lộc Vàng”. Toán Xồm tức là ông Phan Thắng Toán. Ông Toán chủ mưu với các đồng phạm là nghệ sĩ tài tử, đi tìm kiếm các tác phẩm “Văn Nghệ Đồi Trụy”. Phiên tòa xử vào tháng (1.1971). Tòa án tuyên phạt người mười năm tù, người mười lăm năm tù”.
(báo Hà Nội Mới “Phan Thắng toán và đồng bọn đã bị xét xử”, ngày 12.1.1971).
Khi hai ông “Toán Xồm - Lộc Vàng” mãn hạn tù. Một người còn sống. Một người sống vô gia cư và chết ở ngoài đường phố… Dù đi tù, dù chết trong đói khổ, bệnh tật nhưng trong lòng của hai ông vẫn trung thành với thứ “nhạc vàng đồi trụy” mà hai ông đã yêu thích...
Trong các triều đại vua chúa Đại Việt đều có nhạc cung đình. Triều đại Chúa Nguyễn cũng đã có nhạc cung đình và phát triển rực rỡ... Nhà Nguyễn chọn Huế làm kinh đô, từ đó nhạc cung đình có tên gọi là nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc trỗi lên vào những dịp (nhà vua tế trời đất, vua lên ngôi, vua băng hà, mừng chiến thắng quân giặc, đám cưới, mừng thọ, hoặc trong các nghi thức cúng đình…). Nhạc cung đình Huế, hình thành từ thế kỷ thứ mười ba [13]. Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị năm một chín bốn lăm (1945). Nền nhã nhạc cung đình Huế cũng tan rã theo. Tuy nhiên về thang âm, thì âm nhạc cung đình Đại Việt đã biết xử dụng bát âm cho nhã nhạc, gồm: “Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liu, U”.
*
Tân Nhạc Quốc Gia Phải Chăng Là loại Nhạc “Đồi Trụy”?
Tân Nhạc Việt Nam hình thành từ khoảng năm (1928). Theo “Nam Kỳ Lục Tỉnh”. Tân Nhạc Quốc Gia có ba tên gọi:
- Tân Nhạc Việt Nam (Vietnamese modern music)
- Nhạc Tân Thời (Vietnamese modern musical era)
- Nhạc cải cách (Vietnamese reformed music).
Trong bài viết nầy, tôi không bàn về âm nhạc, dù có muốn bàn thì cũng chẳng có biết chi mô về âm nhạc mà bàn. Tất cả dẫn chứng trong bài viết nầy là để làm minh bạch cái mà người ta gán tội cho Tân Nhạc Quốc Gia là loại nhạc “Đồi & Trụy”. Dòng Tân Nhạc Quốc Gia có phải là thứ nhạc mang nội dung xấu xa đã làm hư hỏng người nghe, hủy hoại xã hội hay làm mất đi một quốc gia như vậy hay không mà thôi!
Người Việt cũng giống người Hoa. Thích màu vàng: “da vàng, lúa vàng, trăng vàng, nắng vàng, hoa cúc vàng, hoa dã quỳ vàng, rùa vàng, ngai vàng… Năm (40 - 43). Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh giặc Tàu bà cũng lấy màu cờ vàng. “phất ngọn cờ vàng, phất ngọn cờ vàng oai hùng quân Nam”. (Bài học thêm lớp tiểu học thời Miền Nam Quốc Gia). Các triều vua nhà Nguyễn kể từ vua Thành Thái cũng chọn màu vàng làm cờ “Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”, ba sọc tượng trưng cho ba miền.
Thử tìm hiểu hai chữ “Đồi & Trụy”:
-Chữ “đồi”, là ngọn đồi ít cây cối, đồi trọc, đồi đá… Đồi, là đồi bại (phong tục đồi bại). Đồi, là hư hỏng, đổ nát, tồi tệ xấu xa.
- Chữ “trụy” là rớt xuống, ngã xuống. Trụy thai, là hư thai. Trụy địa, là té ngã xuống đất. Trụy lạc, là rơi vô nơi chốn dơ bẩn.
Hai chữ “đồi & trụy” không thể ghép chung. Chữ “đồi trụy” không nằm trong tự điển tiếng Việt. Vậy thì tại sao phải mượn hai chữ đó đem đi “hạch tội, vu vạ” cho một nền âm nhạc - “Tân Nhạc Quốc Gia - Nhân Bản - Khai Phóng” đã có từ lâu. Cầm bằng cho rằng Tân Nhạc Quốc Gia là thứ nhạc “đồi & trụy” thật sự. Vậy thử tìm xem trong hàng chục ngàn tác phẩm “nhạc vàng” đó có lời ca nào: - cổ súy cho việc giết người; cổ súy cho việc phá hoại tín ngưỡng, tôn giáo; cổ súy cho việc tố cáo, chụp mũ lẫn nhau; cổ súy cho việc giết hại đồng bào; cổ súy cho việc cướp bóc; cổ súy cho việc phá hoại thuần phong mỹ tục; cổ súy cho việc lừa thầy phản bạn hay giựt chồng, cướp vợ; cổ súy cho việc xóa bỏ lịch sử… Tất nhiên, (nếu có) loại nhạc phẩm tai hại như vậy thì phải mang đi đốt bỏ. Và, nếu không đốt bỏ đi thì tự thân loại nhạc qủy quái đó cũng tan biến theo dòng thời gian. Lịch sử và lịch sử âm nhạc cũng không muốn nhắc tới làm chi.
“Nhạc sĩ Tô Hải sáng tác một ngàn bản nhạc, nhưng chính ông thú nhận: “Hầu hết sáng tác của tôi là do "hèn" nên nội dung chỉ là các khẩu hiệu tuyên truyền”. Năm 1960, nhạc sĩ Tô Hải bỏ đảng, ra khỏi quân đội. Sau năm 1975, ông vào Sài Gòn, tới năm 1986 về hưu non, chọn Nha Trang là nơi ở ẩn để tránh “phải nhận chỉ thị buộc viết cái gì, viết thế nào, viết cho ai.”. Ông thọ tới 91 tuổi. Tháng Sáu, 2009, tủ sách Tiếng Quê Hương tại Virginia, Hoa Kỳ, đã xuất bản và phát hành tác phẩm “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải. Cuối đời ông đốt hết chỉ chừa lại một nhạc phẩm”. Theo đài (BBC).
Người xưa, có câu nói “Hữu xạ tự nhiên hương”. Quả không sai. Trong dòng nhạc Tân Nhạc Quốc Gia đã có sẵn xạ, mùi hương từ xạ tỏa ra theo năm tháng dù cho có phong ba bão táp mùi hương của xạ vẫn cố bám chứ không hề phai… Đã nửa thế kỷ trôi qua, từ ngày mất Miền Nam Quốc Gia nhưng dòng nhạc Tân Nhạc Quốc Gia vẫn không mất. Lớp sinh sau đã thừa hưởng một di sản Tân Nhạc vĩ đại… Và nhờ dòng Tân Nhạc Quốc Gia đó mà đã có hàng ngàn Ca Sĩ trẻ “thế hệ sau” tiếp tục thành danh và giàu có (khắp trong và ngoài nước). Đó là chưa kể mọi người, mọi nhà - dù nhiều, dù ít - đều thuộc vài lời, vài đoạn trong bản nhạc hay vài bản Tân Nhạc Quốc Gia để hát chung vui trong: - đám cưới, đám ma, đám đầy tháng, đám thôi nôi, đám tân gia và các cuộc nhậu là chuyện bình thường.
Tân Nhạc Quốc Gia đã thấm sâu vô từng mạch máu li ti của người Việt… Mỗi dịp xuân về, người xa quê khắp nơi, không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Xuân Này Con Không Về”. Nghĩ về người mẹ thân yêu không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Lòng Mẹ”. Nghĩ về thời học sinh, không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Em Tan Trường Về, - Nỗi Buồn Hoa Phượng”. Nghĩ về người lính, không ai mà không nhớ nhạc phẩm “Chuyến Tàu Hoàng Hôn, - Ly Rượu Mừng – Rừng Lá Thấp...* Nghĩ về tình yêu không ai mà không nhớ nhạc phẩm “Tôi Đưa Em Sang Sông, - Thành Phố Buồn...”. Còn nhiều…, và còn nhiều lắm! Tân Nhạc Quốc Gia, có một sức mạnh riêng mà không một cá nhân, không một đảng phái nào ngăn cản nổi. Âm nhạc không hạn hẹp bởi: - biên giới, màu da, tôn giáo, đảng phái, trẻ, già, địa lý… Chính âm nhạc Phương Tây đã góp phần làm cho “Bức Tường Bá Linh” sụp đổ. Lịch sử đã ghi lại như vậy!
Trong mỗi con người đều có nhạc… Hãy để các nốt nhạc trong sáng ở trong tâm lòng ngân lên cho đời rộn rã tươi vui… Hãy xích lại gần nhau trong tình yêu, trong tình tương thân tương ái bằng lời nhạc nhẹ nhàng bay bổng mà sâu lắng…! Nhạc không màu…, nhưng là “cầu vồng bảy sắc” cho những người yêu nhạc bước qua để đi tới vùng hương hoa bát ngát của “Chân – Thiện – Mỹ ./.
Trang Y Hạ
Bài đăng trong “huongduongtxd… saigonbao...”
*Nhạc Phẩm lừng danh “Ly Rươu Mừng” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương bị “cầm tù” 40 năm.
https://www.facebook.com/ha.trangy
https://www.facebook.com/ha.trangy?comment_id=Y29tbWVudDozMzk1MTkzMDQ0MTI5ODI4XzM0NzAyMzYwNTMyMDYxOTc%3D
_________
Bịnh Cam Tích & Bài Thơ Con Cóc
Tôi không biết rằng tôi đã có bịnh trong người, hằng ngày tôi vẫn ung dung đi học, vui chơi cùng bạn hữu. Có một lần thằng bạn sờ bụng tôi, nói “bụng mầy bự thật, y như có chửa…”.
Tôi nhớ, mẹ tôi thường cho tôi ăn cháo, trong tô cháo có thịt băm thật nhuyễn. Tôi ăn một thời gian... Thằng bạn, nó lại sờ bụng tôi, nói “Bụng của mầy tự nhiên xẹp lép, chắc mầy sanh rồi phải không?”. Một hôm, tôi đang ngồi học bài, thì có bà bạn của mẹ tới thăm. Hai người nói chuyện và tôi nghe lõm bõm - Chị về bắt chừng hai con cóc, cắt bỏ đầu lột da, vứt hết bộ đồ lòng, chỉ lấy thịt - nhớ là rửa dưới dòng nước chảy cho sạch hết mủ và trứng cóc. Để ráo nước, bỏ lên thớt băm thật nhuyễn, ướp muối gia vị, đừng cay quá cháu nó ăn không được. Cháo nấu hơi lõng một chút, vừa đủ một tô, khi cháo chín, chị cho thịt cóc vô khuấy đều chừng vài phút, để cho bớt nóng, sau đó chị cho con trai của chị ăn, ăn chừng mươi lần là cái bụng con chị sẽ xẹp xuống. Trước kia con trai của tôi cũng mắc chứng bụng to như có chửa. Dân gian người ta gọi đó là bị “cam tích”. Tôi làm thịt cóc nấu cháo cho ăn, vậy là con trai hết bịnh. Nguyên nhân cũng từ suy dinh dưỡng mà ra thôi.
Nghe xong, tôi nghe - nhờn nhợn, gần như muốn… ói! Tôi hiểu, thì ra mấy năm trước, tôi bị bịnh cam tích chi đó - mẹ phải cực khổ tìm bắt con cóc, làm thịt cóc cho tôi ăn. Tôi hết bịnh…! Thôi, đã ăn và hết bịnh thì phải cảm ơn mẹ chứ! Chuyện tôi ăn cháo cóc, lần hồi rồi cũng quên mất. Trong giờ học văn. Ông thầy kể chuyện ba anh chàng học trò làm thơ: Tóm tắt câu chuyện như sau:
-“Có ba anh học trò dốt, một hôm ba anh chàng thấy một con cóc. Ba anh nổi hứng rủ nhau mần thơ: Anh thứ nhất đọc: “Con cóc trong hang. Con cóc nhảy ra. Anh thứ hai đọc tiếp: Con cóc nhảy ra. Con cóc ngồi đó. Anh thứ ba đọc tiếp: Con cóc ngồi đó. Con cóc nhảy đi”. Ba anh Làm xong bài thơ, hào hứng khen: Thi thần, thi bá…! Nhớ lại lời người xưa: - “Tài hoa yểu mệnh”. Ba anh chàng lo sợ chết bất đắc kỳ tử, sai ngay tiểu đồng ra phố mua ba cái quan tài để phòng hờ. Bá tánh ngoài phố, nghe tiểu đồng kể lại sự tình. Một bá tánh, dặn: Vậy thì mày mua giùm tao một cái nữa. Tao cười, tao chết có cái quan tài mà chôn!”. Trí óc non nớt, nghe thầy kể sao nghe vậy. Tính tôi vốn hay tò mò… Tôi tự đặt câu hỏi… Tôi có hỏi qua vài ba người lớn, nhưng họ không trả lời. Tôi còn nghe họ nói – “Thơ con cóc hay ho chi mà đọc, mà hỏi”.
Lớn lên, tôi đọc sách tra cứu mới biết. Bài Thơ con cóc là của tác giả Vô Danh. Bài thơ như là một bài ca dao, cũng có thể là đồng dao như bài: “Ông Nỉnh ông Ninh - Ông ra đầu đình - Ông gặp ông Nảng ông Nang - Ông Nảng ông Nang - Ông ra đầu làng - Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh...”.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc, đánh giá bài đồng dao “ông nỉnh” là tuyệt tác trong văn học Việt Nam!
Trong bài thơ con cóc, vế thứ nhứt: con cóc trong hang. con cóc nhảy ra. Tôi nghĩ, chắc chắn là phải có một lý do nào đó, làm cho con cóc sợ hãi mới rời khỏi hang? Hoặc có thể là bị “đói”! Đói, nhưng con cóc bản tánh ít khi mở miệng. Con cóc cũng không muốn vay mượn, nhờ cậy người khác mà bị mang ơn. Do đó, con cóc phải nhảy ra khỏi cái hang để đi kiếm thức ăn. Con cóc là cậu ông trời mà vẫn khổ!
Vế thứ hai chia ra làm hai, thứ nhứt: con cóc trong hang. con cóc nhảy ra. Hai câu nầy chỉ về hiện tại. Ở trong hang lâu ngày, hang chật chội, nước dâng lên làm ẩm thấp, hoặc bị kẻ khác cướp hang… Con cóc phải nhảy ra, nhảy ra nhưng chưa định hướng… Hai câu sau - con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi, là chỉ về tương lai. Con cóc ngồi đó, suy nghĩ, rồi nhảy đi! Con cóc nhảy đi đâu, khi “tương lai” mù mịt? Hẳn nhiên con cóc sẽ phải đi tìm một vùng đất mới, một cái hang mới, tốt hơn!
Vế thứ ba. Con cóc không ưa chen vô chuyện kẻ khác. Thích sống yên ổn, tự do. Không muốn làm phiền ai, cũng không muốn ai làm phiền tới mình, ở không được thì nhảy đi tìm chỗ khác. Và đôi khi cũng phải sống thờ ơ lãnh đạm kiểu đèn nhà ai nấy rạng. Hoặc sống bất cần đời, sống giang hồ phiêu bạt khắp bốn phương trời như dân cái bang.
Các nhân tự tảo môn tiền tuyết,
Mạc quản tha nhân ngõa thượng sương.
(Tuyết trước cửa nhà mình tự quét,
Sương mái nhà người chớ bận tâm)!
Bài thơ con cóc mang tính triết lý nhân sinh của con người, mà tôi đã trình bày, là vậy đó!
Bài thơ con cóc, có dính dáng chi tới chuyện, thơ: dở - mà bá tánh lâu nay gán ghép, mỉa mai một cách hàm hồ, cho người làm thơ như tôi, một cách vô tội vạ không? Tôi cho là có liên quan! Chẳng những liên quan, mà còn phê phán một cách trung thực. Xưa nay, không một nhà phê bình văn học nào có thể qua mặt được bài thơ con cóc. Bài thơ con cóc - nổi tiếng nhứt - hay nhứt - trong các bài thơ từ cổ tới kim. Người làm thơ chớ để “con cóc” nhảy vô... Nhưng rồi con cóc sẽ nhảy vô. Người làm thơ vô tình không hề hay biết, hoặc có biết, nhưng vì tính cao ngạo: “vợ người thì đẹp, thơ mình thì hay”. Và một khi đã nổi tiếng: thi ông, thi bà, lại làm thơ dễ dãi...
Bài thơ con cóc đã trở thành “thành ngữ” nổi tiếng, còn hơn các nhân vật khác hay thơ văn khác. Thí dụ: Nhắc tới lừa tình, thì có Sở Khanh - Nhắc tới ghen tuôn thì có nàng Hoạn Thư, là phải nhớ Nguyễn Du - Nhắc tới Trần Bình Trọng, thì nhớ câu “Ta thà làm quỷ nước nam còn hơn làm vua đất bắc” - Nhắc tới thi nhân, Trần Dần thì nhớ “Ta bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ”. Tôi đọc thơ tình, tôi bắt gặp lại tôi:
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em...
(Xuân Diệu)
Câu thơ tình ướt át, quá ướt - ở một thời xa xưa, xưa lắm lắm… - nhiều hơn nửa thế kỷ trước. Tôi rất hâm mộ thơ tình ướt át đó, tôi mê mẫn tới quay cuồng đầu óc…, tôi chép lại trong tập vở để dành. Và hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn đọc lại thơ tình… Thơ tình diễn tả vẫn ướt át như người xưa, thơ vẫn ướt, thậm chí còn ướt át hơn - ướt - thấm qua cả màn hình computer. Không biết tại sao, tôi lại “không rung động”; không rung động chứ không lạnh lùng với thơ tình. Trong cơ thể tôi vẫn còn hừng hực lửa tình. Tôi vẫn ngẩn ngơ trước giai nhận. Tôi vẫn mơ: Tây Thi, Dương Quý Phi. Marilyn Monroe, Sivil Vartan. Một sự kiện cuốn theo cái vòng lẩn quẩn tới lui thiệt là nhàm chán. Nhàm chán, nhưng bài thơ con cóc vẫn rộn ràng trong đầu như một điệu luân vũ...
Thời internet “computer”, thái độ tình yêu có khác, khác nhiều lắm... Khác ở chỗ nhanh lẹ và thay đổi liên tục, nhanh tới nỗi trắng đen lẫn lộn mà không kịp, không thể nhận ra. Hối hả, gấp gáp - giản dị, cô đọng - thực tế, thực dụng… Thời internet, không nhiều thì giờ để ngồi nhìn mây bay qua bầu trời mà than vãn…, mà than thân trách phận, hờn giận vu vơ, nằm ì ra đó hai ba ngày, không ăn… Hoặc chống cằm ngồi lì ở bên song cửa sổ, chờ người yêu tới... Không gian ở thời buổi - internet - rất ấm áp, ấm cả đêm lẫn ngày - đã hết lạnh từ lâu rồi. “mặt trời” ở thời buổi internet, không thích đi ngủ sớm nữa. Mặt trời thời internet, rực lửa suốt năm canh, nóng nảy tới toát mồ hôi hột, phải trút bỏ hết cả quần áo…
Thời internet - Nhớ em ư! Lắc con “chuột” là thấy mặt… Mở máy điện thoại, là: Anh nhớ em, em ơi, em hỡi, em hời… ! Lắc con “chuột” là: Em nhớ anh, anh ơi, anh hỡi, anh hời… Tất cả đều hiện ra trên màn hình một cách rõ ràng, trọn vẹn... Màn kịch chỉ có hai người đối thoại; hai người diễn, diễn nhiều cảnh qua màu sắc rực rỡ, tràn đầy tình yêu sung mãn và hy vọng… Thời internet, cũng có thể nhắn tin trò chuyện tình yêu cùng một lúc với vài người... Cái bàn phiếm, là "ông mai, bà mối” nối kết tuyệt vời! Trái đất càng ngày càng nhỏ. Muốn gặp anh? Muốn gặp em? - Nhắn tin…! (Lên xe dẫn em đi - lên xe dẫn anh đi). Tình yêu thời internet nhanh như tốc độ ánh sáng, đốt bỏ hết các giai đoạn mào đầu…
Con cóc, nó lại nhảy ngang qua đầu, làm tôi phải bỏ ngang bài thơ tình đang đọc dở dang... Bây giờ, tôi mới tỉnh ngộ, rằng: bài thơ con cóc còn có sức lôi cuốn; lôi cuốn một cách mãnh liệt còn hơn ý nghĩa nhân sinh.
Mỹ và Tây Phương, từ lâu đã bỏ làm thơ theo thói quen ướt át, ngậm ngùi thương đau… Từ đầu thế kỷ mười chín, nhóm thơ Parnassians của Pháp đã chôn giấu xúc cảm. Lấy cái nhìn khách quan, yêu đời mà diễn đạt thơ. Đầu thế kỷ hai mươi, phái thơ “Duy hình tượng” (Imagism) của Anh, Mỹ. Bỏ tĩnh từ! Tĩnh từ làm mưa, làm gió ướt át, giết chết thơ!
Bài thơ con cóc đã có trước Adam Ferguson từ rất lâu, đã có nảy sinh trạng thái từ vật chất hòa trộn với tinh thần. Adam Ferguson, viết trong cuốn “Essay on the History of Civil Society” (Tiểu luận về lịch sử và xã hội công dân). Xuất bản 1767, ông viết “Không chỉ những cá nhân tiến bộ từ thuở còn thơ ấu cho đến thời trưởng thành mà chính những giống loài đi từ trạng thái man rợ đến một nền văn minh, khoa học”!
Bài thơ con cóc ra đời ở thời điểm nào, cho tới nay vẫn chưa biết, chỉ biết là đã có từ rất lâu, lâu lắm… Bài thơ đã được ông Trương Vĩnh Ký, in trong quyển “Chuyện Đời Xưa”, xuất bản lần đầu tiên, năm 1866. Bài thơ vượt thời gian, qua mặt hết các nhà thơ tình nổi danh: ”Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Huy cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... Và còn đọng lại mãi trong lòng các thế hệ nối tiếp.
Tôi chịu ơn con cóc. Con cóc đã chết qua tay mẹ tôi, để tôi được sống và ngồi đây viết về con cóc… Tôi từ phương trời xa lơ, xa lắc… Tôi trở về thăm mẹ. Mẹ sờ bụng tôi… Mẹ nói “Bụng của mi lại bị chứng… cam tích nữa hả, hay là bụng chứa đầy bia rứa hỉ? Cuộc đời của mi như con cóc, nhảy đi miết, không ở bên cạnh mẹ từ ngày trưởng thành cho tới nay”. Mẹ trách tôi, rồi mẹ cười thiệt là vui…! Mẹ cười vui, vì tôi đang ngồi bên mẹ mà...! Mẹ cười, miệng của mẹ móm sọm. Mẹ lại nói “Chừ mà mi có bị chứng… cam tích, thì đành chịu chết. Cóc trong hang nó nhảy ra từng bầy, nhởn nhơ như rứa, nhưng không dám bắt”. Ôi, Mẹ tôi lẩn… quá rồi! Mẹ của tôi đã một trăm tuổi! ./.
Trang Y Hạ
Mùa hạ, 2020
Đã đăng trong “huongduongtxd… liên mạng saigonbao…”
https://www.facebook.com/ha.trangy
_________
Người già có hóa ra con nít
Trong nhà có người già (cha, mẹ, ông bà), ở chung - con cháu phải phụng dưỡng để báo đáp… Đó là việc làm nhân ái, đạo đức vô cùng cao quí của người phương Đông, trong đó có người Việt. Người Mỹ – người Phương Tây, tới tuổi già, họ vô Viện Dưỡng Lão (Nursing Home)... Trường hợp họ tới tuổi già “hưu” nhưng còn sức khỏe, còn lái xe được thì họ cũng tìm nơi ở riêng.
Người Việt - từ xa xưa - ông bà, cha mẹ, con cháu chắt gắn bó tình cảm với nhau một cách thiêng liêng ở trong một ngôi nhà, gọi là “Tứ đại đồng đường”. Chuyện báo hiếu bằng cách chăm sóc người già - là phước đức lớn nhứt, là một việc làm thiện nguyện nhân bản trên tất cả các việc từ thiện. Tuy nhiên, ngày nay bước vào thời đại công nghiệp cơ khí: hãng, xưởng, thời truyền hình, truyền thông “computer”; thời giáo dục phổ thông (đại học và trên đại học); thời vật liệu xây dựng muôn màu, muôn vẻ; thời du lịch đó đây, thì không thể túm tụm ở trong một ngôi nhà chật chội như vậy được mà phải tách ra ở riêng từng gia đình một, để tránh ồn ào, để tôn trọng quyền riêng tư cũng như tùy nghi theo công việc của mỗi người. Tuy mỗi thời mỗi khác nhau – và, dù có tách ra - mỗi người mỗi nơi, nhưng giá trị truyền thống gia đình dòng tộc vẫn không bao giờ thay đổi và phai nhạt.
Tại sao người già phải ra ở riêng (Viện Dưỡng Lão - Nursing Home)? Một người già ở trong viện dưỡng lão, nói với tôi rằng:
“Chúng tôi phải vào viện dưỡng lão, Nursing Home hay ở riêng là để cho con cháu được tự do vui hưởng cuộc sống cho trọn phần của chúng nó”.
Để người già phụng dưỡng tại nhà, người con, người cháu phải có lợi tức vững vàng, có tình thương yêu, tôn trọng ông bà, cha mẹ. Trường hợp nhà có nhiều anh chị em thì chia nhau ra, kẻ góp của, người góp công tùy theo lợi tức của mỗi người, vì dù sao con cháu tự tay chăm sóc người gìa, cha mẹ vẫn hơn là đi thuê mướn người dưng. Thuê mướn người dưng - thì dù ít, dù nhiều cũng mang tai tiếng với bà con, dòng họ, người đời... Tuy nhiên, tuổi thơ có tâm lý của tuổi thơ, người già có tâm lý của người già, nếu không có tình thương và sự nhẫn nại hy sinh thì chưa chắc chăm sóc người già cho hoàn hảo cho dù là con cháu.
“Mẹ già như chuối chín cây.
Gió lay mẹ rụng con rày mồi côi”.
(Ca dao)
Người già thường là lú lẫn, nhớ trước quên sau, nếu ở nhà một mình thì sẽ gây tai họa, như: mở bếp ga, mở vòi nước... mà không nhớ vặn khóa lại, ăn uống sống sượng… nhứt là uống lầm thuốc… Cuối cùng là đi lang thang để rồi bị té ngã, chết hoặc mất tích...
Người già, cha mẹ già, nhưng ở chung với con cái - cũng là chuyện chẳng đặng đừng. Từ đó mà xưa nay những người - Anh cả, Chị cả - Anh hai, Chị hai, Chị ba, Anh tư... “nhường” cha mẹ già lại cho người em gái út, em trai út. Người xưa, nói “Giàu út ăn - Khó út chịu”, hoặc “Giữ chùa thì được ăn oản”. Nói như vậy quả thật là quá “sai lầm” và trốn “trách nhiệm”… Thử hỏi “Giàu út ăn…”, là Út ăn cái thứ chi chi…? Cha mẹ không của cải thì ăn cái chi chi! Cho dù cha mẹ có của, để lại của cải, đất ruộng, nhưng chắc gì cha mẹ để lại hết cho con Út?. Còn “giữ chùa thì được ăn oản”! Oản, đây chẳng qua là... ăn của chờ, ăn của chực... từ bá tánh chứ có tốt lành chi mà nói. Tóm lại là không một “khế ước” nào chắc chắn bảo đảm cho "Út ăn, Út chịu".
Xưa nay hầu như mỗi khi cha mẹ mất, các con xúm lại giành gia tài (nếu có) tới nỗi kéo nhau ta tòa án. Hoặc cha mẹ mất lại xúm nhau chia tiền “phúng điếu”, tranh công, khoe công…!
Người già thông thường có ba loại bịnh: “táo bón – tiêu chảy – mất ngủ”. Đó là ba chứng bịnh thông thường, biết chăm sóc chuyện ăn, uống thì sẽ nhanh chóng qua khỏi. Tuy nhiên, hễ thấy biến chứng trầm trọng thì phải cấp tốc chuyển tới Bịnh viện, chứ đừng gọi mấy ông “thầy lang” hay tự mua thuốc cho uống.
Đừng bao giờ nói “Người già hóa ra con nít”.
Câu nói đó chỉ đúng có một phần nào theo “nghĩa đen”. Người già hóa con nít là một khi họ mất trí nhớ theo tuổi đời một ngày một già thêm già mà đâm ra nghễnh ngãng, hoặc là họ bị bịnh “alzheimer”, một thứ bịnh về não bộ tác động mạnh tới trí nhớ; tới sự suy nghĩ và mọi hành vi không thể kiểm soát việc làm của họ. Một khi mất trí nhớ hoàn toàn, khi đó, họ - người già - cũng giống như con nít lên ba, còn nếu không bị các thứ bịnh đó - họ vẫn nhớ và nhớ rất dai… Đôi khi mất hết trí nhớ, nhưng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó họ lại nhớ…. Người già thường sống với dĩ vãng, hiện tại thì “lực bất tòng tâm”, tương lại thì gần đất xa trời. Do đó, họ ôn lại kỷ niệm – tình yêu, bạn hữu - buồn vui của một thời trai trẻ đã từng trải qua. Quá khứ đối với người già là niềm an ủi tuyệt vời để nghiền ngẫm những sai lầm, những thiếu sót (nếu có), những ưu điểm hay công trạng lính tráng, công chức - một thời - họ đã phục vụ... Họ đi thăm bạn hữu, uống vài ly bia, vài ly rượu chung vui. Họ hay thở dài, nuối tiếc vốn thời gian còn lại quá ít không đủ để hoàn thành các đề án còn đang dang dở… Hoặc nhìn con cháu trưởng thành, học hành đỗ đạt, công việc làm suông sẻ.
Đừng bao giờ nói – “Người già hóa ra con nít”.
Do hiểu sai câu nói mà khinh thường người già. Người già, tuy già nhưng vẫn còn có ích: Ông Bà Thầy giáo già, Giáo sư già - trí óc minh mẫn vẫn đảm nhiệm chức vụ… Người già vẫn đảm đương sứ mệnh lịch sử và làm nên lịch sử... Ông Khương Tử Nha, ông Donald Trump… là một thí dụ. Người già còn tỉnh táo viết sách, làm thơ, viết hồi ký…!
Sống thọ, sống lâu không phải là một cái tội.
Người già sống thọ tới gần trăm tuổi, thì các con của họ lúc đó - tuổi đời cũng đã - đứng vào "hàng sáu, hàng bảy, hàng tám chục tuổi…”. Thời gian nầy, cả cha mẹ và con - đều có chung một cái “Bịnh Già”…! Bịnh già, thì xưa nay không tha thứ cho một ai bao giờ! Cơ thể tới tuổi sáu mươi, người Trung Hoa gọi là - tròn “hoa giáp” thì cơ thể đã suy yếu - xương giòn, da nhăn, da tàn nhang, các khớp đau nhức, mắt mờ, răng long, tóc bạc, đêm nằm trằn trọc mất ngủ giống như nhau thôi. Cha mẹ già, ngồi nằm một chỗ, chứ các con “già” - thì phải lo toan đủ thứ chuyện...
Đã già, lại còn phải bận chăm sóc “người già”, dù có đi chơi vài ba ngày cũng phải lo kiếm người trông nom… Đi chơi, đi du lịch cũng không an tâm. Đó là chưa kể - một khi phụng dưỡng cha mẹ già mà... con rễ, con dâu tỏ ra không mấy hài lòng thì đó là một trở ngại lớn. Sự sống vô cùng thiêng liêng. Con sâu, con kiến còn muốn sống huống hồ là con người, mà con người đó lại là cha mẹ ruột.
“Đêm đêm con thắp đèn trời.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
(Ca dao)
Người già, có một số ít người già - khó tánh, cau có, ưa bắt bẻ, xét nét, xét nét hơi nhiều là ở người mẹ - xét nét người con dâu. Người già hay hờn, hay giận không chịu ăn uống… cũng có khi nổi quạu - hất cơm, nước, sữa... Tự bưng cơm ăn không được, con cháu phải đút cho ăn, lại nhả ra, hoặc phun tùm lum… Con nít không chịu ăn thì còn dỗ dành, nạt nộ, thậm chí lấy roi ra hăm dọa... Người già cha mẹ không dám làm như vậy được. Đối đế lắm, nói vài câu nhẹ nhàng chứ không dám vô lễ nặng lời. Từ đó, người con, người cháu chăm sóc lâu ngày - ấm ức dồn nén, đâm ra - buồn, bất mãn, dẫn tới mệt mỏi, ngao ngán, chán nản không biết than thở cùng ai. Tích tụ lại trong lòng lâu ngày dẫn tới “tâm bịnh” hoặc tánh tình trở nên bẳn gắt vô cớ với mọi người!
“Nhiều sư, nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
Gia đình duy nhứt chỉ có một người con (trai, gái). Người con đó lo cho người già (cha mẹ) chu toàn thì không nói làm chi. Gia đình đông anh chị em, nhưng mỗi người lấy chồng, lấy vợ - ở mỗi nơi xa lơ xa lắc thì không thể phụng dưỡng cha mẹ già được, đôi khi nạnh hẹ với nhau. Nhưng tựu trung những người anh chị em ở xa xôi đó họ cũng thương yêu cha mẹ vậy. Tùy giàu nghèo, vẫn đóng góp tiền bạc cho các anh chị em còn ở gần chăm nom dùm cha mẹ theo kiểu “người có của, người có công”. Nói thật ra người có công phụng dưỡng chịu thiệt thòi, bởi: “Của Một Đồng, Công Một Lượng”.
Công ở đây, là công về mặt tinh thần. Khi tối lửa, khi tắt đèn, sớm hôm ông bà, cha mẹ, con cháu thấy mặt nhau, quây quần bên nhau, san sẻ vui buồn với nhau, san sẻ miếng ăn, miếng uống... Các người con ở phương trời xa chỉ có mơ ước... Cái công chăm sóc đó có thể mướn người dưng làm thay, nhưng cái công về mặt tinh thần thì không thể thuê mướn. Công về tinh thần là vô giá!
Hơn nữa, là các người con trực tiếp chăm sóc người già (cha mẹ), họ không có được khoảng “Lợi Tức Ổn Định”, để chuyên tâm... Họ còn phải đi làm để sinh sống... Người con ở phương xa an tâm làm ra tiền, thậm chí làm ra nhiều tiền… Chỉ cần bỏ ra một số tiền “nhứt định” là coi như tạm hoàn thành trách nhiệm. Quên mất câu: “Một Mặt Hơn Mười Gói”.
Ông thi sĩ nào đó, nói “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười”. Nghe thơ... thì hay lắm! Nhưng thực tế có những người con quanh năm suốt tháng đi biền biệt, không một lần về thăm. Dẫu có về thì cũng lo đi chơi, chứ chưa hề ngồi ăn chung với mẹ một lần… Và, thậm chí – chuyện rất đơn giản, là gọi điện về thăm mẹ cũng không làm. Vậy thì thử hỏi: Làm chi mà nghe cho được “Tiếng Mẹ Cười” đây hử...!?
Đừng bao giờ trách móc người trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ già. Cho dù có bị một lỗi nào đó cũng không nên xóa sạch, phủ nhận hết công lao của họ. Thậm chí đổ thừa... Có trách chăng là tự trách chính bản thân mình đã làm tròn bổn phận cho cha mẹ hay chưa? Tạo Nghiệp Lành chứ đừng tạo “Nghiệp Chướng” mà sa địa ngục.
Người già không bao giờ hóa ra con nít.
Như đã nói, dù người già có mất trí nhớ, nhưng trong một khoảng thời gian nhứt định nào đó họ lại nhớ và nhớ rất rõ từng chi tiết. Tôi đi thăm một người bạn ở trong Viện Dưỡng Lão (Nursing Home). Người bạn già của tôi cũng... lúc quên, lúc nhớ, nói với tôi rằng:
“Viện dưỡng lão là một Tu Viện, được vào nơi đó là phải biết im lặng và phải biết vâng lời để tồn tại”.
Câu nói đầy ẩn ý, có thể tạm hiểu - vô ở nơi viện […] nầy, là đã xa lìa con cháu, xa lìa người thân, xa lìa bạn hữu... Hãy bỏ hết cái tôi nặng nề để tự bảo vệ lấy bản thân già nua của mình.
Người già, tuy có phần khó tính, nhưng không tranh hơn, thua...! Con cái, người thân dù đối xử tàn nhẫn, bỏ bê (nếu có), họ vẫn im lặng cắn răng chịu đựng mà không hề than vãn hay cầu xin… Họ xem đó là một hình thức (đáng được trừng phạt) cho các lỗi lầm của họ trong quá khứ [...]. Hoặc người đời có khinh khi, thậm chí đánh họ, họ cũng không tố khổ, tố cáo với ai một lời. Họ âm thầm dọn mình, xóa bỏ hết mọi ân oán... Họ luôn luôn cầu nguyện để được ra đi thanh thản [chết lành], để khỏi là một gánh nặng cho con cháu, người thân.
“Chuỗi đeo nặng ngực tay lần
hột kinh vọng trả cõi trần đã vay.
trăm năm tựa một con quay
xét mình tội lỗi mỗi ngày ăn năn”
(Trích thơ Trang Y Hạ)
Người già, đau buồn khi thấy các con lo cho họ quá tốn kém. Họ vô cùng lo lắng khi thấy các con làm ăn thất bại. Sự cô đơn của người già không phải là ở một mình, mà là sự bế tắc và bất lực. Con cháu nếu có cho tiền họ vẫn nhận, họ nhận nhưng không khi nào tiêu xài phung phí... Tôi đã từng chứng kiến một người mẹ qua đời, các con của bà khám phá ra số tiền cho mẹ tiêu vặt hằng ngày trong những năm qua - vẫn còn... Cha mẹ lo cho con tới khi sắp mãn phần vẫn còn lo, dù lo trong ý nghĩ.
Đừng bao giờ nói “Người già hóa ra con nít”.
Nhưng, sẽ là con nít cho những người sắp được già. Người sắp được già đó hãy suy nghĩ, chuẩn bị tâm hồn thanh bạch, trút bỏ hết “hỉ, nộ, ái, ố...” để tới lúc thực sự già thì an phận thủ thường, hóa ra con nít, thật là “dễ thương, dễ mến”... Lúc đó, sẽ nhận được tình cảm của mọi người, nhận được sự nuông chiều, đùm bọc thật ấm áp bằng tình yêu thương của con cháu, người thân…! ./.
Trang Y Hạ - 2013
Đã đăng trong trang Văn Học "huongduongtxd...".
&Lưu trong trangyha.Blogs...!
_________
Trả lại công bằng cho con chó
“Càng biết nhiều về con người, tôi càng yêu con chó của mình” (Mark Twain).
Mỗi khi bất bình chuyện gì trong cuộc sống… là có cự cãi, xỉ vả nhau bằng những lời lẽ nặng nề hoặc chửi thầm, chửi sau lưng... Thiên hạ xưa nay mỗi khi chửi đều đem con chó ra bêu rếu đến tội nghiệp!
Con chó có tai để nghe, nhưng chó lại không biết nghe tiếng nói của con người, người ta chửi bới nhau đồng thời lôi kéo chó vào chuyện, thị phi; - con chó vẫn tỉnh queo ngồi nhìn các "ông chủ" lấy nó ra làm đòn kê để trút nỗi giận… Phải chi con chó biết nghe chút... chút…, vài ba tiếng người chắc chắn nó sẽ ngoạm vào ống quyển những kẻ chửi nó mấy cái cho bỏ ghét, cái thói chửi mà lại hay bắt quàng nầy nọ.
(Kể ra con người còn có phước, bởi loài chó không nghe được tiếng người nên nó mới “trung thành” tới tuyệt đối!).
Con người lấy chó ra chửi thì dùng tất cả chữ nghĩa “khủng khiếp” để sát phạt đối phương xuống hàng “chó” như:
- Đồ ngu như con chó!
- Đồ chó chết!
- Đồ chó đẻ!
- Đồ chó ghẻ! Chó lác! Chó xà mâu!
- Đồ chó điên!
- Đồ chó làm biếng!
- Đồ chó phản chủ!
Xưa nay không nghe ai chửi: Đồ… chó “khùng”! Chữ khùng hơi nhẹ, không đủ độ mạt sát để cho sướng mồm. Vả lại, chỉ thấy nhà thương điên chứ không thấy “Nhà thương khùng!”
Người ta lôi chó ra miệt thị vào nhau, nhưng không có một ai nghĩ mình đã xúc phạm ghê gớm đến sự “trung thành và công trạng” của loài chó. Trên thế giới có nhiều loài chó… Nhưng tựu trung, loài chó nào cũng luôn bày tỏ lòng trung thành gần như tuyệt đối với chủ nhân của nó. Trừ: chó sói và chó hoang.
Chúng ta đã từng nghe ở Nhật Bản, vào năm 1925 có con chó tên Hachico, nằm đợi chủ là ông Giáo Sư Eizaburo suốt mười năm [10] dài tại nhà ga Shibuya. Ông giáo sư đã vĩnh viễn không trở về... Ngày ngày, con chó của ông ngong ngóng từng chuyến tàu khứ hồi trong sự tuyệt vọng! Tuổi già, cọng với chứng bệnh thấp khớp đau đớn, con chó Hichico đã qua đời trong sự cô đơn... Toàn nước Nhật dành riêng một ngày để tưởng niệm...! Điêu khắc gia Ando Takeshi, được thuê tạc một bức tượng bằng đồng để tưởng nhớ chú chó!
Vậy,
Con chó nó có phản chủ không?
Câu trả lời là không bao giờ, trừ khi nó bị lên cơn “điên”! Nó tuyệt đối trung thành với chủ - “Chó không chê chủ nhà khó” mà bỏ đi.
Chính con người mới phản chủ nhiều nhất. Nào là: làm đảo chánh, bán đứng ông chủ, bạn bè, đồng chí cho kẻ khác để lấy tiền. Bán đứng quê hương tổ quốc cho ngoại bang, nhận kẻ thù truyền kiếp làm anh em. Trong đạo Công giáo thì có: Giuda Iscariot bán chúa với ba mươi đồng!
Con chó có làm biếng không?
Những người ở nông thôn, con chó là con vật thân thiết nuôi ở trong nhà. Công việc hằng của chó là giữ nhà, chống trộm cắp, đuổi gà, có lúc cũng bắt chuột.
Chính con người mới làm biếng. Thích ăn ngon, mặc đẹp nhưng lại không chịu làm lụng để nuôi thân, ngược lại, chỉ lo nghĩ cách đi ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp..., để cho con chó nó xua đuổi thật xấu hổ vô cùng. Từ đó đâm ra thù vặt với chó, để rồi tìm mọi cách thuốc chó cho chết, bắt trộm chó. Vậy thử hỏi ai là kẻ làm biếng!
Con chó có điên không?
Con chó không bao giờ cắn lại chủ của nó trừ khi bị bệnh dại bỏ nhà đi lang thang... Chó phân biệt được người lạ, người quen và luôn luôn cảnh giác kẻ lạ bất cứ ban đêm hay ban ngày. Biết quẩy đuôi, nằm phục xuống đất hay nhảy cẫng lên mừng rỡ khi thấy chủ về. Chủ sai bảo, con chó biết vâng lời. Khi bị chủ la rầy con chó biết phục thiện, nằm im hay chui vô gầm giường...!
Chính con người mới điên nhiều nhất. Do đó xã hội phải xây Nhà Thương Điên! Dưỡng Trí Viện... Con người luôn vô ơn, phản phúc, chửi cha, mắng mẹ, anh chị em, bạn bè, hàng xóm... Cướp công của người khác làm của mình. Ganh tỵ, thù hằn, thù dai..., làm cản trở sự thăng tiến của người khác. Mỗi khi nắm được quyền hành trong tay thì : “Thượng đội hạ đạp”, vơ vét cho đầy túi tham - bất chấp luân thường đạo lý để đạt mục đích, mà không quan tâm gì đến hoàn cảnh đau thương của người khác.
Con chó có ghẻ không?
Ghẻ bên ngoài da không những của chó, mà con người cũng có ghẻ. Vậy tại sao chửi chó ghẻ? Chó bị ghẻ, lác, xà mâu... cũng bắt ăn thịt và khen ngon kia mà!
Chính con người ở dơ, không tắm mới sinh ra ghẻ. Mấy ông bà đi tù “học tập cải tạo” sau năm 1975, bị biệt giam, không cho tắm nên ghẻ lác đầy người! Nhưng ghẻ ngoài da thì chữa hết, còn ghẻ trong đầu thì rất khó chữa. Người ích kỷ nhìn ai hơn mình là tìm mọi cách nói xấu hoặc phá thối... Thí du: Quăng phân pha nhớt vô nhà người ta, phá hoại hoa màu người ta, ném đá giấu tay, chụp mũ người bất đồng chính kiến với mình là: “lực lương thù địch, là phản động, là ngụy nầy ngụy nọ”! Những bịnh ghẻ nầy rất khó trị. Hình như không có thuốc chữa!
Đồ chó đẻ (?)
Câu nầy chửi nặng lắm!
- Mầy là thằng chó đẻ!
Chửi quá vô lý. Dù có chửi theo nghĩa bóng hay nghĩa đen, gì... gì... đi chăng nữa thì cách chửi nầy vẫn xem là thiếu giáo dục. Chó đẻ, thì có chó con để nuôi thậm chí đem cho hàng xóm, bạn hữu hoặc đem ra chợ bán. Vậy thì mắc mớ chi lại chửi “đồ chó đẻ?”.
Đồ chó chết?
Câu chửi nầy cũng lạ nữa. Chó chết thì làm thịt...( Ăn thịt chó, nói chuyện chó, đánh lộn tranh ăn như chó), xưa nay là vậy cả mà. Chó nào mà không chết? Chó bị xe cán, không cần biết là chó của ai, cứ lao ra xách chạy về nhà mần thịt ăn, tỉnh queo...!
Làm người khi đất nước lâm nguy đem thân ra chiến trường chống giặc dù có chết cũng vinh hiển, được tổ quốc ghi ơn tưởng nhớ muôn đời. Ngược lại sợ chết trốn tránh hay khi chiến đấu mà thấy quân địch quá mạnh, đâm ra lo sợ, bỏ quân ngũ tẩu thoát, để mặc cho anh em đồng đội ở lại chiến đấu. Đó mới là đồ chó chết. Ăn nhậu say sỉn phá làng, phá xóm, đánh lộn vỡ đầu mà chết, thì cũng thua đồ chó chết!
Đồ ngu như chó ?
Con chó có ngu đâu mà chửi nó ngu, “Lạc đường nắm đuôi chó” kia mà! Chó đi đến đâu chỉ cần gảnh chân xịt chút nước tiểu vô gốc cây, hay chỗ nào thuận tiện dễ nhớ, dầu có thất lạc chó vẫn đánh hơi tìm về nhà dễ dàng. Con chó rất có tình nghĩa với chủ của nó; chó không bao giờ thù vặt như con người. Người chủ có bạc đãi đánh đập chó, con chó cũng không bỏ nhà ra đi. Dù có đi năm ba bữa chó cũng tìm về quẫy đuôi mừng rỡ, nhìn thái độ người chủ có xua đuổi nữa hay không. Khi người chủ vuốt ve, cho chó ăn là chó quên hết chuyện cũ. Tình cảm con chó dành cho người rất sâu nặng.
Chính con người chúng ta mới ngu nhiều, ngu vô chương, vô hồi... Người không biết chữ ngu đã đành! Người có ăn học, có bằng cấp đầy mình cũng ngu! Cho nên mới có câu: “Không có cái ngu nào giống cái ngu nào” là đúng lắm! Ngu trong suy nghĩ; ngu trong việc làm hằng ngày; ngu trong lời nói khi giao thiệp với mọi người; ngu trong hành động như: Đánh đập chửi bới vợ con, cha mẹ, bạn hữu, hàng xóm…! Ngu mênh mông, ngu bao la, ngu triền miên như vậy thì từ nay đừng chửi - "Ngu như con chó"!
Câu chuyện có thật được kể lại: Tại vùng quê Quảng Nam có hai chồng sống bằng nghề nông. Một hôm chị vợ chuyển dạ sinh con, anh chồng nhờ bà hàng xóm trông nom dùm vợ, rồi anh chồng vội vàng chạy qua làng bên thỉnh bà mụ. Khi trở về anh ta thấy một con chó con chưa mở mắt, không biết của ai bỏ trước cửa nhà. Nhìn quanh chẳng thấy người nào. Vậy là anh ta ẵm vô nhà nuôi và nghĩ “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”. Hơn nữa, vợ sắp sinh biết đâu là điềm may mắn đem đến cho gia đình!
Vợ anh ta sinh ra một đứa bé gái khá xinh, càng lớn trông càng đẹp, hai vợ chồng rất cưng... Khi bé lớn khôn, chó và cô bé như đôi bạn thân thiết... Gặp lúc cảnh nhà túng quẩn, hơn nữa anh ta cho rằng con chó cũng đã già - sáu năm tuổi - bằng tuổi bé gái con anh, nên anh ta bán con chó cho người lái buôn ở xa.
Mấy ngày sau con gái anh ta phát bịnh nằm liệt giường, không ăn uống. Thương hoàn cảnh nghèo của anh, thầy lang trong làng bốc thuốc giúp nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. Nhìn con gái ốm tong teo như cái xác mà không có cách gì cứu! Một đêm mưa gió tầm tã vợ chồng anh ta nghe tiếng động cào cào ở bên ngoài vách nhà… Hai vợ chồng xách đèn mở cửa ra thì thấy con chó của anh ta đã bán vào tháng trước - nay trở về, trên mình bê bết máu và què một chân sau. Thấy vợ chồng anh, con chó mừng rỡ bò tới và quẩy đuôi liên tục...!
Từ lúc con chó trở về, bé gái hết bịnh, vui vẻ ăn uống và sức khỏe bình thường trở lại. Mọi người cho rằng con bé nhớ con chó mà sinh bệnh, còn con chó cũng nhớ cô chủ nhỏ của nó mà tìm mọi cách thoát thân dù mang đầy thương tích.
Công trạng của loài chó thì nhiều lắm. Từ cứu người, canh giữ nhà của, đi săn bắn… Chó tham gia trong các cuộc chiến tranh gọi là "Đội Quân Khuyển", lập nhiều công trạng cũng được mang cấp bậc như người. Chó đánh hơi rất tài, chó đánh hơi phát giác ma túy, chất nổ của bọn khủng bố... Có chú chó mang tới cấp bậc Thiếu tá và được bảo vệ nghiêm ngặt. Có chú chó mà bọn buôn bán ma túy cho là quá “nguy hiểm” đến nỗi bọn chúng treo giải thưởng đến năm triệu đô la cho ai giết được... Chó còn trừ tà, trảm yêu nữa.
Ở miền quê nuôi chó rất dễ, cơm thừa, canh cặn, xương xóc chó đều ăn sạch. Không có cơm cho chó ăn thường bữa, thì chó cũng biết cách đi tìm nguồn “thực phẩm” khác. Nhưng bây giờ con người văn minh sạch sẽ, nhà nào cũng có nhà xí, chí ít cũng có cái “cầu tõm” trên ao. Cho nên loài chó thời "computer" chạy đi kiếm món ăn “gia truyền” của chó cũng lắm nhiêu khê chứ chẳng chơi! Tội nghiệp cho con chó quá chừng!
Ở bên Hoa Kỳ người ta quý trọng chó. Về thực phẩm có thức ăn đóng hộp cho chó, (thực phẩm cho chó còn mắc hơn thực phẩm của người), có xà bông tắm riêng cho chó, có bịnh viện thú y để khám nghiệm, cắt móng, tỉa lông cho chó... Chó còn được đi học để làm chó ngoan, không sủa hay cắn bậy... Chó được ngủ trên gường nệm, ngủ chung với người. Chó ở nhà lầu, đi xe hơi, mặc áo ấm... Ông bà chủ dẫn chó đi dạo, ỉa đái ra đường, ông chủ, bà chủ phải hốt... Chủ nhà bận việc thì thuê người - dẫn chó đi lòng vòng… Tiền công mỗi giờ 30 đô la...! Con người thất nghiệp lang thang... ngủ ngoài đường, ngủ ngoài chợ (homeless). Nhưng con chó thì không bao giờ bị thất nghiệp hay ăn xin.
Ngày 30.4.1975. Hoa kỳ bỏ rơi VNCH, bỏ miền Nam, cố vắt giò lên cổ mà chạy… Đại sứ Martin vẫn không quên mang theo con chó nhỏ (Nitnoy). Trong khi đó, còn hàng chục ngàn người Việt chờ đợi di tản đã bị bỏ rơi ở lại đối mặt với đoàn quân “chiến thắng!”. Thật là cay đắng!
Chó là loài trung thành và có công với người như thế mà người ta lại khoái chửi chó cho đã mồm, chửi đã rồi quay ra ăn thịt chó và khen ngon mới là lạ. Lại còn nghiên cứu chế biến đủ các món: nướng, dồi, chả chìa, rựa mận, xáo măng, luộc, bó giò, hông dầu, lẫu… Lại còn món tiết canh chó nữa chứ!
Nghe nói bên nước Cao Ly, xương chó người ta cũng không bỏ, mà còn đem đi nấu thành cao chó, rồi lọc ra chế thành một thứ nước uống tẩm bổ như: nước “Red bull” của Thái lan. Ở Việt Nam thì... mấy ông nhậu, nói: Cu chó, đem bỏ vô hủ rượu ngâm, “ông uống bà khen” rầm trời...!
Có lẽ, ông bà ngày xưa cũng đã nhìn thấy sự “thiệt thòi, oan ức!” của loài chó. Từ đó, có ý muốn minh oan! Trong văn chương truyền khẩu dân gian lưu truyền hàng trăm câu tục ngữ, ca dao về chó:
- Ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột.
- Đánh chó ngó chủ nhà.
- Đã khó chó cắn thêm.
- Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không.
- Chơi với chó, chó liếm mặt.
- Chó đâu có chó sủa không,
Không thằng ăn trộm cũng ông ăn mày.
Ngoài ra còn đặt vè, đặt truyện về chó. Đúc tượng chó đặc trước trụ cổng nhà... Vậy thì xem ra đời chó cũng được an ủi phần nào. Trong kho truyện cổ tích Việt Nam, có truyện về người vợ "Giết Chó Khuyên Chồng", rất khôn ngoan và nhân ái.
Còn người với người thì sao?
Vô số người một thời đã lập nhiều công trạng hoặc hy sinh mạng sống cho quê hương tổ quốc, nhưng nào có mấy ai nghĩ tới, thậm chí còn chối bỏ! Bia tưởng niệm cũng bị đục bỏ! Lư hương của Đức Trần Hưng Đạo cũng đem giấu, thậm chí có ngày tưởng niệm cũng cấm cản... Buồn thay!
Đã đến lúc chúng ta cần phải nghiêm chỉnh xét lại có nên tiếp tục chửi chó, hay dùng chó để mạ lỵ người khác mà chính người chửi chó, nhân cách và lời nói của họ cũng không bằng con chó.
Trong cuộc sống có muôn ngàn trường hợp bất ngờ xảy ra hằng ngày. Nếu tất cả trong chúng ta đều bình tĩnh, biết lắng nghe và rồi ngồi xuống phân tích từng sự việc phải quấy, chắc chắn không ai muốn dùng hình tượng con chó, con trâu, con bò, con heo, ra mà rủa sả vào nhau làm gì.
Khổ nổi - trước mắt - nhan nhản sự bất công, suy đồi đạo đức, sự ngăn cách giàu nghèo quá lớn. Mất đất, mất nhà, tha phương cầu thực, làm thuê, làm mướn khắp mọi nơi vẫn không thoát cảnh nghèo nàn. Hằng ngày nhìn: “Kẻ ăn không hết người lần không ra” mà đau lòng! Hơn nữa, có một số người quyền uy không có tầm nhìn, lại còn tham nhũng vơ vét... Người khác góp ý xây dựng thì lại không biết phục thiện, cứ khư khư giữ nguyên tắc đến độ cứng ngắt hoặc ngang bướng “Một thằng nói ngang ba làng cãi không lại” là vậy. Từ đó, uất ức càng ngày càng dồn nén rồi đến một lúc nào đó... không chịu nỗi tất nhiên sẽ nổ tung.
Sự nguyền rủa, chửi bới - xét ra cũng chỉ thỏa mãn tính tự ái cá nhân nhất thời chứ không giải quyết được vấn đề cốt tủy. Chỉ có “Sự Thật” mới đem lại bình an cho xã hội, cho con người. Hùng hổ, chửi mắng sùi bọt mép một chặp, để rồi cuối cùng cảm thấy trống vắng cô đơn trong tâm hồn khi sự việc lắng dịu trở lại.
“Chưa đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người mặt vàng như nghệ”!
Chúng ta là con người, là ông chủ, đã đến lúc ngưng lấy con chó ra chửi cho nhau nghe nữa. Cố gắng làm người cho hoàn thiện đừng để cái "con" và "người" lẫn lộn trong suy nghĩ và hành động. Đừng cho rằng con chó “im lặng” là chửi thoải mái. Dù có chửi ai, hoặc chửi cái gì, thì tiếng chửi cũng chẳng thanh tao. Ngược lại những câu chửi có tính cách mạt sát đó đã hạ thấp hoặc đánh mất nhân cách của người chửi.
Hãy minh oan và ghi nhận sự trung thành cũng như công trạng cho con chó. Như vậy mới là công bằng, mới tìm lại được sự thư thái cho tâm hồn...!
Con chó không có tội, đừng gán mọi thứ tội lỗi vu vơ cho con chó...
Ngưng chửi chó và cũng đừng giết chó!
Trang Y Hạ – 2009
https://www.facebook.com/ha.trangy
_________
Độc dược trong truyện Kiếm hiệp Kim Dung
Độc dược và Trùng độc.
Đọc truyện “kiếm Hiệp”, nhất là đọc truyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung… Chúng ta thường thấy các cao thủ võ lâm giang hồ dùng chiêu thức võ công thượng thặng để tranh hơn thua, hoặc tàn sát kẻ thù để tranh ngôi đoạt vị hay xóa đi một môn phái nào đó… Ngoài những môn võ đó ra, họ còn dùng “độc dược” khống chế kẻ thù của họ mà ít tốn công sức. Vậy chất độc đó là những chất độc gì? Sự tác hại của thứ thuốc độc đó ra sao? Cách bào chế như thế nào? Và sau cùng là làm cách nào để xâm nhập vô cơ thể của kẻ địch?
Trong thiên nhiên từ thực vật cho tới động vật trên bờ dưới biển, đều có khá nhiều loài mang trong thân chất độc.
Về thực vật gồm có: Hoa Đỗ Quyên, Cà Độc Dược, Hoa Loa Kèn, Cây Trúc Đào, Cây Xoan, Lá Ngón, Cây Mã Tiền, Cây Sui, Cây thầu dầu. Cây phụ tử…!
Về động vật gồm có: Nhện độc, Chồn hôi độc, Sứa độc, Bọ cạp độc, Rết độc, Cóc độc, Ếch độc, Cá độc, rắn độc, Chim độc, Ong độc, Chuộc chù, Thú mỏ vịt, Côn trùng độc…!
Cây Sui – Độc tố trong cây Sui rất độc. Từ mấy nghìn năm trước, các Triều đại Trung Hoa – về quân sự họ đã dùng chất độc trong thân cây Sui tẩm vào mũi tên, gươm, đao, thương… Quân địch mỗi khi bị thương, chất độc sẽ nhanh chóng thấm vô máu và chết rất nhanh. Người Trung Hoa đã biết dùng độc tố để giết người bằng mọi hình thức như: Bỏ chất độc trong thức ăn, trong rượu, trong giếng, sông suối…! Nhìn chung người Trung Hoa đã biết dùng độc dược từ mấy nghìn năm trước…! Những nhà “độc vương” Trung Hoa đã nhiều năm nghiên cứu tổng hợp các chất độc lại để rồi cho ra các loại thuốc hoàn hoặc trùng độc để khống chế đối thủ và đôi khi cũng để chữa bệnh bằng cách “dĩ độc trị độc”.
Có nhiều loại chất độc thường thấy trong các tác phẩm của Kim Dung:
Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Triệu Mẫn: Xà Vương Độc của Tây Độc Âu Dương Phong. (Trong đầu cây gậy của Âu Dương Phong có con rắn độc, con rắn nầy đã cắn Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công, làm cho ông mất hết công lực).
Hủ Thi Độc của Đinh Xuân Thu.
Tâm Thi Não Thần Đan của Nhậm Ngã Hành.
Sinh Tử Phù của phái Thiên Sơn Đồng.
Hủ Cốt Xuyên Tâm Cao của Ngũ độc thánh cô. Bà là ma đầu lừng danh đất An Hương, Quý Châu. Truyện “Uyên Ương Đao”.
Tất cả những độc tố một khi đã bị nhiễm, nạn nhân bị mất ý thức, đồng thời cũng mất đi sức lực, sau đó là bị kềm chế và sai khiến mà không có cách gì tự giải thoát trừ khi phải có thuốc giải độc.
Ngoài Kim Dung ra còn có Cổ Long, ông cũng cho ra đời một nữ ma đầu chuyện dùng chất độc. Tên bà là Thủy Mẫu Âm Cơ. Thuốc độc do bà chế ra, đó là một loại thuốc nước có tên “Thiên Nhất Thần Thủy”. Loại thuốc nước độc nầy không màu, không mùi, không vị.
Đơn cử một vài truyện Kiếm Hiệp có dùng độc được của Kim Dung:
Chẳng hạn trong bộ truyện “Thiên Long Bác Bộ”, chỉ một cô gái tuổi chừng – mười sáu, mười bảy, có tên là Chung Linh, cô nầy chỉ dùng một con rắn độc gọi là “linh xà”. Mỗi khi sai khiến con linh xà, cô ta chỉ dùng miệng thổi: “Phù…! phù…! Tức thì con rắn trong người của cô ta bò ra đợi cô ta sai khiến…
Tốc độ của con linh xà phóng ra rất nhanh, khiến các cao thủ trong hai phái Thần Nông và Vô Lượng không cách nào chém trúng. Cuối cùng một số cao thủ bị con linh xà cắn…
Trong truyện “Bạch Mã Kiếu Tây Phong”. Nhất Chỉ Chấn Giang Nam Hoa Huy – một người có võ công nổi tiếng một vùng, nhưng vẫn bị đối thủ ám toán bằng ba mũi kim có tẩm độc. Nhờ bản lĩnh và nội công thâm hậu, ông chặn đứng độc dược phát tác… May mắn ông gặp đươc một cô gái Lý Văn Tú. Và cô đã lấy ba mũi kim độc ra sau mười hai năm ông phải chịu đựng đau đớn…. Ông mang ơn cô gái, ông nhận cô gái làm đệ tử và truyền thụ hết võ công cho cô ta.
Trong truyện “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, là truyện có khá nhiều chất độc. Độc dược ngâm trong rượu như: Rượu độc “Hạt Đỉnh Hồng, Tỷ Sương, Thất Không Lưu Huyết”. Ba loại rượu độc nầy có lần con gái của Nhạc Bất Quần là Nhạc Linh San đem ra hù dọa và bắt các cao thủ phái Thanh Thành phải uống… (Rượu Hạt Đỉnh Hồng chỉ thấm môi là chết ngay).
Bất Giới Hòa Thượng, cha Nghi Lâm cũng dùng độc dược cấy vô người Điền Bá Quang để sai khiến…!
Tuy nhiên chỉ có hai loại độc sau đây là có thể nói là thuộc hàng tà đạo:
1. Trùng độc “Tâm Thi Não Thần Đan” của phái “Triều Dương Thần Giáo” hay còn còn là “Nhật Nguyệt Thần Giáo” của Nhậm Ngã Hành từ trong truyện “Tiếu Ngạo Giang Hồ”. Tâm Thi Não Thần Đan là một loại trùng độc, con trùng độc được làm cho ngủ mê và bọc bên ngoài một lớp thuốc, lớp thuốc sẽ tan hết vào ngày tết Đoan Ngọ. Đúng ngày tết Đoan Ngọ, người uống thuốc phải có mặt tại núi Hắc Mộc Nhai để nhận thuốc giải, bằng không con trùng độc sẽ chạy lên não cắn phá…! Tuy nhiên loại thuốc “quý” nầy không phải ai cũng được uống, mà chỉ để cho các bậc trưởng lão hàng đầu trong giáo phái mới được uống. Ngoài ra, trùng độc nầy dùng để khống chế kẻ thù có võ công cao cường và có ý chống lại giáo phái Triều Dương. Đó là trường hợp Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn, bức tử đại đồ đệ là Lệnh Hồ Xung và có ý giết Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh, buộc Lệnh Hồ Xung phải ra tay bảo vệ mình và người yêu Nhậm Doanh Doanh. Nhạc Bất Quần bị thua dưới kiếm của Lệnh Hồ Xung và bị Nhậm Doanh Doanh ép uống trùng độc “Tâm Thi Não Thần Đan. Nhậm Doanh Doanh là con gái của giáo chủ Nhậm Ngã Hành.
Trong “Lộc Đỉnh Ký”. Phái “Thần Long Giáo” cũng có một loại thuốc hoàn rất độc, đó là “Độc Long Dịch Cân Hoàn”. Thần Long Giáo cho thuộc hạ uống loại độc dược nầy để họ mãi mãi trung thành với giáo chủ. Mỗi khi hết hạn mà không kịp uống thêm thuốc, người đã uống thuốc độc sẽ phát cơn điên - giết cả vợ con, người thân và người chung quanh. Người uống thuốc độc mà không thuốc giải, ngoài điên loạn ra thân thể của họ sẽ biến dạng từ - đang cao ráo bỗng trở thành người lùn tịt. Thuốc “Độc Long Dịch Cân Hoàn” cũng giống như loại thuốc “Tâm Thi Não Thần Đan” của phái “Triều Dương Thần Giáo” hay còn có tên khác là “Nhật Nguyệt Thần Giáo” của Nhậm Ngã Hành từ trong truyện “Tiếu Ngạo Giang Hồ”.
2. Sinh Tử Phù – Sinh Tử Phù là “Bùa Sinh Tử”. Đây là một loại ám khí rất kỳ dị trong võ học mà Kim Dung đã mô tả trong truyện kiếm hiệp “Thiên Long Bát Bộ”. Sinh Tử Phù là của phái Thiên Sơn Đồng Mõ, người đứng đầu là Thiên Sơn Đồng Lão. Loại ám khí “Sinh Tử Phù” được cài cắm vô người đối phương bằng nhiều cách. Một khi trúng ám khí Sinh Tử Phù, người bị ám khí sẽ từ từ mất hết nội lực, chịu sự sai khiến. Vị trí để Sinh Tử Phù thâm nhập là – ba mươi sáu huyệt đạo, tùy theo võ công của từng địch thủ mà cấy Sinh Tử Phù. Có địch thủ được cấy năm huyệt mà cũng có địch thủ được cấy mười huyệt hoặc nhiều hơn.
Trong những thập niên sáu mươi, bảy mươi. Ở Miền Nam các “Nhật Báo” thi nhau đăng truyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung. Mọi người hằng ngày tranh nhau mua báo đọc ngấu nghiến…! Đọc say mê…! Và cũng đã hiểu ra rằng chất độc trong truyện rất là nguy hiểm, nếu các chất độc đó được dùng cho mục đích quân sự, tình báo, địa lý, con người… thì hậu quả không thể nào lường được. Thí dụ: Dùng chất độc, không màu, không mùi, không vị bỏ vô nơi đầu nguồn: sông, suối, ao, hồ làm cho các loại cá và các loài khác đều chết hết, làm tổn hại kinh tế cho phe địch, hay bỏ chất độc xuống giếng làm chết người. Dùng bùa “Sinh Tử Phù” cấy vô những người có chức vụ quan trọng trong chính quyền.
Nhưng “Tâm Thi Não Thần Đan” hay “Sinh Tử Phù” ngày nay không là “bùa độc hay trùng độc” nữa, mà là nguy cơ bị ràng buộc bởi: Chủ thuyết, Kinh Tế, Chính Trị, Tiền Tệ, Văn Hóa, Y Tế, Giáo Dục, Địa Lý, Du Lịch, Tham Nhũng, Vọng Ngoại… Đã bị: “Nước lạ” hay “Nước kế bên” cài cắm khống chế để sai khiến…!
Chất độc hóa học [poison] ngày nay gồm có:
- Phóng xạ “Polonium-210”
- Khí độc “Sarin”
- Chất độc Thần kinh “VX”
- Chất độc thần kinh “Novichok” của Nga
- Chất độc “Xyanua”
- Chất độc “Ricin”. Chất nầy độc gấp sáu [6] lần chất độc Xyanua… Chất độc Ricin bọn khủng bố hay dùng để bôi vào các phong bì thư hay những gói hàng để gửi tới cho nạn nhân. Nếu không phát giác kịp thời mà dùng tay mở phong thư hay gói hàng là chết ngay tại chỗ.
Còn nhiều loại chất độc khác nữa!
_____________
Nghi án cái áo "ngự hàn”
của vua Thanh tặng vua Quang Trung
Vua Quang Trung băng hà vào mùa thu năm 1792, triều thần Tây Sơn thời gian sau mới khám phá ra được ý nghĩa của "bảy chữ" kim tuyến thêu trong "chiếc áo" vua nhà Thanh đã tặng cho vua Quang Trung! Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ bảy chữ như sau: "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử"
Nghĩa là:
Vua Quang Trung chết vào năm Tý.
Chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại thành chữ "Huệ";
"Chiết Trục" là gẫy trục.
"Thử" là chuột, mà chuột là "Tý", hay năm Tý...
Vậy là hóa ra vua Càn Long đã “ấn định” số mạng của vua Quang Trung phải chết vào năm Tý bằng cách tặng một chiếc áo Ngự Hàn [giả dụ] có tẩm độc? Chuyện khó tin nhưng có thật. Bởi vua Quang Trung khi lên ngôi Hoàng Đế đã có ý xin hỏi cưới công chúa nhà Thanh, đồng thời đòi lại đất lưỡng Quảng [Quảng Đông – Quảng Tây]. Do đó vua Thanh và những nhà “lý số” của Trung Hoa tìm mọi cách giết vua Quang Trung để trừ hậu họa.
Theo sách “Ngụy Tây Liệt Truyện” của bộ sử ký “Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện”, quyển 30 trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi như sau:
"...Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm? Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự “.
Ngay như sử Việt Nam thời đó cũng ghi sai ngày mất của vua Quang Trung. Và đưa ra lý do theo cách “dị đoan” như vậy thì làm sao mà tin cho được. Theo Sử Trung Hoa trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" ghi rằng: "Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh". Nghĩa là – một năm sau vua Thanh mới hay vua Quang Trung chết.
Người Trung Hoa đã phát giác ra chất độc – nhất là chất Thủy Ngân từ năm – một nghìn năm trăm [1500] trước Công Nguyên. Trung Quốc khai quật lăng mộ Tần Thủy Hoàng nhưng phải dừng lại không thể khai quật hết vì chất độc Thủy Ngân trong lăng mộ cao hơn mức bình thường tới hai trăm tám chục [280] lần. Một chút sơ sẩy là dẫn tới chết ngay tức thì. Người nhiễm phải Thủy Ngân có các triệu chứng như sau:
- Đau tê một số khu vực trên da
- Mắt lờ mờ, nhìn đâu cũng thấy chao đảo
- Run rẫy, mất kiểm soát việc di chuyển
- Mất trí nhớ
- Cuối cùng là co giật và chết.
Chiếc áo Ngự Hàn của vua Càn Long [nhà Thanh] tặng cho vua Quang Trung. Thiết nghĩ, đó là một chiếc áo giữ ấm cho nên sẽ được may bằng nhiều lớp vải thuộc loại tốt, được thêu rồng và những họa tiết đẹp…! Giả dụ, chiếc áo Ngự Hàn đó được tẩm một loại độc dược hay nhiều loại độc dược khác - [không mùi, không màu, không vị] nào đó, hoặc Thủy Ngân chẳng hạn… Tiếc thay cho Vua Quang Trung vì thiếu cảnh giác nên cứ mặc áo “Ngự Hàn” vào người. Hậu quả đã rõ, là nhà vua “bị bệnh” và băng hà khi sức khỏe còn đương ở thời kỳ sung mãn.
Vua Quang Trung băng hà là một nghi án lịch sử nhưng không có nghĩa mãi mãi là nghi án lịch sử ./.
Trang Y Hạ
San Francisco
https://www.facebook.com/ha.trangy
_________
Tôi đọc: NƯỚC MẮT CỦA RỪNG
“Nước Mắt Của Rừng”. Tác giả: Amai B’Lan
Trước đây tôi có viết “Cánh Rừng Thời Nhỏ”. Nội dung mô tả về phong tục, tính cách và bản năng sinh tồn của người Thương ở Cao Nguyên nói chung và KonTum giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp... Đó là bối cảnh từ những năm một ngàn chín trăm năm mươi bảy, thời gian ấy tôi theo cha mẹ tới vùng DakTo lập nghiệp.
Thời nhỏ tôi đã từng tắm ở dòng sông Dakpsi, lớn lên tôi tắm ở dòng sông Pơco… Thời gian đó để lại trong tâm lòng những kỷ niệm không thể nào quên. Hôm nay tôi được nhà xuất bản Nhân Ảnh ở San Jose, California, giới thiệu cuốn “Nước Mắt Của Rừng” của tác giả Amai B’ Lan, cầm cuốn sách tôi nghĩ tác giả là một người Thượng... Tôi lật phía sau quyển sách thì không phải như vậy. Tên Amai B’ Lan - tác giả cuốn sách - là một cô gái người Kinh còn rất trẻ, cô có tên thật là Trần Thị Trung Thu, cô sinh năm 1988 tại tỉnh Đồng Nai. Cô tốt nghiệp khoa báo chí ở đại học KHXH&NV, sau khi tốt nghiệp thay vì cô xin đi viết báo ở các tòa soạn để đạt sự mơ ước của tuổi trẻ thì cô lại dấn thân đi lên vùng Cao Nguyên làm công tác xã hội và trở thành một ký giả tự do.
Ấn phẩm “nước mắt của rừng” vỏn vẹn có một trăm ba mươi chín trang (139), giá bìa ghi $15 mỹ kim. Ở đây tôi không đề cập sách mỏng hay dày hoặc giá tiền mà chính là tựa cuốn sách đã làm cho tôi xúc động...! Tôi xúc động bởi tôi đã từng sống trên vùng cao nguyện (KonTum) từ thuở còn bé. Từ thuở bé tôi đã tiếp xúc với người Thượng, tôi sống gần họ, tôi mến họ và họ cũng mến tôi. Lớn lên tôi vào lính, tôi cũng gần gũi với các đơn vị lính Trường Sơn, hầu hết là người Thượng. Và đơn vị tôi được phân công việc phụ trách di tản các ngôi làng Thượng từ nơi rừng sâu ra vùng quốc gia kiểm soát… Câu thành ngữ “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, đã cho tôi một cảm nhận qua lời nói của cha tôi. Sau nầy tôi mới hiểu ra rằng: rừng không phải là gia tài ăn hoài không hết, rồi một ngày nào đó "rừng khóc", thì con người phá rừng phải chịu hậu quả từ giọt nước mắt của rừng. Đó là thiên tai bão lũ, hạn hán khô cạn các dòng sông, dòng suối!
“Nước Mắt Của Rừng” chính là nước mắt người Thượng, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. (Amai B’Lan).
Tôi không hiểu tại làm sao một cô gái ốm yếu sinh ra ở Đồng Nai vừa tròn mười tám tuổi đầu với bằng cấp trong tay và ước mơ cho một tương lai tươi đẹp trước mắt, lại có một tình cảm sâu nặng với người Thượng J’rai trên mảnh đất Phú Bổn, Cheo Reo, thủ phủ Ayunpa, Krong Pa… Đó vùng đất Cao Nguyên mà các Linh mục thừa sai ngày xa xưa đã từng tới để rao giảng tin mừng của Chúa.
Tôi thán phục, ngưỡng mộ cô – cô gái còn rất trẻ mà đã biết hy sinh ước vọng của riêng mình đã mạnh dạn dấn thân vào nơi nguy hiểm, nguy hiểm chẳng những từ rừng thiêng nước độc mà cả với con người và nhà chức trách khi biết cô viết ra sự thật. Tôi trích vài đoạn cảm nghĩ của tác giả Amai B’Lan:
“… Tôi đến Ayunpa, thủ phủ của người Jarai, sau đó là Krong Pa chỉ với ý định dạy học cho những em bé Jarai trong ba tháng hè năm 2011. Không dám có ước muốn tìm hiểu một dân tộc thẳm sâu và lạ lùng trong quãng thời gian ngắn như thế. Đặt chân lên mảnh đất huyền thoại nầy, mới bước vào một quán ăn nhỏ đã thấy sự bất công, huống hồ tôi đã ở suốt một mùa hè nơi đây, và trở lại nhiều lần trong mùa xuân 2012.
Những cuốn sách viết về người Jarai, về cao nguyên, đều vẽ lên những hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng của một thời đã qua. Thời của già làng đêm đêm bên bếp lửa bập bùng kể Akhan, thời của Pơtao quyền lực bậc nhất cao nguyên, thời của núi rừng bạt ngàn và sông suối trong veo.
Tất cả đã qua rồi
Giờ đây, những gì còn lại chỉ là một dân tộc đang lụi dần…” (Ngưng trích).
Cuốn sách gồm mười bốn phần:
“Duyên Nợ Cao Nguyên”
Tôi nghĩ, từ trong sâu thẳm đã có nhịp cầu tâm linh của núi rừng huyền bí, của Akhan, của Pơtao nên người con gái trẻ Trần Thị Trung Thu mới dám mạo hiểm dấn thân chỉ bằng bằng một chiếc xe đạp cọc cạch đi từ: Di Linh lên KonTum, ròng rã mất một tháng trời... Dọc đường cô phải đi xin ăn, xin ngủ, xin uống nước như một kẻ ăn mày “cái bang”... Từ Di Linh cô đi qua Gia Nghĩa chịu đói rét giữa đường đèo đất đỏ không một bóng người. May mắn cô được một gia đình người Thượng cho tá túc giữa đêm mưa tăm tối… Vợ chồng người Thượng (chủ nhà) già nua nghèo đói ấy đã đùm bọc cô qua đêm khi cô lỡ độ đường, họ nấu cho cô một nồi nước nóng để cho cô tắm và cho cô ăn một trái bắp luộc cho đỡ đói. Ngày hôm sau vợ chồng già tiễn cô lên đường bằng một nãi chuối, một chai nước trà (nóng) và một cái áo mưa… Rồi cô lại đi từ Ban Mê Thuột tới Ajunpa, đoạn đường dài khoảng 200 cây số, nếu đi xe đò thì phải mất ít nhất 4 giờ đồng hồ theo như cô nói... Đó là những chuyến đi tiếp theo để lên vùng cao nguyên của cô gái trẻ. Đúng lý ra cô có thể nhảy lên xe đò để đi cho khỏi cực khổ và ít nguy hiểm cho thân gái dặm trường, đêm hôm mưa gió giữa rừng thiêng, nước độc. Đó là chưa kể bịnh tật và xe đạp hư hỏng.... Nhưng không, nếu cô đi xe đò thì chẳng qua chỉ là đi du lịch “cỡi ngựa xem hoa”... cô muốn tự mình với chiếc xe đạp cà tàng vượt qua các địa danh để ghi nhận hết hình ảnh của núi rừng hùng vĩ cũng như con người sắc tộc sống nơi thâm sơn cùng cốc từ hàng ngàn năm trước cho tới tận bây giờ.
Cô Amai B’Lan, kể:
“Tôi mê cao nguyên không đơn thuần chỉ vì vẻ đẹp trinh khôi của nó, mà còn vì trong chuyến đi mạo hiểm đầu đời, tôi được những con người tốt bụng của cao nguyên đùm bọc khi sa cơ lỡ bước…”. (Ngưng trích)
Những con người tốt bụng đó, họ chính là người Thượng, là người Thượng J’rai.
Cô Amai B’Lan, nhanh chóng tìm được cô bạn gái Mơai, Mơai đang học ngành xã hội và cô bạn gái đó đã giúp cô về Krong Pa dạy học. Cô khôn ngoan, nên cô tìm gặp cha quản xứ, chính cha xứ là chỗ dựa vững chắc. Cô gặp cha Gioan, một mình cha phải coi sóc hơn 40 buôn làng. Quả thật vất vả cho cha, vì thiếu giáo viên trầm trọng, thiếu cả giáo lý viên. Cô giúp cha, cô rủ thêm các sinh viên người Thượng về Krong Pa dạy học, dù là dạy kèm trong ba tháng hè. Trong thời gian vừa dạy học cho lớp trẻ J’rai vừa giúp giáo xứ mọi việc, cô ăn ở chung với người J’rai nên cô đã gây được cảm tình với họ. Họ tin tưởng, họ kể hết mọi chuyện cho cô nghe. Đồng thời cô tận mắt chứng kiến cuộc sống cơ cực của người J’rai, cô chứng kiến cảnh người Kinh cướp đoạt đất đai và đồng hóa người J’rai cũng như khinh thường họ… Cô đã đi đi về về với vùng đất Krong Pa như chính quê hương Đồng Nai của cô. Quả là cô gái với ý chí mãnh liệt có cái tên Amai B’lan, cô vốn có duyên nợ với Cao Nguyên huyền bí.
Ngày xưa, tôi chưa hề biết Krong Pa, cho tới một ngày “di tản chiến thuật” tháng ba 1975, dân quân hai tỉnh KonTum và Pleiku di tản trên con đường hoang vu, loang lỗ có tên: liên tỉnh lộ 7.B qua quận lỵ Củng Sơn về Tuy Hòa. Con đường lui binh tàn nhẫn đó ngày nay có tên mới quốc lộ 25 như cô Amai B’Lan đã viết. Tôi đã đi qua con đường 7.B đầy máu và nước mắt để rồi phải dừng lại bên bờ sông Ba mùa khô đầy cát trắng và dòng nước mát trong xanh. Sau nầy tôi đã viết “Đêm Nằm Ở Sông Ba”.
Trong “Nước mắt của rừng” cô có nói chuyện, người dân cho cô hay:
“… Nhiều người chạy tới đèo Tona thì bị phục kích. Nhiều người chết đến mức nghẽn cả dòng chảy sông Krong Pa. Quạ thấy xác chết tới ăn đen cả bầu trời, đậu đầy núi. Vì vậy người ta mới gọi núi nầy là Núi Quạ… Hôm tôi về Krong Pa, tôi nhìn lên núi thì không thấy con qua nào nhưng chỉ tưởng tượng đến tháng ngày chiến tranh đó đã không khỏi rùng mình. Người dân nơi đây đã phải trả một cái giá quá đắt. Hơn ba mươi năm sau, họ mất luôn quyền làm chủ núi rừng có tự ngàn xưa”.
Và rồi cuộc sống của người J’rai sau nầy:
“Ayunpa có một hệ thống thủy lợi dẫn từ Phú Thiện về dài chừng 20 cây số, cho phép người dân làm một năm ba vụ, nhưng người dân J’rai chỉ làm hai vụ thôi, họ nói vụ thứ ba để cho đất nghỉ. Kiểu canh tác nhân ái nầy có nguồn gốc từ nền văn hóa thảo mộc, nghĩa là mượn tài nguyên của mẹ tự nhiên để xin cái ăn rồi trân trọng trả lại”. (Ngưng trích).
Kiểu canh tác “nhân ái” nầy, Trang Y Hạ đã viết trong “Cánh Rừng Thời Nhỏ”. Tuy nhiên, không ngờ rằng sau bao nhiêu năm sự nhân ái với rừng, với đất vẫn còn in đậm trong lòng người J’rai và có thể là cả vùng Cao Nguyên rộng lớn – Cheo Reo, Pleiku, KonTum, Ban Mê Thuột…!
Trọng tâm của cô Amai B’Lan là tường thuật lại những gì cô tận mắt chứng kiến cuộc sống hiện tại của người J'rai và sự tồn vong của họ trong cuốn “Nước Mắt Của Rừng”. Tuy nhiên, cô có khái quát một vài tài liệu hình thành tỉnh Phú Bổn, thị xã Cheo Reo. Tôi nghĩ, cô cũng đã từng đọc qua các tài liệu lịch sử cũng như các sách báo của các linh mục thừa sai, các linh mục bản địa và cua các nhà nghiên cứu đã viết về vùng đất Cao Nguyên.
Cô Amai B’Lan, kể:
“...Hỏi thăm người dân tôi được biết, Cheo Reo là tên của hai anh em Cruh và Creo đến lập cư tại đây vào đầu thế kỷ 19 (một số tài liệu ghi là Chu và Chreo). Lúc đầu hai anh em ông lập làng tại Rongol-por-klang, nay là vùng đất gần đập Ia Hiao. Sau đó, cả làng di chuyển đến vùng đất gần sông Ayunpa, nay là thị trấn Ayunpa. Trước năm 1900 làng nầy có tên là Bon Chư. Năm 1904, người Pháp ký nghị định giao Cao Nguyên cho triều đình Huế, và đặt tên cho vùng đất nầy là Cheo Reo (đọc trại từ hai từ Cruh và Creo). Như vậy, về mặt hành chánh (của chính quyền thực dân), từ năm 1904, Cao Nguyên mới chính thức thuộc về Việt Nam. Ngày 1.9.1962, chính quyền Sai Gòn lập tỉnh Phú Bổn, đặt tỉnh lỵ tại Cheo Reo và đổi tên là thị xã Hậu Bổn. Chính điều nầy khiến cư dân vùng Cheo Reo có điều kiện ăn học hơn hẳn các vùng khác, sinh ra nhiều trí thức, phần lớn làm việc cho Tây (để sau 75 cũng bị đi cải tạo nhiều hơn các vùng khác). Sau 1975, thị xã Hậu Bổn đổi thành thị xã Ayunpa. Người J’rai thích gọi vùng nầy là Cheo Reo hoặc Ayunpa vì những cái tên nầy vốn dĩ của người J’rai. Trong khi đó, người kinh thích gọi là Phú Bổn vì dễ đọc, và vì muốn thể hiện quyền làm chủ trên mảnh đất nầy. Dù sao thì tôi vẫn thích cái tên Ayunpa vì nghe có vẻ như...ở nước ngoài.”. (Ngưng trích).
Thời đệ nhất cộng hòa thì không còn “Tây” đô hộ nữa. Có lẽ cô Amai B’Lan, muốn nói một số người Thượng theo Fulro? Hoặc “Tây” là… ám chỉ chung người Mỹ và người phương Tây.
Cô Amai B’Lan, kể: Ngày nay người Kinh sống xen lẫn với người Thượng, người Kinh khôn (lõi) giành hết những phần đất màu mỡ... Ngày xưa họ quý mến người Kinh tới nhà bao nhiêu thì ngày nay họ quay ngược trở lại. Điều đó chứng tỏ là họ xem người Kinh như kẻ đi xâm lấn đất đai và cố ý đồng hóa họ…
Amai B’Lan, kể:
“Một phụ nữ J’rai kể cho tôi nghe về những tháng ngày sau bảy lăm. Khi người Kinh ồ ạt di cư tới đây, họ xem người bản địa như một giống người mọi rợ đáng khinh đến mức, ngay giữa chợ, một người Kinh có thế tát người J’rai chỉ vì người J’rai nầy không bán cho họ thứ họ muốn. Bây giờ sự kỳ thị đã giảm nhiều nhưng sự phân biệt vẫn còn đó. Bước vào một tiệm cơm, nếu để ý một chút, bạn có thể thấy thái độ của người bán hàng đối với người Kinh và người J’rai khác hẳn. Họ luôn vồn vã chiều lòng người Kinh nhưng họ lại thờ ơ lạnh nhạt với người J’rai” (Ngưng trích)
Vì đâu nên nỗi như vậy. Câu trả lời như sau:
“Người Kinh tới, đặt ra những chủ trương xuất phát từ lòng tham, vơ vét mọi thứ về mình. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy ở Gia lai, người Kinh chiếm 52 phần trăm dân số, trong khi người J’rai chỉ còn 33,5 phần trăm. Người Kinh nghiễm nhiên trở thành ông chủ trên mảnh đất của người J’rai, giàu lên trên sự lạc hậu (về vật chất) của người bản địa nhưng không lúc nào ngớt lời chê bai. Những người J’rai hiền lành và thật thà nhanh chóng trở nên trắng tay và bị Kinh hóa. Hãy thử tượng tượng một người “khách” đến nhà mình, ăn uống no say ở nhà mình, rồi chiếm đoạt toàn bộ tài sản của mình, sau đó đá đít đuổi mình ra khỏi nhà. Một người như thế thì có đáng bị gọi là “ăn cháo đá bát”, “vong ân bội nghĩa “ không”?” (Ngưng trích)
Trước ngày bảy lăm, người Kinh lên sinh sống ở Cao Nguyên không nhiều. Người Thượng họ sống riêng biệt. Tuy họ sống riêng biệt, nhưng chuyện mua bán, trao đổi thổ sản, hàng hóa qua lại thân tình, sòng phẳng, luôn tôn trong lẫn nhau và thành thật. Bây giờ sống xen kẻ, là cố ý đồng hóa người Thượng. Người Thượng, họ có lòng tự trọng, họ thật thà như đếm nhưng không có nghĩa là họ không biết gì về thái độ của người Kinh đối xử với họ ra sao.
Người Thượng trên vùng Cao Nguyên đã sinh sống từ lâu đời. Địa danh lừng lẫy gọi chung là Ayonapar, mà người Campuchia gọi là Vua Lửa, gồm hai con sông lớn Ayun và Apar. Tuy nhiên bởi vùng Cao Nguyên rộng lớn, mật độ dân số (sắc dân) chia ra từng nơi để sinh sống: Người J’rai được gọi là Bahnar vùng dưới (An Khê, Phú Túc), người Bahnar KonTum được gọi là Rơ-ngao, người J’rai ở Pleiku được gọi là Hơdrung, núi Hàm Rồng. Người J’rai vùng Plei Kly (Chư-Sê), được gọi như thế nào thì cho tới bây giờ vẫn chưa có tài liệu nào ghi lại. Tuy nhiên người Thượng chỉ có chung một Pơtao, Pơtao có nghĩa là “Nước & Lửa”, có quyền lực bao trùm cả Cao Nguyên. Người Kinh sau nầy ngang nhiên chiếm đất của họ, chà đạp danh dự của họ… Tất nhiên họ không làm gì được với sức mạnh đông đảo của người Kinh, nhưng sự phản kháng âm thầm trong lòng họ lúc nào cũng có. Đó là điều rất nguy hiểm.
Tổng thống Ngô Đình Diệm, tách vùng Cao Nguyên ra khỏi Hoàng Triều Cương Thổ sau khi Pháp giao lại cho triều Nguyễn... Từ đó Cao Nguyên do người Thượng tự chủ qua bao đời, nay họ vẫn được tự chủ dưới thời VNCH. Chính sách Dinh điền của Tổng thống Ngô Đình Diệm – đưa dân đi lập nghiệp ở các vùng Long Khánh, Rạch Giá, Pleiku, KonTum…. Chính phủ Ngô Đình Diệm đều có thương lượng với người Thượng… Bù lại chính phủ giúp đỡ người Thượng về các mặt đời sống, như: Xây trường học, (kể cả trường đại học dành cho người Thượng), bịnh viện… Nâng cao đời sống, khuyến khích người Thượng định canh, định cư và trồng cây công nghiệp… Tuyệt đối không chủ trương hay đề xướng đồng hóa người Thượng cũng như xóa bỏ tập quán chữ nghĩa của người Thượng. Về hành chánh, Già Làng là người coi sóc Buôn Làng, chính quyền miền Nam không đặt để người giam sát người Thượng. Người Thượng được tham gia chính quyền và quân đội... Người Thượng chỉ cần có bằng trung học nếu tham gia quân đội thì họ sẽ là sĩ quan thay vì phải có bằng tú tài như người Kinh. Phụ nữ người Thượng sau khi đỗ trung học họ đươc nhận vào học Y Tá, Điều dưỡng thay vì phải có bằng tú tài như phụ nữ người Kinh. (Xem “Từ Một Chín Năm Bảy” (Dinh Điền) của Trang Y Hạ)
Cô Amai B’Lan, kể:
“Nhà Ami H’siu thuộc buôn Ama Djong, trước đây có tiếng là đạo đức và truyền thống. Khi nhắc đến một buôn thì có nghĩa dân cư trong đó hầu hết là người J’rai, sống theo kiểu người J’rai. Nhưng bây giờ đi vào Buôn Ama Djong, tôi chỉ thấy vài ba căn nhà dài. Người ta đã thay nhà sàn bằng nhà xây, vật dụng trong nhà cũng là của người Kinh. Giới trẻ thay cái váy truyền thống bằng quần Jeans bó sát. Ở một góc của Buôn, đàn ông tụ tập gầy sòng bạc, uống rượu và chửi tục. Người trong Buôn nói: “Người J’rai bây giờ đã biết học theo người Kinh rồi. Con gái J’rai đã biết làm đĩ còn con trai đã biết ăn cắp rồi”. Tôi nghe mà sượng sùng không biết giấu mặt đi đâu. Vừa xót xa cho họ vừa tủi hổ cho mình. Buôn Ama Djong đã bị lai căng nhanh hơn những Buôn khác vì nằm ngay trung tâm thị xã. Ngặt nỗi, người J’rai nếu bị tha hóa thì lại càng bị nặng hơn người Kinh. Người ta không thể cưỡng lại sự hấp dẫn của cuộc sống hiện đại, cũng như không thể cưỡng lại những chủ trương, chính sách của nhà nước”. (Ngưng trích).
Tác giả Amai B’Lan, nói: “Tôi nghe mà sượng sùng không biết giấu mặt đi đâu. Vừa xót xa cho họ vừa xấu hổ cho mình”. Đặt tôi vô trường hợp đó, tôi cũng cùng tâm trạng như cô Amai B’Lan... Quả thật xấu hổ biết bao khi chúng ta tự hào là người Kinh, vậy mà:
“Người J’rai bây giờ đã biết học theo người Kinh rồi. Con gái J’rai đã biết LÀM ĐĨ còn con trai đã biết ĂN CẮP rồi”.
Nghe mà đau xót trong lòng. Người Kinh chúng tôi thời xưa tuy chưa hoàn hảo nhưng người Thượng người Kinh sống với nhau hài hòa. Ngày nay người Thượng (dù ít nói) nhưng họ phải nói ra lời than vãn - vừa trách móc - vừa ngao ngán về người Kinh tới như vậy. Buôn làng của người Thượng xưa ở gần thị trấn cũng vẫn là nhà sàn, như: làng Konrachot, Kon kơnâm ở trong thị xã KonTum. Tập tục của người Thượng ngày xưa nhất là giới trẻ cũng không bị ảnh hưởng “tật xấu” nếu có của người Kinh. Ngày xưa nếu ai đó thấy cô gái Thượng xinh đẹp, rồi nói giỡn: “Cho Bắt-Cái-Nước chút chút...”. Nghe vậy… thì cô gái Thượng ré lên rồi bỏ chạy… Còn nếu như ai xúc phạm thân thể thiếu nữ người Thượng, nhẹ thì Già Làng phạt rượu cần, phạt con dê... Nặng thì phạt trâu, bò và bắt người thanh niên người (kinh) xúc phạm phải cưới cô thiếu nữ Thượng đó…! Luật lệ người Thượng tuy bất thành văn nhưng rất rõ ràng, cho nên thanh niên người Kinh rất e dè... Tuy vậy, vẫn có thanh niên người Kinh và người con gái Thượng kết hôn với nhau. Người Thượng không bao giờ biết nói dối, họ ít nói nhưng mỗi khi họ nói ra đều là sự thật.
Và, cô Amai B’lan đã thất vọng về vùng đất mà cô đã tới bằng tất cả tâm lòng trìu mến.
Cô Amai B’Lan, kể:
“Tôi đã tới nơi cần tới sau nhiều ngày mơ tưởng về thủ phủ của người J'rai, về vùng đất của Pơtao Apui, về những căn nhà sàn đêm đêm bập bùng ánh lửa kể akhan, về dân tộc có đời sống tâm linh vô cùng sâu sắc, nhưng sao cảm giác trong tôi thật lạ, có gì đó như là tan vỡ.”.(Ngưng trích)
Tôi may mắn hơn cô Amai B’lan là tôi được học hành dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa miền Nam. Tôi uống nước từ con sông Dakpsi, Pơko... Lớn lên, tôi lại công tác tại các buôn làng người Thượng trong nhiều năm. Những mơ tưởng của cô về người J’rai, về người Thượng nói chung, tôi đều đã có đủ: bằng hình ảnh, bằng thơ, văn mà tôi đã ghi lại để cho lớp trẻ (Kinh – Thượng) muốn tìm hiểu về một vùng đất đỏ Cao Nguyên huyền bí. Tôi đã cùng với họ ca hát qua điệu cồng chiêng dưới ánh lửa bập bùng giữa đêm rừng sương lạnh với can rượu Cần, màu rượu từ lúc ban đầu còn đục ngầu, uống cho tới lúc rượu trong ché nước trong vắt, từ các làng: - Konhring, Daktri, Konhnong, Dakmot, Dakkanjop, Dakkangpeng, Yalokơram, Dakpek, Toumơrong, Mănden, MănBuk… Tôi bỏ Cao Nguyên (KonTum) ra đi vào ngày “di tản chiến thuật”.
Tôi nhớ Cao Nguyên, tôi nhớ KonTum, DakTo!
Đến với người Thượng bất cứ ở vùng nào, để tìm hiểu về tập tục của họ, điều trước tiên là phải chân thành, trung thực và hòa đồng… Chuyện ăn uống, tuy đơn giản nhưng không phải ai cũng đủ "can đảm" ăn uống chung từ các món ăn... của người Thượng. Món ăn của người Thượng ở bất cứ vùng nào cũng na ná như nhau: Lá khoai mì, lá dang, kiến vàng, trứng kiến vàng, rau dớn, măng tre le… Thịt thú rừng, cá sông, suối được chế biến theo cách thức riêng của họ… Một khi cùng ăn, cùng uống với người Thượng, thì tức khắc tình cảm của họ sẽ nảy sinh - họ sẽ san sẻ mọi chuyện trong cuộc sống cũng như tục lệ... Tuy thời gian cô Amai B’Lan tới Ayunpa, Krong Pa... không bao lâu nhưng cô đã làm được điều đó. Cô noi theo gương Cha thừa sai Dournes, Cha đã quên đi mình là người da trắng để hòa đồng cùng người J’rai… Tôi rất khâm phục cô.
Cô Amai B’Lan, kể:
“Chợ Chư Rcăm nằm bên dòng dông Pa, băng qua cầu Lệ Bắc là tới Chợ nhỏ và ít hàng hóa. Lèo tèo vài ba quán tạp hóa, mấy hàng thịt, hàng rau của người Kinh. Người ta đi chợ chiều chủ yếu để mua cá của người J’rai bắt từ sông Pa lên, còn sống tươi ngon hơn chợ sáng. Người J’rai cũng đem rau cỏ ở nhà trồng được ra chợ bán, nhưng kiểu bán không cân đo đong đếm như người kinh. Ví dụ như họ bán cá, họ không bán theo ký, mà bán theo đống. Họ chia ra từng đống nhỏ, có quả to quả bé, quả tốt quả xấu. Mỗi đống chừng hai ba lạng, giá hai nghìn đồng. Người J’rai không biết thương lượng giá, hai nghìn thì bán mà ba nghìn thì không, bớt xuống năm trăm cũng không chịu. Cho nên mua bán với người J’rai miễn trả giá. Nói một là một. Hai là hai. Sau nầy biết tôi ở nhà cha Gioan, họ bán rẻ đi và còn cho nữa. Trước khi tôi tới, cha phải tự đi chợ nấu cơm. Người ta thấy cha đi chợ mua đồ ăn, tội nghiệp không dám lấy tiền. Vì vậy, khi nào nhà sắp hết quỹ tôi lại chọc cha: “Nhà mình nghèo rồi, cha đi chợ đi...”. (Ngưng trích)
Tôi không ngờ rằng, sau hơn nửa thế kỷ, lớp người Thượng sinh sau vẫn còn giữ y nguyên bản tính thật thà của ông cha của mình ngày xưa... Điều nầy tôi cũng đã viết trong “Cánh Rừng Thời Nhỏ”. Người Thượng có lòng tự trọng và nhân cách riêng của họ. Thổ sản họ mang ra chợ bán họ đều chọn lựa kỹ càng chứ không pha lẫn đồ tạp nhạp bên trong để lừa gạt người mua. Giá cả họ định ra tương xứng với công lao của họ. Đây là đức tính trung thực vô cùng cao quý từ ngàn đời của ông cha họ truyền lại.
Người xưa nói trong tận cùng đau khổ vẫn có phút giây thanh thản... Quả đúng như vậy. Đoạn văn mà cô Amai B’lan tả thực dưới đây đã cho tôi được sống lại giai đoạn thời thơ ấu ở cái làng bên dòng sông Dakpsi êm đềm chảy qua... Buổi sáng, tôi nghe tiếng con công, kêu: tố hộ…, buổi chiều tôi nghe tiếng con chim mỏ kiến mỏ vô thân cây tre lồ ô vang cả núi rừng… Và tôi nhìn vô làng KonHring: làn khói bếp quyện trên những nóc nhà sàn cùng với sương mù, khói núi hay lắng nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng vào các ngày chúa nhật và lễ trọng!
Cô Amai B’Lan, kể:
“Khi bóng chiều sụp tối, tôi nhìn thấy những đứa trẻ đi chăn bò về, lặng lẽ và mệt mỏi. Người lớn đi nương về, tay xách cuốc, lưng gùi củi, vừa đi vừa rầm rì nói chuyện. Bên thềm giếng, mấy đứa nhóc tranh nhau múc nước tắm, tiếng la ó đừa giỡn náo nhiệt một góc làng. Ở một mái hiên nhà, người phụ nữ lom khom giã lá mì lốc cốc. Nơi gian bếp bập bùng ánh lửa. Khói lan tỏa buôn làng. Tiếng dế rúc rích kêu. Cuộc sống thâm trầm và bình dị trôi qua, chỉ còn ngửi thấy mùi khói bếp và mùi nồng nồng của phân bò trên đường làng. So với Ayunpa, người J’rai ở Krong Pa còn “nguyên thủy”, đậm chất J’rai lắm. Bao nhiêu điều cha Jacques Dournes viết về người J’rai, ít ra vẫn còn thấy bàng bạc ở Krong Pa”. (Ngưng trích)
Tôi thương lắm câu nói của cô Amai B’Lan “ít ra vẫn còn thấy bàng bạc…”. Chao ôi! Chỉ là thấy bàng bạc thôi sao? Làm sao cô nhận định được đó là sự bàng bạc khi mà cô sinh sau đẻ muộn tới mấy chục năm... Cô là một thi sĩ, nên cô mới tưởng tượng ra được rằng vùng Cao Nguyên huyền bí ngày xưa: rừng cây rậm rạp bạt ngàn bất tận, rừng phủ ra tận mép quốc lộ... Thú rừng: voi, cọp, beo, mang, mễnh, heo rừng, chồn, sóc, chim chóc sinh sôi đầy đàn…!
Một khi đất rừng mất hết thì cây thuốc cũng mất sạch hết! Vậy thì lấy cây thuốc ở đâu ra mà chữa bịnh đây? Người Thượng từ ngàn xưa họ đã học hỏi được từ muôn thú cách dùng cây lá để chữa bịnh, họ không cần tới bác sĩ như người Kinh. Ngày nay, mỗi khi bịnh người Thượng phải nhờ bác sĩ khám và mua thuốc, nhưng chưa chắc đã gặp bác sĩ giỏi và thuốc tốt, hơn nữa lấy tiền ở đâu ra mà chữa bịnh khi cái ăn, cái mặc còn chưa ấm, chưa no.
Người J’rai, người Thượng trên Cao Nguyên, họ có nhiều vị thần… Họ tôn thờ, nhưng họ không mê tín. Họ theo đạo Công Giáo từ rất sớm qua việc truyền giáo của các vị giáo sĩ thừa sai cũng như các vị linh mục bản địa. Họ rất sùng kính Chúa và biết giữ lời răn dạy từ giáo lý... Một số người Thượng nuôi “bùa, ngãi...” để hại người đều bị Già Làng, Linh Mục quản xứ đuổi họ ra khỏi làng. (Một số người Thượng nói viết tiếng Pháp rất giỏi).
Cô Amai B’Lan, kể:
“… cả buôn Nu lũ lượt kéo nhau tới nhà nguyện. Họ tới đông đến nỗi ngồi tràn ra cả mái hiên. Mỗi tuần có hai ngày cầu nguyện, vào tối thứ tư và thứ sáu. Những buổi cầu nguyện như thế này thường là để chia sẻ Lời Chúa và kể cho anh chị em nghe về những ơn lành mình đã lãnh nhận được trong ngày qua. Chính vì vậy, buổi nguyện rất đông người tham dự. Tôi thấy người đàn ông J’rai lần giở cuốn Kinh Thánh bằng tất cả sự kính cẩn của mình. Người mẹ dịu con trên lưng ngồi lặng im nghe người khác chia sẻ. Những cô gái J’rai cất tiếng hát ngợi khen Đức Chúa và đám trẻ mong chờ cha ban phước lành. Tôi ngồi đây, nghe họ nói mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi có thể cảm thấy sự linh thiêng và tín thác của họ trong những lời nguyện. Họ đến với Chúa mang theo nguyên vẹn con người của họ, vẻ lam lũ khổ cực, áo quần lấm lem bụi bẩn, đôi tay thô kệch chai sạn, bàn chân rạn nứt và ánh mắt xa xăm. Chúng tôi dù Kinh hay J’rai, thì trong buổi cầu nguyện nầy, mọi sắc tộc đều vô nghĩa. Chúng tôi trở thành anh chị em của nhau. Chúng tôi trở nên một, vì chúng tôi có cùng một cha trên trời”. (Ngưng trích)
Đọc đoạn văn xong đôi mắt của tôi, cay... cay…, và nghe trong lòng quặn thắt…! Xin Chúa che chở và ban ơn thiêng xuống trên nỗi bất hạnh của họ đã bị bị loại trừ; loại trừ ngay trên đất rừng huyền bí của ông cha người Thượng từ ngàn năm để lại. Tiếp theo là họ sẽ bị đồng hóa một cách có “hệ thống” (hữu hình lẫn vô hình). Không thể đổ thừa hết cho sự tiến bộ của văn minh qua internet, qua công nghệ tân tiến... làm xóa đi, hoặc làm cản trở sự tiếp nhận đi lên (chậm chạp) của một sắc dân sống trên vùng Cao Nguyên lâu đời... Tàn sát rừng là tàn sát tất cả “vật thể và phi vật thể” của người Thượng. Văn hóa cồng chiêng không phải là những cái chiêng để đánh phèng... phèng... cho vui… Bởi, một khi không còn cây rừng thì cái chiêng đó dù có đánh suốt ngày cũng không đem lại ý nghĩa gì cả, vì âm vọng dội lại từ núi rừng âm u huyền bí đã tắt ngấm. Tiếng chiêng chính là hồn thiêng của rừng đại ngàn hòa nhịp với sao với đêm chập chờn trong ánh lửa bập bùng ngả nghiêng theo ché rượu cần quay cuồng trong điệu nhạc vang vọng cả dòng sông, dòng suối... Người Thượng cũng như người Chàm, họ sống lẻ loi âm thầm nhẫn nhịn trên chính trên quê hương của mình.
Cô Amai B’lan, kể:
“Ở đây, người J’rai cũng không tránh được làn sóng của cuộc sống hiện đại. Quốc lộ 25 chạy ngang qua Ia R’siơm thu hút nhiều người Kinh đến lập nghiệp bên đường. Họ mở quán café, quán nhậu, cửa hàng điện thoại và nhiều dịch vụ khác. Người J’rai vốn là một dân tộc hiền lành và thật thà, đã không được chuẩn bị gì để thích ứng trước cuộc đổ xô ồ ạt của người Kinh. Còn người Kinh thì ra sức phô bày những sản phẩm của sự tiến bộ khiến người J’rai cảm thấy mình lạc lỏng, ngu dốt. (Có phải vì vậy mà người J’rai khi nói chuyện với người Kinh mặt cứ cúi gầm xuống và tự nhận mình là con lật đật không?). Kết quả là người J’rai bị Kinh hóa mà không biết. Những đứa trẻ J’rai đứng trước hàng bánh đầy màu sắc của người Kinh, không thể nào cưỡng lại nổi sự hấp dẫn. Chúng nào biết trong cái bánh xanh đỏ ấy là chất bảo quản độc hại”. (Ngưng trích).
Hầu hết thời gian cô Amai B’lan lên vùng Krong Pa là để dạy học (dạy kèm) vào ban đêm cho các em chủ yếu là người Thượng J’rai, cũng có một ít các em người Kinh tới học. Lớp học mỗi đêm ở trên nhà sàn của người J’rai cho mượn, lớp học có khoảng năm mươi em..., các em tới học quá nhiều nên không còn chỗ để ngồi phải ngồi cả ra ngoài hiên, các em phải đội cái đèn pin đi săn bắn chụm đầu vào nhau để mà học… Học trò (học thêm) của cô Amai B’Lan phần đông các em đã học qua lớp bốn nhưng về toán “cộng, trừ, nhân, chia” phần nhiều không biết: 7+8 bằng bao nhiêu? “. Lời em H’ Nhao, nói: “Em học lớp 12 rồi mà còn không thạo nhân chia nữa chị ơi” Trời ơi! Họ dạy cái gì trong 12 năm học của các em? Còn về kiến thức thì các em không biết các em ở Việt Nam. Hỏi các em, ngoài nước Việt Nam ra thì còn nước nào khác trên thế giới? Các em thi nhau trả lời: “Nước Krong Pa”. Học lên lớp ào ào nhưng không biết gì hết. (Amai B’Lan) Cô nói vậy đó ! – Người J’rai cứ nợ nần mãi vì có biết tính toán là cái gì đâu. Họ bán hết đất đai cho người Kinh bởi vì họ không tính toán được giá trị thực miếng đất của họ đang có là bao nhiêu tiền theo thời giá lên xuống… Cô buồn, vì học trò của cô học kém, học kém vì các em có được dạy dỗ chu đáo gì đâu mà các em học cho được giỏi giang. Học trò của cô trả “học phí” cho cô là mấy bó lá khoai mì, vài ba củ quả trái cây…!
Cô viết như một lời ăn năn sám hối:
“Người Kinh chúng tôi nợ các em, và các thầy cô giáo dạy dỗ các em phải là người gánh lấy sự bất hạnh và ngu dốt của các em. Họ cũng phải là người phải trả nợ cho những đau khổ và lạc hậu của dân tộc các em. Khốn thay những người làm giáo dục mà không giáo dục, vì họ sẽ phải hứng chịu lấy tất cả những tang thương và điêu linh của nhiều thế hệ về sau. Làm sao tôi có thể kể cho các em biết rằng người Kinh của chúng tôi đang giết chết dân tộc các em từng ngày từng giờ. Chúng tôi giết các em ngay trong những buổi học, giết các em trong những cái chữ, giết các em bằng sự dễ dãi lên lớp và ru ngủ cả một thế hệ bằng ảo tưởng văn minh”. (Ngưng trích)
Tôi rất thích câu: “Khốn thay những người làm giáo dục mà không giáo dục...”. Vậy, thầy cô giáo và cả bộ giáo dục họ làm gì? Câu hỏi nầy bao nhiêu năm qua ai cũng biết rõ, biết rõ nhưng ai cũng làm thinh. Trong cuốn sách “Nước Mắt Của Rừng”, cô Amai B’Lan còn (thổ lộ) nhiều vấn đề - thiệt thòi, bất công, đau khổ… mà tôi không thể kể ra hết ở đây. Cô Amai B’Lan, nói tiếp:
“Cô không đổ lỗi cho các em, vì các em chỉ là những tờ giấy trắng. Người ta có viết gì lên đó đâu mà hy vọng các em có chữ nghĩa. Nếu nền giáo dục Việt Nam không thể dạy cho một học sinh lớp sáu người J’rai biết 15 – 8 bằng bao nhiêu thì đây chỉ là một nền giáo dục tồi. Ôi, một đất nước chỉ mới đây thôi tự hào là quốc gia đoạt giải Nobel toán học mà dân chúng thì chẳng biết 4 + 7 bằng bao nhiêu”
Nội dung các sự việc trong cuốn sách của cô viết thiết nghĩ tất cả mọi người trong xã hội đều đã rõ như ban ngày kể cả giới chức trách cũng hiểu nhưng không một ai trong số họ đủ can đảm nêu lên vấn để để bàn bạc giải quyết..., không một ai đủ can đảm đứng ra bênh vực, giúp đỡ cho các em... Tất cả nhìn nhau im lặng... Người có trách nhiệm và người dạy dỗ họ đang sống sờ sờ, họ đang sống sung sướng với đầy đủ tiện nghi văn minh thậm chí giàu có trên nỗi đau từng ngày của người Thượng.
Washington nói: “Một khi tự do ngôn luận bị mất đi thì chúng ta như những con cừu ngu xuẩn bị người khác dẫn tới lò sát sinh”.
Giáo hội Công Giáo đã tận tình giúp đỡ người J’rai về mọi mặt nhưng những sự giúp đỡ chỉ đạt được một phần nào chứ không vực dậy nỗi…! Cô Amai B’Lan nói vậy. Dù gì, thì giáo hội Công Giáo chính là một chỗ dựa vững chắc. Giáo hội là niềm tin, là niềm an ủi cho những ai bị loại trừ, bị ngược đãi…!
Tôi khâm phục cô Amai B’Lan. Người con gái có vóc dáng nhỏ bé nhưng nghị lực thật phi thường, cô đã làm được việc phi thường. Tôi cảm động khi nhìn hình ảnh cô nấu thức ăn cho ba mươi con người J’rai đi trồng mì ở trong rẫy xa xôi tận rừng sâu vì đất gần nhà, người Kinh chiếm và mua hết. Nắng nóng ở Krong Pa là thổ sản không hề thiếu sẽ thiêu đốt thân xác của cô.
Trong cuốn sách mỏng nầy, cô đã trình cho mọi người thấy bức tranh ảm đạm về hiện tại, tương lai của người Thượng nói chung và người J’rai ở Ayunpa, ở Krong Pa, ở Phùm Gi, ở Buôn Nu, ở Buôn Phùm Ang xa xôi… Cô quả thật là can đảm, cô vượt lên trên nỗi sợ hãi vốn có của con người. Nhà triết học Krishnamurti, nói: “Sự sợ hãi nảy ra thần thánh”. Đúng vậy đó, đứng trước sự sợ hãi người ta chạy tới cầu cứu nơi đấng quyền năng để được che chở... Đối với cô (Amai B’Lan), cô can đảm vượt qua nỗi sự hãi, từ thiên nhiên khắc nghiệt, từ con người không thiện cảm với việc làm của cô... Bởi vì cô vốn đã có Chúa ngự ở trong lòng. Cô đã tiếp bước (dù ít ỏi) của các vị thừa sai như cha Dourisboure trong thiên bút ký “Dân Làng Hồ” của ngài với biết bao gian lao khổ ải bởi sốt rét rừng, kiết lỵ, đói khát... Chính cha Gioan đang phụ trách 40 giáo họ ở Ayunpa cũng “kiệt sức, và cô cũng đã trải qua một cơn bịnh nặng mất hơn nửa tháng mới khỏi.
Cảm ơn tác phẩm “Nước Mắt Của Rừng! Cảm ơn cô Amai B’Lan, chúc cô luôn luôn bằng an trong ơn Chúa!
Tất cả những ai dấn thân vì người nghèo khổ, người bị áp bức dù ít dù nhiều họ đã là thánh.
Trang Y Hạ
San Francisco 2013
https://www.facebook.com/ha.trangy
https://huongduongtxd.com/vuon_trangyha.html
Đăng ngày 12 tháng 03.2023