Article Index

 Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


 

HẢI-QUÂN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA

RA KHƠI 1975

 Biên khảo: ĐIỆP-MỸ-LINH

 Tác giả giữ bản quyền. Mọi trích dịch hoặc sao lại cần có sự đồng ý của tác giả bằng văn thư.
Địa chỉ liên lạc:
Điệp-Mỹ-Linh
P.O. Box 401
Alief, Texas 77411
U.S.A.
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Số Đăng Ký Quốc Tế: 0-9628124-0-4
Số Đăng Ký Tại Thư Viện Hoa Kỳ: 90-093493

Copyright © 1990 and 2011 by Điệp Mỹ Linh

All rights reserved. Without written permission from the author, no part of this publication may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying, recording, or using any information storage and retrieval system. Inquiries may be sent to:
Điệp-Mỹ-Linh - Alief, Texas 77411 - U.S.A.

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. International Standard Book Number (ISBN): 0-9628124-0-4 Library of Congress Catalog Number: 90-093493 Bìa: Kỹ Sư Lê Đình Thăng Trình Bày: VN

Cho các con: Xuân Nguyệt, Hồ Quang Thanh, Xuân Hương, Hồ Quang Liêm, Phạm Thế Vượng và những người trẻ cùng thế hệ để tất cả hiểu được những hải trình khổ nạn mà Ông và Cha đã vượt qua.

HQVNCH

THÁNH TỔ HẢI-QUÂN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA

BÌNH-BẮC ĐẠI-NGUYÊN-SOÁI HƯNG-ĐẠO ĐẠI-VƯƠNG

 Tác giả xin chân thành cảm tạ quý vị sau đây đã đóng góp tài liệu, hình ảnh, bài vở và hổ trợ tinh thần để cuốn tài liệu này được hoàn tất. Đại Gia Đình Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa.

  • Bộ Hải-Quân Hoa-Kỳ – Phòng Quân Sử Hải-Quân.
  • Ông Richard Lee Armitage, Cựu Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa-Kỳ.

diepmylinh

Tác giả: Điệp Mỹ Linh


 

THAY LỜI TỰA

Là một ngòi bút nữ không chuyên nghiệp, tôi rất say mê viết về Lính và tâm tình của Lính, nhưng không bao giờ tôi có ý định viết quân sử. Đối với tôi, tường thuật là một thể loại tôi không thích; vì thể loại này hơi khô khan, cứng ngắt, không hợp với tâm hồn tôi. Vì vậy, thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân Việt-Nam Cộng Hòa Ra Khơi, 1975 không phải là “cao vọng” (?) hay ý tưởng lập dị của tôi, mà chỉ là một cố gắng vượt bực để giới thiệu đến độc giả một quân chủng thầm lặng nhưng được rất nhiều cảm mến của mọi người.

Trong Hải-Quân không hề thiếu những cây bút thừa khả năng để ghi lại những đoạn đường đầy chông gai mà tập thể ấy đã vượt qua. Nhưng sở dĩ tôi được hân hạnh làm công việc này là vì tấm lòng tha thiết của tôi đối với quân chủng này từ khi tôi trở thành “dâu” của Đại-Gia-Đình Hải-Quân. Vì yêu thích thiên nhiên và cũng vì muốn thấy tận mắt những khía cạnh gai gốc nhất của quân chủng Hải-Quân để viết bài, tôi xin tháp tùng những đơn vị chiến đấu Hải-Quân.

Sau khi được Tư-Lệnh Hải-Quân Trần Văn Chơn cho phép, tôi gửi các con của tôi vào nội trú tại trường Régina Pacis và Notre Dame des Missions để lênh đênh trên những chiến đỉnh trong Vùng IV Sông Ngòi hoặc ghe Chủ Lực dọc miền Duyên Hải.  Nhờ thời gian dài sống cạnh những đơn vị tác chiến Hải-Quân tôi mới cảm nhận được tất cả nỗi đau thương của Người Lính V.N.C.H. Và cũng nhờ thời gian này tôi mới ý thức được rằng Người Lính Hải-Quân cũng chiến đấu can cường, liều lĩnh và dũng cảm không thua bất cứ một đại đơn vị tác chiến nào của Quân-Lực V.N.C.H.

Tôi vẫn nhớ, những đêm đen, thấy hỏa châu rực sáng một vùng và nhìn đoàn giang đỉnh lầm lủi tiến về một đồn Nghĩa-Quân đang kêu cứu, tôi bỗng nghe nhiều tiếng B40 và B41 từ hai bên bờ sông bắn xối xả ra đoàn tàu. Chiếc Fom dẫn đầu bị mìn. Quanh tôi, lẫn trong tiếng đạn và mìn vang rền là từng cột nước phun cao, đổ ào xuống đoàn giang đỉnh, át cả tiếng kêu cứu từ máy truyền tin của nhân viên chiếc Fom và của đồn Nghĩa-Quân. Như đã tiên liệu, đoàn giang đỉnh vừa chống trả mãnh liệt vừa tiếp cứu thủy thủ đoàn của chiếc Fom và vừa trực chỉ đến giải cứu quân bạn. Những lúc đó tôi thầm nhủ rằng tôi phải ghi lại những sự kiện này và những hình ảnh bi hùng có thật của Người Lính Áo Trắng.

Tâm nguyện của tôi tưởng chỉ quẩn quanh trong những dòng sông nhuộm máu ở U-Minh. Nhưng, đến đầu năm 1975, Người Lính Áo Trắng không những chỉ giải cứu đồn Nghĩa-Quân mà Người Lính Áo Trắng còn đón cả mấy Sư-Đoàn thiện chiến và cả vạn vạn đồng bào từ Vùng I và Vùng II Chiến-Thuật đưa về Saigon và Phú-Quốc, thì tâm nguyện của tôi trở nên to lớn hơn và khó khăn hơn.

Tôi muốn ghi lại những đóng góp vĩ đại của quân chủng Hải-Quân như là một tài liệu lịch sử.  Tuy nhiên, việc sưu tầm và đúc kết cuốn tài liệu lịch sử này tỷ như hành động hạ thủy một chiến hạm; sau đó, mọi sự việc xảy ra cho chiến hạm đều tùy thuộc vào mức độ xử dụng, tu bổ và bảo trì của tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ đoàn.

Trong ý niệm đó, tôi mong sẽ nhận được những ý kiến, những dữ kiện, những hình ảnh, để bổ khuyết cho cuốn tài liệu này thêm phần chính xác. Và lần tái bản này đã có vài bổ khuyết. Tôi xin được minh xác, cuốn tài liệu này chỉ ghi lại trung thực những biến động trong Hải-Quân, hoặc có liên quan đến Hải-Quân, vào khoảng thời gian giữa tháng 3 năm 1975 cho đến khi Hạm-Đội Hải-Quân V.N.C.H. đến Subic Bay mà thôi.

Phần phụ lục quan trọng là những bài viết giá trị của chính những sĩ quan Hải-Quân như: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh, cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, cựu Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng, cựu Hải-Quân Trung Úy Trần Trúc Việt và một sĩ quan thuộc vào thế hệ Hải-Quân thứ hai: Cựu Hải-Quân Đại-Úy Hoàng Quốc Tuấn, xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (Officer Candidate School – OCS) tại Newport, Rhode Island.

Tôi nghĩ lịch sử là những sự kiện có thật, hãy để những sự việc đó tự nói lên từng trạng huống của mỗi giai đoạn. Muốn thực hiện được điều đó và cũng để giữ mức độ khách quan và vô tư của ngòi bút, tôi tránh xen vào cuốn tài liệu này những suy luận, những nhận định, những bình phẩm của bất cứ một cá nhân nào – và ngay cả của chính tôi.

Những năm học trung học, học Việt-Sử và Thế-Giới-Sử, nếu tôi nhớ không lầm, người viết sử không bao giờ thóa mạ, lên án gắt gao hay lách vào đời tư của bất cứ một nhân vật lịch sử nào cả. Gần đây, trong khi tra cứu một số tài liệu lịch sử Hải-Quân Hoa-Kỳ, tôi cũng chưa hề thấy một ngòi bút nào “nặng tay” với những nhân vật liên đới trách nhiệm trong cuộc chiến tranh Việt-Nam – dù nhân vật ấy là người Việt hay người Mỹ. Tôi nhận thấy lối viết này thích hợp với cá tính của tôi. Vì vậy, chỉ vị nào đọc cuốn tài liệu này với ý tưởng tìm hiểu Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa theo tinh thần sử lược thì xin tiếp tục đọc những trang kế tiếp; vì nơi đây, chỉ có những sự kiện lịch sử hiển hiện chứ không hề có sự đả kích hay tâng bốc bất cứ một nhân vật nào cả.

Cuốn tài liệu này là sự đóng góp tích cực và lớn lao của Đại-Gia-Đình Hải-Quân. Tôi có ý nghĩ để tên tác giả là “Nhóm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa”. Nhưng nghĩ lại, tôi nhận thấy, dù sao đi nữa, cuốn tài liệu này cũng còn nhiều khiếm khuyết; nếu “Nhóm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa” viết, có thể không có những khiếm khuyết đó. Vậy, tôi là người trực tiếp thực hiện những cuộc phỏng vấn, tham khảo tài liệu và đúc kết mọi chi tiết, xin để cá nhân tôi chịu trách nhiệm.

Trong cuốn sách này, độc giả sẽ thấy có những vị tôi nêu tên, có nhiều vị tôi viết tên tắt hoặc chỉ nêu chức vụ. Xin bạn đọc hiểu cho rằng tôi phải tuyệt đối tôn trọng yêu cầu của những “nhân chứng sống”, và cũng để tránh liên lụy cho những vị còn kẹt lại Việt-Nam

Trước khi dừng bút, xin độc giả cho phép tôi được đặc biệt cảm ơn hai người. Một người đã gợi ý và khuyến khích tôi thực hiện tài liệu này. Xin nhớ ơn Cố Trung Tướng Vĩnh Lộc. Một người đã làm việc rất vất vả để tôi có đủ phương tiện giàn trải ý tưởng của mình trên giấy. Xin biết ơn cựu Hải-Quân Trung-Tá Hồ Quang Minh.

Trân trọng,

Điệp-Mỹ-Linh


 CHƯƠNG I

SƠ LƯỢC

LỊCH SỬ HẢI QUÂN V.N.C.H.

 Việc tổ chức quân đội Quốc-Gia Việt-Nam được chính thức đề cập ngày 5 tháng 6 năm 1948, nhưng mãi đến ngày 30 tháng 12 năm 1949 chính phủ Việt-Nam và Pháp mới ký thỏa ước tại Paris để thành lập quân đội Việt-Nam. Trong sự tổ chức và huấn luyện để hình thành quân đội Việt-Nam thuần nhất, Quốc Trưởng Bảo-Đại ban hành Dụ số I để thành lập Hải-Quân Việt-Nam.

Khi vừa được thành lập, Hải-Quân Việt-Nam chỉ là Ban Hải-Quân – về sau được đổi lại là Phòng Hải-Quân – trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam và trưởng thành theo những diễn tiến sau đây:

1950

Một số ít thanh niên Việt-Nam được gửi sang Pháp thụ huấn ngắn hạn tại Trường Sĩ-Quan Hải-Quân, ở Brest. Nhưng vì nhiều lý do, không một sinh viên Việt-Nam nào tốt nghiệp.

1951

Dự án về một Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Việt-Nam được khởi xướng.
Hai đơn vị Hải-Quân chiến đấu được dự trù sẽ thành lập.
Tháng 11, công cuộc xây cất Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha- Trang bắt đầu.
Thời điểm này, Hải-Quân có một tàu dầu, HQ 470.

1952

350 nhân viên được tuyển chọn; khoảng 50 người trở thành Hạ Sĩ Quan.

Chín sinh viên – ngoại trừ Thiếu Úy Lê Quang Mỹ tốt nghiệp khóa II Quang-Trung, tại Huế – được tuyển chọn từ Hàng-Hải Thương-Thuyền để theo học khóa I Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang.

Tháng 3 ngày 6, Quốc Trưởng Bảo-Đại ban hành Dụ số II, xác nhận sự chính thức ra đời của Hải-Quân Việt-Nam.

Tháng 5 ngày 20, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân được thành lập.

Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân được đặt tại Trại Bạch-Đằng sau khi Pháp bàn giao căn cứ Caserne Francis Garnier ở bờ sông Saigon.

Tháng 7 ngày 12, Phó Đô Đốc Paul Ange Philippe Ortoli khánh thành Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang.

Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang tuyển mộ và huấn luyện khóa I Thủy Thủ chuyên nghiệp. Sau đó, 25 khóa sinh được tuyển chọn để theo học khóa I Hạ Sĩ Quan Hải-Quân.

Tháng 9, sáu ứng viên được tuyển chọn để theo học khóa I Trường Sĩ Quan Hải-Quân Pháp, tại Brest.

Ngoài việc huấn luyện sinh viên Việt-Nam trở thành Sĩ Quan Hải-Quân, Pháp cũng có những khóa hành chánh tài chánh ở Toulon. Sinh viên học một năm và một năm thực tập tại các Dépôt của Pháp.

  • Khóa 1: Ông Đỗ Đăng Công và ông Trần Văn Tất.
  • Khóa 2: Ông Phạm Trung Giám.
  • Khóa hành chánh tài chánh tại Cherbourg, năm 1956: Ông Trần Văn Biểu.

Pháp cũng tuyển chọn một số sinh viên Việt-Nam theo học ngành Quân-Y tại Bordeaux. (1)

Tháng 10 ngày 1, khóa 1 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy; riêng sinh viên Lê Quang Mỹ được gắn cấp bậc Hải-Quân Trung Úy.

Tháng 11 ngày 1, khóa 2 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, gồm 12 sinh viên Sĩ Quan ngành chỉ huy và 4 sinh viên Sĩ Quan ngành cơ khí, nhập học.

Hải-Quân Việt-Nam bắt đầu nhận lãnh trách nhiệm trên sông và dọc bờ biển.

1953

Tháng 4 ngày 10, trong chiều hướng bành trướng quân đội Việt-Nam, hai đơn vị chiến đấu Hải-Quân (Division Navale D’Assault, viết tắt là DINA) Việt-Nam – đã được dự trù từ năm 1951 – được thành lập.

DINA 1 đóng tại Cần-Thơ, Chỉ-Huy-Trưởng Việt-Nam đầu tiên là Hải- Quân Đại Úy Lê Quang Mỹ. Về sau đơn vị này được đổi danh hiệu là Hải- Đoàn 21 Xung Phong.

DINA 2 hoạt động trong vùng châu thổ sông Hồng-Hà.

Mỗi đơn vị được trang bị:
1 Commandement
2 LCM
4 LCVP

Cũng trong thời gian này, vấn đề được đặt ra là Bộ-Binh hay Hải-Quân kiểm soát các giang đỉnh. Vấn đề này khiến Phó Đô Đốc Philippe-Marie-Joseph-Raymond Auboyneau nẩy sinh ý kiến và đề nghị thành lập đơn vị Thủy-Quân Lục-Chiến.

Hải Đoàn 25 Xung Phong đóng tại Cần-Thơ là đơn vị Hải-Quân đầu tiên mang Quốc-Kỳ Việt-Nam: Nền vàng ba sọc đỏ; và được trang bị:
1 Commandement
2 LCM
2 LCVP

Cuối tháng 4, Pháp chuyển giao cho Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang một LSIL – chiến hạm này mang cờ Pháp – và một LCU. Vị Hạm Trưởng Việt-Nam đầu tiên của LCU này là Hải-Quân Trung Úy Hồ Tấn Quyền.

Bốn Hải-Đoàn được thành lập:
Hải-Đoàn 21, hậu cứ tại Mỹ-Tho
Hải-Đoàn 22, hậu cứ tại Nam-Định – Bắc-Việt.
Hải-Đoàn 23, hậu cứ tại Vĩnh-Long
Hải-Đoàn 24, hậu cứ tại Saigon

Tháng 5, khóa 2 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 6, đơn vị Hải-Quân tại Vĩnh-Long hoạt động. Lúc này sự tranh luận về Quốc-Kỳ trên kỳ đài của các chiến đỉnh bộc phát giữa chính phủ Việt-Nam và Pháp.

Tháng 7, khóa 3 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang nhập học.

Tháng 9, mười một sinh viên được tuyển chọn để gửi sang Pháp thụ huấn khóa II tại Trường Sĩ Quan Hải-Quân Pháp.

1954

Tháng 1, khóa 3 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Hải-Quân Việt-Nam có 22 sĩ quan và 684 đoàn viên.

Mười hai sinh viên được tuyển chọn để gửi sang thu huấn khóa III tại Trường Sĩ Quan Hải-Quân Pháp, ở Brest.

Tháng 2 ngày 11, vấn đề Quốc-Kỳ được giải quyết thỏa đáng.

Pháp chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam 3 YMS:
HQ 111
HQ 112
HQ 113

Những chiến hạm này mang Quốc-Kỳ Việt-Nam: Nền vàng ba sọc đỏ.

Khóa 4 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang khai giảng.

Tháng 3, Pháp chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam:
2 LCU
Hải-Đoàn 22 Xung Phong.

Tháng 6, khóa I Brest ra trường. Nhưng mãi đến tháng 4 năm 1955 Sĩ Quan khóa I Brest mới về đến Việt Nam.

Tháng 7 ngày 27, khóa 5 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang nhập học.

Hai Căn-Cứ Tiếp-Vận được thành lập; một tại Hải-Phòng, một tại Saigon.

Hải-Quân Việt-Nam có 45 Sĩ Quan và 975 Đoàn Viên.

Tháng 8, Pháp chuyển nhượng Hải-Đoàn 25 Xung Phong.

Tháng 9, mười hai sinh viên được tuyển chọn để sang Pháp thụ huấn khóa III Sĩ-Quan Hải-Quân tại Brest.

Tháng 10 ngày 13, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ký nghị định thành lập Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.

Thời điểm này, Hải-Quân Việt-Nam có 131 Sĩ Quan và sinh viên Sĩ Quan cùng 1353 Thủy Thủ. Trong số này 86 sinh viên Sĩ Quan và 233 Thủy Thủ được thụ huấn tại Pháp.

Khi chiến tranh Việt Pháp kết thúc Pháp đã chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam:
4 Hải-Đoàn Xung-Phong
2 Căn-Cứ Tiếp-Vận
Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang
300 Wizards (Wizard dài 20 feet, vỏ bằng nhựa, máy 25 mã lực, chạy bằng dầu cặn).

Hải-Quân Hoa-Kỳ đã xuất hiện tại Việt-Nam từ tháng 8 năm 1950 với một thành phần rất nhỏ, gồm 8 Sĩ Quan trong MAAG (Military Assistance Advisory Group); nhưng mãi đến năm 1954 quân nhân Hoa-Kỳ mới trở thành cố vấn cho Hải-Quân Việt-Nam.

Tháng 12, khóa 4 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

1955

Tháng 4, ngày 21, khóa 6 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang nhập học.

Tháng 5 ngày 23, Hải-Đoàn 25 Xung Phong,do Hải-Quân Trung Úy Đinh Mạnh Hùng chỉ huy, cùng nhiều đơn vị bạn tham gia chiến dịch Đinh Tiên Hoàng. (Mời xem chi tiết ở phần Những Cuộc Hành Quân Hỗn Hợp trong Vùng Sông Ngòi)

Khóa 5 Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Vào thời điểm này, Hải-Quân Đại Tá Récher là vị sĩ quan Hải-Quân thâm niên hiện diện của Hải-Quân Pháp – trên bờ. Đại Tá Récher đảm nhiệm cả hai chức vụ: Phụ Tá Hải-Quân cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng và quyền chỉ huy Hải-Quân Việt-Nam.

Tháng 6 ngày 30, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Trần Văn Đôn kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy Hải-Quân, thay thế Đại Tá Récher.(2)

Tháng 8 ngày 20, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ định Hải-Quân Thiếu Tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân kiêm Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến.

Ngay khi vừa nhận chức, Tư-Lệnh Hải-Quân Lê Quang Mỹ bổ nhiệm Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam vào những chức vụ then chốt, thay thế Sĩ-Quan Pháp.

Kể từ tháng này, mỗi năm Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang đào tạo khoảng 1.200 nhân sự các cấp.

Hải-Quân Việt-Nam có 4000 quân nhân, kể cả 1837 quân nhân Thủy- Quân-Lục-Chiến.

Tháng 9 ngày 15, Hải-Quân Việt-Nam bắt gặp tại khúc quanh Quatre Bras, trên sông Lòng Tàu, 4 LCVP của quân đội Bình-Xuyên – một lực lượng võ trang chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm – đang được LST 106 của Hải-Quân Pháp tiếp tế quân cụ. Chính Hải-Quân Pháp ngăn cản Hải-Quân Việt-Nam và cũng chính Hải-Quân Pháp giúp đỡ để 4 LCVP của Bình-Xuyên chạy thoát. (3)

Tháng 9 ngày 21 Hải-Quân tham gia chiến dịch Hoàng-Diệu, dưới sự chỉ huy của Đại Tá Dương Văn Minh. (Mời xem chi tiết ở phần Những Cuộc Hành Quân Hỗn Hợp trong sông ngòi)

Cuối tháng 9, sáu ứng viên được tuyển chọn để theo học khóa IV Trường Sĩ Quan Hải-Quân Pháp tại Brest.

Tháng 10 ngày 23, trong cuộc trưng cầu dân ý, Cựu Hoàng Bảo Đại bị truất phế và Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được bầu làm Quốc Trưởng.

Ngày 24, Chiến dịch Hoàng-Diệu kết thúc. Lực-lượng Bình-Xuyên tan rã.

Ngày 26,tại dinh Độc-Lập,tân Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm tuyên bố Hiến Ước tạm thời, theo đó miền Nam Việt-Nam là một nước Cộng-Hòa. Quốc Trưởng lấy danh hiệu là Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa.
Từ đây Hải-Quân Việt-Nam mang danh xưng là Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa.

Tháng 11 ngày 7, Pháp chuyển giao Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang cho Hải-Quân Việt-Nam.

Tháng 12 ngày 7, để bành trướng những hoạt động ở sông rạch, mỗi Hải-Đoàn được trang bị:
6 LCM
4 LCVP
6 Hors-Bord có vận tốc cao
Hải-Quân Việt-Nam tiếp nhận hai LSSL:
HQ 225
HQ 226
Và 1 FS HQ 451
Thời điểm này Hải-Quân Việt-Nam có:
4.000 nhân sự, kể cả 1.837 Thủy-Quân Lục-Chiến
Hải-Quân Công-Xưởng
Kho đạn Thành-Tuy-Hạ

Cũng trong năm này, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa thành lập 3 Lực-Lượng chính yếu.

  • Hải-Trấn, gồm có:

4 Duyên-Khu. Bộ-Chỉ-Huy của mỗi Duyên-Khu được đặt tại Phú- Quốc, Nha-Trang, Vũng-Tàu, Đà-Nẵng.
3 Thủy-Xưởng đặt tại Saigon, Cần-Thơ và Đà-Nẵng.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang.
Hải-Quân Công-Xưởng.
Trung-Tâm Tiếp-Liệu

  • Hải-Lực, gồm có:

3 YMS: HQ 111, HQ 112 và HQ 113
2 LSSL: HQ 225 và HQ 226
4 LSM: HQ 400, HQ 401, HQ 402 và HQ 403
10 WBP

  • Giang Lực gồm 5 Hải-Đoàn.

Hải-Đoàn 21 Xung-Phong hậu cứ tại Mỹ Tho
Hải-Đoàn 22 Xung-Phong từ miền Bắc vào. Nhưng Hải-Đoàn bày bị tan nát khi Việt-Minh và Pháp đụng trận. Những chiến đỉnh khi trao cho Hải-Quân Việt-Nam không còn bao nhiêu, cho nên Hải-Đoàn 22 Xung-Phong được sát nhập vào Hải-Đoàn 21 Xung-Phong. (4)
Hải-Đoàn 23 Xung-Phong hậu cứ tại Vĩnh-Long
Hải-Đoàn 25 Xung-Phong hậu cứ tại Cần Thơ
Hải-Đoàn 26 Xung-Phong hậu cứ tại Long-Xuyên

Mỗi Hải-Đoàn được trang bị:
5 LCM
4 LCVP
5 Hors-Bord
5 LCU
4 YTL

Bộ-Chỉ-Huy của Hải-Trấn, Hải-Lực và Giang-Lực đều đặt tại Saigon.

Tháng 12 ngày 21, Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Lê Quang Mỹ công bố sự hình thành của Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.

Ngày 29,Hải-Quân tham gia Chiến-Dịch Nguyễn-Huệ, dưới sự chỉ huy của Thiếu Tướng Dương Văn Minh – nguyên Chỉ-Huy-Trưởng Chiến-Dịch Hoàng Diệu – và Đại Tá Dương Văn Đức làm Chỉ-Huy-Phó. (Mời xem chi tiết ở phần Những Cuộc Hành Quân Hỗn Hợp Trong Sông Ngòi)

1956

Tháng 1 ngày 1, Chiến-Dịch Nguyễn-Huệ bắt đầu.

Lực-Lượng Hải-Thuyền được đề xướng nhưng chưa được phê chuẩn.

Hải-Lực nhận 5 LSIL:
HQ 327
HQ 328
HQ 329
HQ 330
HQ 331
1 PC HQ 04
1 YWN HQ 9118

Khóa II Sĩ Quan Hải-Quân Brest ra trường và trở về Việt-Nam.

Khóa 7 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang được tuyển chọn và nhập học.

Tháng 2 tối 20, quân Trung-Cộng bất ngờ đổ bộ và chiếm đóng đảo Phú-Lâm (Woody Island). Phú-Lâm thuộc nhóm đảo An-Vĩnh, là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng-Sa, là nơi quân Việt-Nam trú đóng.

Trung-Cộng xây cất 11 doanh trại trên đảo Phú-Lâm.

Tháng 3 ngày 8, khóa 6 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 6 ngày 9, quân nhân Việt Pháp cùng nhân viên đài khí tượng tại đảo Hoàng-Sa báo cáo quân Trung-Cộng đổ bộ lên đảo Robert.

Hải-Quân Việt-Nam điều động ngay 4 chiến hạm sau đây, tiến về Hoàng- Sa:
1 Hộ Tống Hạm
1 Hải Vận Hạm
2 Giang Pháo Hạm

Không có đụng độ. Trung-Cộng âm thầm rút lui. (5)

Tháng 9 ngày 14, Hải-Quân Công-Xưởng được Pháp chính thức chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam.

Pháp tuyển chọn một số sinh viên Việt-Nam theo học ngành Quân-Y tại Bordeaux.

1957

Tháng 2, Hải-Quân đưa những chiến hạm và chiến đỉnh sau đây đón 2.400 Việt kiều bị chính phủ Cambodge trục xuất về Việt Nam.
1 Trợ Chiến Hạm
4 Giang Pháo Hạm
2 LCM

Tháng 4, bốn Hải Vận Hạm và 3 Giang Pháo Hạm chuyển vận 1.500 đồng bào từ Đà-Nẵng đến Cát-Lái định cư.

Tháng 5, Sĩ Quan Hải-Quân Pháp cuối cùng rời Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, giao hoàn toàn trọng trách huấn luyện cho Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam.

Thời điểm này Hải-Quân Việt-Nam có:
3 PC
2 LSM
3 YMS
2 LSSL
5 LSIL
4 LCU
2 GC – Garde Côtière
2 Monitors
4 Commandement
53 LCM bọc thép
11 LCM loại nhẹ
36 STCAN
35 FOM
100 LCVP
15 xà lang
3 tàu dòng
Nhiều MLC.

MLC là loại tiểu đỉnh có khả năng chạy trên sông và trên ruộng lup xúp nước.

Hầu hết giang đỉnh và chiến hạm này đều do Hoa-Kỳ viện trợ cho Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông-Dương và Pháp giao lại cho Việt-Nam. Khi chuyển giao những chiến hạm và tiểu đỉnh đó cho Hải-Quân Việt-Nam, Hải-Quân Pháp, không hiểu nguyên do nào, đã phá hoại bằng cách bỏ cát trong dầu chạy máy hoặc nhận bùn vào các ống dẫn dầu, khiến một số chiến hạm xử dụng được một thời gian ngắn rồi bị phế thải!

Hải-Quân Trung Tá Trần Văn Chơn thay thế Hải-Quân Đại Tá Lê Quang Mỹ trong chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

Tháng 7, khóa 7 Sĩ Quan Hải-Quân – Đệ-Nhất Thiên-Xứng – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

1958

Tháng 1 ngày 6, khóa 8 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang là khóa đầu tiên được chính Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam tuyển mộ và huấn luyện. Sĩ số là 50 sinh viên.

Chiến hạm và chiến đỉnh được tận dụng để chuyên chở đồng bào từ Ba-Nam về U-Minh và Cái-Sắn.

1959

Tháng 2, quân Trung-Cộng giả dạng ngư phủ, đến đánh cá gần đảo Quang-Hòa (Duncan Island). Thấy không có quân Việt-Nam trú đóng, nhóm ngư phủ Trung-Cộng chiếm đảo Quang-Hòa.

HQ 225 được lệnh đến Quang-Hòa.

Sau đó 5 chiến hạm, thuộc Hải-Quân V.N.C.H., với sự tham gia của một Đại-Đội Thủy-Quân Lục Chiến, cũng tiến về đảo Quang-Hòa.

Thủy-Quân Lục-Chiến đổ bộ lên đảo Quang-Hòa, bắt giữ 31 quân Trung- Cộng giả dạng ngư phủ.

Chính phủ Trung-Cộng phản đối dữ dội.

Việt-Nam cương quyết bảo vệ chủ quyền Quốc-Gia tại đảo Quang-Hòa.

Số quân Trung-Cộng giả dạng ngư phủ bị Việt-Nam giam giữ gần 2 tháng rồi được đưa đến Hồng-Kông để trở về Hoa lục. (6)

Tháng 3, khóa 9 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với 38 khóa sinh, nhập học.

Lực-Lượng Hải-Thuyền được thành lập.

Thời gian này Giang-Lực có tổng cộng 96 giang-đỉnh, tổ chức thành 5 Hải-Đoàn.

Hải-Lực nhận 3 MSC: HQ 114, HQ 115, HQ 116.

Tổng số chiến hạm và chiến đỉnh là 119 chiếc.

Tháng 8 ngày 6, Hải-Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền thay thế Hải-Quân Trung Tá Trần Văn Chơn giữ chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

Nhiều Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan được gửi sang Hoa-Kỳ tu nghiệp.

Vị Sĩ Quan cao cấp đầu tiên theo học tại The Naval War College ở Newport Rhode Island là Hải-Quân Trung Tá Trần Văn Chơn.

Sĩ Quan đầu tiên tu nghiệp tại The Naval Postgraduate School ở Monterey, California là Hải-Quân Đại Tá Lê Quang Mỹ.

Tháng 10, Bộ Tư Lệnh Hải-Quân ban hành quy luật Hải-Quân, mang tên là Hải-Quy. Hải-Quy ấn định quy chế hoạt động tổng quát cho tất cả đơn vị và quân nhân Hải-Quân.

HQ 329 và nhiều chiến hạm khác được chỉ định luân phiên mỗi 2 tháng, tuần hành tại Hoàng Sa để ngăn chận sự xâm nhập của Trung Cộng.

1960

40 Sĩ Quan và 60 Hạ Sĩ Quan được gửi sang Hoa-Kỳ tu nghiệp.

Tháng 4 ngày 1, 45 tân Sĩ Quan Hải-Quân khóa 8 – Đệ-Nhất Hổ-Cáp – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 7, khóa 10 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam nhập học.

Tháng 8, Hải-Quân Việt-Nam gửi một toán tình nguyện quân sang Cao- Sùng, Đài-Loan, thụ huấn về Underwater Demolition Team (UDT) để trở thành những Biệt-Hải đầu tiên của Hải-Quân. Thời gian huấn luyện là 5 tháng. Toán tình nguyện quân này gồm có:

Hải-Quân: 8 người, kể cả ông Lâm Nhật Ninh

Lực-Lượng-Đặc Biệt 77: 3 người

Địa-Phương-Quân: 5 người

Khóa đầu tiên với 400 Đoàn Viên Hải-Thuyền được tuyển mộ và huấn luyện tại Đà-Nẵng, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Trung Úy Nguyễn Văn Thông.

Tháng 11 ngày 25, một toán LCM chuyên chở một tiểu đoàn Bộ-Binh từ Tây-Ninh đến một vị trí ven Đồng-Tháp-Mười. Khoảng 6 giờ chiều, chiếc LCM dẫn đầu – với 150 quân nhân Bộ-Binh trong lòng chiến đỉnh – bị mìn. Liền theo đó, đoàn giang đỉnh bị tấn công nặng nề. Đoàn giang đỉnh phản công dữ dội. Trước sự phản công vũ bảo của Hải-Quân, địch quân rút lui.

Tháng 12, bốn Duyên Đoàn đầu tiên được thành lập, hậu cứ đặt tại Cửa- Việt, Huế, Đà-Nẵng và Hội-An.

  • Lực-Lượng Hải-Thuyền chính thức ra đời.
  • Lực-Lượng Giang-Cảnh được thành lập với:

18 RPC

4 LCM

8 LCVP

Hải-Quân Trung Tá Chung Tấn Cang là vị Sĩ Quan thứ hai được tu nghiệp tại U.S. Naval War College.

Từ thời gian này trở về sau, mỗi năm một Sĩ Quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam được theo học tại U.S. Naval War College.

  • Hải-Quân nhận 1 PC: HQ 6.

1961

Liên-Đội Người Nhái được thành lập.

Với sự hợp tác của Người Nhái Hoa-Kỳ, Người Nhái Hải-Quân Việt-Nam đã huấn luyện khóa Biệt-Hải đầu tiên tại Đà-Nẵng. Có 35 khóa sinh theo học.

Chương trình Military Assistance Program (MAP) chấp thuận 406 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam sang Hoa-Kỳ du học về tất cả ngành chuyên môn của Hải-Quân. Ngoài ra, nhiều Sĩ Quan được đưa ra thực tập trên những chiến hạm thuộc Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.

Thời điểm này Hải-Quân Việt-Nam có khoảng 6.000 quân, kể cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên.

Lực-Lượng Hải-Thuyền có 80 ghe đủ loại, tuần tiễu từ Vùng I Duyên- Hải, bên này vĩ tuyến 17.

Hải-Lực nhận:

1 LSM: HQ 404

1 PCE: HQ 7

Tổng số chiến hạm của Hải-Lực là 21 chiếc.

Chính phủ Việ-Nam Cộng-Hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền quần đảo Hoàng-Sa thuộc tỉnh Quảng-Nam là của Việt-Nam Cộng-Hòa.

Thời gian này V.N.C.H. đã có đài khí tượng trên đảo Hoàng-Sa, do Pháp xây dựng, trực thuộc Ty Khí Tượng Đà-Nẵng và được một tiểu đoàn Thủy- Quân Lục-Chiến bảo vệ .

Tháng 5, khóa 9 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam – Đệ-Nhất Nhân-Mã – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 7 ngày 14, chiến dịch Đồng Tiến được tổ chức tại Kiến-Phong thuộc quận Mỹ-An. Khu vực này – phía Bắc tiếp xúc với kinh Đồng-Tiến, phía Nam với kinh Tháp-Mười, phía Đông với kinh Tư-Mới, về hướng Đông của sông Cửu-Long – là một cứ điểm quan trọng của Việt-Cộng.

Đơn vị Hải-Quân và vài đơn vị Pháo-Binh, Lục-Quân chiếm giữ các yếu điểm dọc theo kinh Tháp-Mười, kinh Tư-Mới và bắt đầu tấn công doanh trại của địch.

Một đơn vị khác của Hải-Quân đổ bộ một Tiểu-Đoàn Nhảy-Dù dọc theo kinh Đồng-Tiến.

Mờ sáng, Lục-Quân tiến về phía Nam, tới làng Mỹ-Quý.

Khi phát hiện là doanh trại bị bao vây, Tiểu-Đoàn 52 và một Đại-Đội của Tiểu Đoàn 504 Việt Cộng tháo chạy về hướng Bắc, liền bị Tiểu-Đoàn Nhảy- Dù đánh tan. Nhiều cán binh Việt-Cộng vị bắt và nhiều vũ khí bị tịch thu. (7)

Tháng 9 ngày 1, khóa 11 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam, gồm 81 sinh viên, nhập học.

1962

Tháng 2, Bộ-Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-Phòng được thành lập – đặt dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Trung Tá Trần Văn Chơn – và trực thuộc Bộ-Tư-Lệnh Địa-Phương-Quân.

Lực-Lượng Hải-Thuyền bành trướng với:

- Nhiều Sĩ Quan (Sĩ Quan Hải-Quân)

- 800 Đoàn Viên

- 28 Duyên-Đoàn

- 61 ghe chủ-lực

- 200 ghe di-cư

- 320 ghe buồm

- 23 ghe chủ-lực đang đóng.

- Ghe chủ-lực chạy bằng dầu cặn, máy 225 mã lực.

Tháng 6, Lực-Lượng Giang-Phòng nhận 145 LCVP để trang bị cho 24 Đại-Đội Tuần-Giang.

Tháng 7 ngày 14, khóa 10 Sĩ Quan Hải-Quân – Đệ-Nhất Nam-Dương – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 8, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang tuyển chọn gấp đôi số sinh viên – từ 50 sinh viên cho mỗi khóa tăng lên 100 sinh viên – và thời gian thụ huấn được rút ngắn còn 18 tháng, thay vì hai năm như những khóa trước.

Khóa 12 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với 103 sinh viên ngành chỉ huy, nhập học.

Tháng 10, sáu mươi hai Người Nhái tốt nghiệp, do sự huấn luyện của U.S. Navy SEALs (Sea, Air, and Land Forces).

  • Hải-Đoàn 22 Xung-Phong được thành lập với 19 chiến đỉnh và hơn 200 đoàn viên.
  • Hải-Lực tiếp nhận:

2 PCE: HQ 8 và HQ 9

1 LSM: HQ 405

2 LST: HQ 500 và HQ 501

1963

Hải-Quân, với sự phối hợp của Thủy-Quân Lục-Chiến, đã tổ chức một cuộc hành quân quy mô, mang tên là Chiến-Dịch Sóng Tình Thương. (Mời xem chi tiết ở phần Những Cuộc Hành Quân Hỗn Hợp tại Vùng Sông Ngòi).

Tháng 1 ngày 3, Chiến-Dịch Sóng Tình Thương bắt đầu, với mục đích tái chiếm và bình định khu vực Năm-Căn.

Tháng 4 ngày 14, khóa 11 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam – Đệ-Nhất Bảo-Bình – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Năm Thủy-Xưởng được thành lập tại các Duyên-Khu.

Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Thuyền tại Phú-Quốc được dời về Cam-Ranh.

Khóa I Người Nhái được khai giảng tại Nha-Trang. Có 41 khóa sinh theo học.

Tháng 5, khóa 13 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 115 sinh viên, nhập học.

Ngoài số sinh viên được tuyển chọn, khóa 13 Sĩ Quan Hải-Quân còn có 7 Sĩ Quan đã tốt nghiệp khóa 16 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt, ngày 22 tháng 12 năm 1962, cũng được thụ huấn.

Được chương trình MAP chấp thuận, Hoa Kỳ chuyển giao cho Hải-Lực:

10 PGM: Từ HQ 600 đến HQ 609.

1 LST: HQ 502.

1 YOG: HQ 471.

12 MLM: Từ HQ 150 đến HQ 161.

2 MSF.

Nguyên thủy của Hải-Quân Hoa-Kỳ là MSF 300 Serene và MSF 301 Shelter. Về sau hai Tuần-Duyên-Hạm này được biến cải thành hai Hộ-Tống-Hạm.

Giang-Lực nhận: 24 Monitors, Một số LCVP.

Thời điểm này Hải-Quân có hơn 6.000 quân các cấp. Lực-Lượng Hải-Thuyền có 66 Sĩ Quan (Sĩ Quan Hải-Quân), 375 Hạ Sĩ Quan và 3.359 Đoàn Viên và 208 giang đỉnh đủ loại.

Tháng 11 ngày 1, một biến cố trọng đại đã xảy ra cho Hải-Quân: Tư- Lệnh Hải-Quân, Hải-Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, bị thuộc cấp hạ sát vì Ông không ủng hộ cuộc đảo chánh!

Hải-Quân Đại Tá Chung Tấn Cang được chỉ định giữ chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

1964

Lực-Lượng Hải-Tuần được thành lâp, trực thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên- Hải. Một Trung Úy Hải-Quân và hầu hết nhân viên thuộc Biệt-Hải được biệt phái Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải.

Tháng 1, Hải-Quân có 6.467 Sĩ Quan.

Tháng 2 ngày 22, hai PT đầu tiên đến Đà-Nẵng, đặt dưới quyền xử dụng của Lực-Lượng Hải-Tuần, thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải.

Tháng 3, khóa 12 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhất Song-Ngư – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Hải-Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà – người Hùng trong trận Hải-Chiến Hoàng-Sa chống Tàu Cộng năm 1974 – xuất thân khóa này.

Tháng 4, khóa 14 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với 100 sinh viên, nhập học.

Tháng 6, danh xưng Bộ Chỉ Huy Lực-Lượng Giang-Phòng được đổi thành Bộ Chỉ Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang và trực thuộc Bộ-Tư-Lệnh Hải- Quân.

Tháng 7 ngày 31, cảm tử quân Biệt-Hải, thuộc Sở Phòng-vệ Duyên-Hải, với lối đánh thần tốc, đã đổ bộ và tấn công các đơn vị của Cộng-Sản Bắc- Việt tại đảo Hòn-Ngự và đảo Hòn-Mé. Cảm tử quân Biệt-Hải đã phá hủy một đài radar của Bắc-Việt tại Hòn-Mé. Một toán Biệt-Hải khác đã tấn kích đài tiếp vận truyền tin tại Hòn-Ngự. Hòn-Ngự thuộc tỉnh Nghệ-An, cách Bến-Hải khoảng 185 km.(8)

Tháng 8 ngày 3, một toán cảm tử quân Biệt-Hải tấn công đài radar chính của Cộng-Quân tại mũi Sơn-Vinh và trạm an ninh của Cộng-Quân gần Mũi- Rọn. (9)

Tháng 11, khóa 15 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang nhập học.

Trung-Tâm Huấn-Luyện Kỹ-Thuật Hải-Quân (Engineering School) tại Saigon được dời ra Cam-Ranh. Từ đó, Thủy-Quân Lục-Chiến tuần tự chuyển nhượng Căn-Cứ Cam-Ranh cho Hải-Quân.

Hải-Lực tiếp nhận:

2 PGM: HQ 610 và HQ 611

2 PCE: HQ 10 và HQ 11

Tổng số chiến hạm là 44 chiếc

Ghe buồm của Lực-Lượng Hải-Thuyền được từ từ thay thế bằng ghe xi măng Yabuta (Ferro ciment, đóng tại Hải-Quân Công-Xưởng).

Thời điểm này Giang Lực lớn mạnh với 7 Hải-Đoàn; mỗi Hải-Đoàn có 19 giang đỉnh.

Cũng trong năm này, nhiều Căn-Cứ lớn được thành lập tại những hải cảng quan trọng như Cam-Ranh, Đà-Nẵng, Phú-Quốc.

Từ thời điểm này trở về sau, Hải-Quân V.N.C.H. và Hải-Quân Trung- Cộng chạm súng liên tục trong hải phận Hoàng-Sa, nhưng không có thương vong.

Việt Nam Cộng Hòa thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa. (10)

Tháng 12, khóa 13 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Dương-Cưu – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy. Riêng 7 sĩ quan xuất thân từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt sẽ được thăng cấp Trung Úy hiện dịch vào đầu năm 1965.

1965

Tháng 2 ngày 16, một chiếc tàu Trung-Cộng được Việt Cộng ngụy trang bằng nhiều cây lá trên boong tàu, bên trong chở khoảng 100 tấn vũ khí, bí mật xâm nhập vịnh Vũng-Rô.

Được mật báo, Chỉ Huy Trưởng Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, Hải-Quân Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Thoại, điều động cuộc tấn công hỗn hợp vào sào huyệt của Việt-Cộng tại Vũng-Rô.

Trận chiến Vũng-Rô kết thúc vào ngày 24 tháng 2 với rất nhiều chiến lợi phẩm. (Mời xem chi tiết ở phần Những Cuộc Hành Quân Hỗn Hợp dọc miền Duyên-Hải)

Khóa II Người Nhái được khai giảng tại Nha-rang. Có 48 khóa sinh theo học.

Tháng 4 ngày 26, Hải-Quân Đại Tá Trần Văn Phấn thay thế Hải-Quân Đại Tá Chung Tấn Cang ở chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

Tháng 7, Lực-Lượng Hải-Thuyền được sát nhập vào Hải-Quân với 4.000 nhân viên, 389 ghe chủ-lực, 95 ghe buồm; được chia thành 28 Duyên-Đoàn, đóng rải rác tại 22 Căn-Cứ Hải-Quân:

Duyên Đoàn 11 đồn trú tại Cửa-Việt
Duyên Đoàn 12 đồn trú tại Thuận-An
Duyên Đoàn 13 đồn trú tại Cửa Tư Hiền
Duyên Đoàn 14 đồn trú tại Hội-An
Duyên Đoàn 15 đồn trú tại Chu-Lai
Duyên Đoàn 16 đồn trú tại Quảng-Ngãi
Duyên Đoàn 21 đóng tại Tam-Quan
Duyên Đoàn 22 đóng tại Poulo Gambir
Duyên Đoàn 23 đóng tại Sông-Cầu
Duyên Đoàn 24 đóng tại Tuy-Hòa
Duyên Đoàn 25 đóng tại Hòn-Khói
Duyên Đoàn 26 đóng tại Bình-Ba – Cam-Ranh
Duyên Đoàn 27 đóng tại Phan-Rang
Duyên Đoàn 28 đoáng tại Phan-Thiết
Duyên Đoàn 31 đóng tại Hàm-Tân
Duyên Đoàn 32 đồn trú tại Bến-Đình
Duyên Đoàn 33 đồn trù tại Rạch-Dừa
Duyên Đoàn 34 đồn trú tại Bến-Tre
Duyên Đoàn 35 đồn trú tại Trà-Vinh
Duyên Đoàn 37 đồn trú tại Tiệm-Tôn
Duyên Đoàn 41 đồn trú tại Poulo Obi
Duyên Đoàn 42 đồn trú tại Hòn Nam-Du
Duyên Đoàn 43 đồn Trú tại Cửa Sông Ông-Đốc
Duyên Đoàn 45 đồn trú tại Bắc-Đảo, Phú-Quốc
Duyên Đoàn 46 đòn trú tại An-Thới
Duyên Đoàn 47 đồn trú tại An-Thới

Mỗi Duyên-Đoàn trang bị: 3 ghe chủ-lực, 3 ghe di-cư, 16 ghe chèo.

Về sau, tất cả loại ghe Hải-Thuyền được thay thế bằng Yabuta.

Hải-Lực tiếp nhận:

3 LSSL: HQ 228, HQ 229 và HQ 230

2 PC: HQ 05 và HQ 02

1 LSM: HQ 406

Lúc này Hải-Lực có 2.000 quân, kể cả Sĩ Quan và Đoàn Viên.

Nhiều LSIL và LSSL tuần tiễu trên sông Mékong. Một trong những LSIL và LSSL này được biệt phái cho Đặc-Khu Rừng-Sát. Ba LST và vài LSM được xử dụng để chuyên chở quân dụng.

Một LSM được chỉnh trang thành bệnh viện hạm với đầy đủ dụng cụ y khoa.

Quân số Hải-Quân tổng cộng là 13.000, kể cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên.

Danh từ Hải-Đoàn được thay bằng Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault Group). Sáu trong bảy Giang-Đoàn Xung-Phong được trang bị:

1 Commandement, 1 Monitor, 5 LCM, 6 LCVP, 6 Fom.

Riêng Giang-Đoàn 27 Xung-Phong được trang bị:

1 Commandement, 1 Monitor, 6 LCM, 10 RPC.

Mỗi Giang-Đoàn có 150 nhân sự, gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ quan và Đoàn Viên.

Bảy Sĩ Quan được sang Hoa-Kỳ theo học tại The Naval Postgraduate School.

Tháng 12, khóa 14 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Kim-ngưu – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Cũng trong năm này, theo chương trình viện trợ cho Hải-Quân Việt-Nam, Hoa-Kỳ đã cho tu bổ, nới rộng cơ sở huấn luyện cho phù hợp với nhu cầu.

Hãng thầu xây cất Hoa Kỳ RMK nới rộng Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang về cả hai phía. Phía trái được xây thêm 4 dãy nhà song song, có thể làm chỗ ở cho khoảng 300 Hạ Sĩ Quan khóa sinh và Đoàn Viên chuyên nghiệp. Phía phải được xây thêm 4 dãy nhà và một phạn xá, có thể làm chỗ ở cho khoảng 400 sinh viên Sĩ Quan.

Những dãy nhà cũ được tân trang. Giảng Đường và lớp học được thiết trí rộng rãi và tiện nghi. Đường sá và Thao Diễn Trường được tráng nhựa.

Thời điểm này Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân có một thư viện và 4 câu lạc bộ, dành cho Sĩ Quan, sinh viên Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên khóa sinh Chuyện Nghiệp.

1966

Tháng 1, khóa 16 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – với sĩ số 134 khóa sinh – nhập học.

Bộ Chỉ Huy Hải-Lực được cải danh thành Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội.

Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội tiếp nhận:

1 EPCER: HQ 12

1 LSSL: HQ 231

4 PGM: HQ 612, HQ 613, HQ 614 và HQ 615

Tháng 7, khóa 15 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Song-Ngư – ra trường, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 8, khóa 17 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 136 khóa sinh, nhập học.

Tháng 9, Trung Tướng Cao Văn Viên tạm thời kiêm nhiệm chức vụ Tư- Lệnh Hải-Quân.

Tháng 10 ngày 31, Hải-Quân Đại Tá Trần Văn Chơn đáo nhận chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

Hai Sĩ Quan được theo học tại The Naval Postgraduate School, Hoa-Kỳ.

Cuối năm, Giang-Đoàn 51 và Giang-Đoàn 52 Tuần-Thám được chuyển giao cho Hải-Quân V.N.C.H. tại Căn-Cứ Cát-Lái.

1967

Tháng 7 ngày 2, Người Nhái Hải-Quân phối hợp với Hải-Quân Hoa-Kỳ tấn công chớp nhoáng vào mật khu Hòn-Hèo gần núi Bình Nhơn, thuộc Nha-Trang Khánh-Hòa. Trong trận đột kích này Người Nhái hạ 2 cán bộ cấp huyện ủy, bắt sống nhiều tên khác và tịch thu được nhiều tài liệu quan trọng. Nhờ số tài liệu mật này, cơ quan an ninh đã phá vỡ nhiều cơ sở nằm vùng của Việt-Cộng tại Nha-Trang. (11)

Ngày 15, một tàu chuyên chở vũ khí của Cộng-Sản Bắc-Việt bị chiến hạm Hải-Quân chận lại tại cửa Sa-Kỳ. Khi bị Hải-Quân khám xét, nhân viên trên chiếc tàu xâm nhập khai hỏa. Hải-Quân bắn cháy chiếc tàu của Cộng- Sản Bắc-Việt.

Khóa 16 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Bắc-Giải – mãn khóa, mang cập bậc Thiếu Úy.

Tháng 8 ngày 7, Duyên-Đoàn 16 đóng tại Quảng-Ngãi bị 2 tiểu đoàn Việt-Cộng đồng loạt tấn công. Chỉ Huy Trưởng Duyên-Đoàn 16, Hải-Quân Trung Úy Nguyễn Ngọc Thông, bị tử trận. Hậu cứ của Duyên-Đoàn 16 bị Việt-Cộng tràn ngập.

Chiến hạm và chiến đỉnh cùng vài đơn vị bạn phản công. Việt-Cộng rút lui sau vài giờ giao tranh. (12)

Tháng 9, khóa 18 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 100 khóa sinh, nhập học.

Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa – với nhân số gần 9.000 Sĩ Quan, 27.000 Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên – là một Lực-Lượng Hải-Quân lớn vào hàng thứ 14 trên toàn thế giới.

Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội tiếp nhận 4 PGM: HQ 616, HQ 617, HQ 618, HQ 619.

1968

Tháng 2, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang trở thành Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang. Trung-Tâm Huấn- Luyện Cam-Ranh đào tạo Thủy Thủ và Hạ Sĩ Quan. Trung-Tâm Huấn- Luyện Bổ-Túc Saigon trao dồi thêm về kỹ thuật và kiến thức chuyên môn.

Khóa III Người Nhái được huấn luyện tại Vũng-Tàu; có 45 khóa sinh theo học.

Kể từ khóa IV, khóa V và khóa VI, khóa sinh Người Nhái được huấn luyện tại Cam- Ranh.

Trong thời gian này, Hoa-Kỳ chấp thuận Sĩ Quan và nhân viên Hải-Quân Việt-Nam đến Mỹ và Phi Luật Tân để thụ huấn về các khóa:

- Trục vớt (Salvage) chuyên vớt tàu chìm

- E.O.D. (Explosive Ordinance Disposal) chuyên tháo gỡ chất nổ, bảo vệ chiến hạm khi chiến hạm đậu hoặc neo trong sông rạch, hải cảng và chống Người Nhái Việt Cộng đặt mìn phá hoại.

- U.D.T. (Under Water Demolition Team) chuyên phá vỡ chướng ngại vật dọc bờ biển và hải cảng cũng như đặt mìn phà tàu địch. (13)

Tháng 3, Giang-Lực được chuyển nhượng: 10 LCM, 3 monitor, 1 Commandement.

Tháng 6, Giang-Lực nhận nhiều PBR theo tinh thần viện trợ của chương trình M.A.P.

Tháng 8, khóa 17 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Hải-Sư – mãn khóa, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 10, khóa 19 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 272, nhập học; nhưng phải đến ngày 19 tháng 2 năm 1969 khóa 19 mới chính thức khai giảng.

Tháng 11, chương trình “Việt-Nam hóa chiến tranh” (ACTOV – Accelerated Turnover to the Vietnamese) chuyển nhượng 500 chiến hạm và chiến đỉnh đủ loại. Nhiều Tiền-Doanh Yểm-Trợ cũng được bàn giao cho Hải-Quân Việt-Nam.

Một Sĩ Quan được sang Hoa-Kỳ tu nghiệp tại The Naval Postgraduate School.

1969

Ba Lực-Lượng tác chiến Sông-Ngòi được thành lập:

  • Lực-Lượng Tuần-Thám.
  • Lực-Lượng Thủy-Bộ.
  • Lực-Lượng Trung-Ương

Hải-Lực được chuyển nhượng:

- 1 LST: HQ 503.

- 8 WPB: Từ HQ 700 đến HQ 707.

- Liên-Đội Người Nhái đổi danh hiệu là Liên-Đoàn Người Nhái.

Tháng 7, khoảng 425 PBR được Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam trong một buổi lễ rất trang trọng, trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, dưới sự chủ tọa của Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam và Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, cùng nhiều Sĩ Quan cao cấp Việt Mỹ.

Tháng 7 ngày 14, khóa 18 Sĩ Quan Hải-Quân - Đệ Nhị Xử Nữ - mãn khóa, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 8 ngày 17, khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân, với sĩ số 270 sinh viên nhập học.

Hải-Quân V.N.C.H khánh thành tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo tại công trường Mê-Linh, bến Bạch-Đằng. Tượng do Điêu Khắc Gia PhạmThông thực hiện.

Theo đà lớn mạnh của Hải-Quân V.N.C.H., Hải-Quân Hoa-Kỳ chấp thuận nhiều Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên sang Hoa-Kỳ thụ huấn tại San Diego, California và Great Lakes, Michigan hoặc Norfolk để sẵn sàng nhận lãnh chiến hạm mới.

Cũng trong năm này, một phái đoàn gồm Hải-Quân Trung Tá Khương Hữu Bá, Hải-Quân Trung Tá Bùi Hữu Thư, Hải-Quân Thiếu Tá Hà Ngọc Lương được gửi sang thăm viếng các quân trường Hoa-Kỳ. Ba vị Sĩ Quan cao cấp này rất quan tâm đến trường OCS (Officer Candidate School) tại New Port, Rhode Island.

Khi về lại Việt-Nam, phái đoàn soạn thảo chương trình huấn luyện Sĩ Quan cho Hải-Quân Việt-Nam tại trường OCS Hoa-Kỳ. (Mời xem phần chi tiết về trường OCS trong phần Những Quân Trường Hải Quân Ngoại Quốc mà Sĩ Quan Hải Quân Việt-Nam theo học)

1970

Tháng 2 ngày 21, khóa 19 Sĩ Quan Hải-Quân – Đệ-Nhị Thiên-Xứng – mãn khóa, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Sau một năm huấn luyện thực tập, những Sĩ Quan này sẽ thăng cấp Thiếu Úy.

Khóa Sĩ Quan OCS đầu tiên tại Việt-Nam được khai giảng. Sau đó, mỗi khóa được khai giản cách nhau 6 tuần lễ.

Tháng 3 ngày 4, khóa 21 Sĩ Quan Hải-Quân, với sĩ số 269 sinh viên, nhập học.

Tháng 5 ngày 9, Hải-Quân – với 140 chiến hạm và chiến đỉnh – bất ngờ và ồ ạt tiến qua Neak Luong để kiểm soát thủy lộ Tân-Châu/Nam-Vang và chuyên chở khoảng 80 ngàn Việt kiều từ Cao-Miên hồi hương.

Tháng 6 ngày 19, Tư-Lệnh Hải-Quân Trần Văn Chơn được thăng cấp Đề Đốc.

Tháng 7, Bộ-Tư-Lệnh Hành-Quân Lưu-Động-Sông được thành lập để chỉ huy các lực lượng trong sông.

Những chiến hạm sau đây được Hoa-Kỳ chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam:

1 MSF: HQ 13

2 YOG: HQ 473 và HQ 474

3 LST: HQ 504, HQ 505, HQ 800

1 PCER: HQ 14

18 WPB: Từ HQ 708 đến HQ 725

Cũng theo chương trình Việt-Nam hóa chiến tranh, ACTOV, Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam 242 chiến đỉnh.

Tháng 8 ngày 17, khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Hổ- Cáp – ra trường, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Sau một năm thực tập những Sĩ Quan này sẽ được thăng Thiếu Úy.

Tháng 9, khóa 22 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang nhập học; gồm 124 sinh viên ngành chỉ huy và 124 sinh viên ngành cơ khí.

Một Sĩ Quan được sang Hoa-Kỳ, theo học tại The Naval Postgraduate School.

Theo tài liệu của cựu Hải-Quân Trung Tá Trần Trọng Hải – nguyên giám đốc chương trình ACTOVRAD, 1970-1972 – thì hệ thống Radar phòng vệ Duyên-Hải Nam Việt-Nam gồm có 16 Đài Kiểm Báo trên đất liền và một đài là tầu hải đăng. HQ 460 có tên là Kiểm Báo Hạm Ba-Động, neo tại vùng biển Ba-Động, cách bờ 6 hải lý, giữa Con-Sơn và Vũng-Tàu.

Vị trí các Đài Kiểm Báo:

- Đài Kiểm Báo 101 tại núi Hồn Vượn, giữa Huế và Quảng-Trị
- Đài Kiểm Báo 102 tại Sơn-Chà, Đà-Nẵng
- Đài Kiểm Báo 103 tại Cù Lao Ré

- Đài Kiểm Báo 104 tại Đức-Phổ, Quảng-Ngãi
- Đài Kiểm Báo 201 tại Đề-Gi, Tam-Quang
- Đài Kiểm Báo 202 tại Chóp-Chài, Tuy-Hòa
- Đài Kiểm Báo 203 tại Hòn-Tre, Nha-Trang
- Đài Kiểm Báo 204 tại Mũi-Dinh, cùng vị trí với hải đăng
- Đài Kiểm Báo 301 tại Tà-Kú, Phan-Thiết
- Đài Kiểm Báo 302 tại Núi-Lớn, Vũng-Tàu
- Đài Kiểm Báo 303 tại Côn-Sơn
- Đài Kiểm Báo 304 trên HQ 460, neo tại Ba-Động
- Đài Kiểm Báo 401 tại Hòn-Khoai, cùng vị trí với hải đăng
- Đài Kiểm Báo 402 tại Hòn Nam-Du
- Đài Kiểm Báo 403 tại An-Thới
- Đài Kiểm Báo 404 tại Hòn-Dọc trong quần đảo Hải-Tặc

Máy Radar trang bị các Đài Kiểm Báo trên đất liền là loại Radar của của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ, mang danh hiệu UPS-1B. Những máy này được Hải-Quân Hoa-Kỳ biến cải cho phù hợp với nhu cầu của Hải-Quân Việt-Nam. Sau khi biến cải, những Radar này mang danh hiệu mới là TPS-62.

Tất cả Đài Kiểm Báo trên đất liền đều được trang bị máy TPS-62 với đầy đủ cơ phận và phụ tùng thay thế. Riêng Kiểm Báo Hạm HQ 460 được trang bị loại Radar mang danh hiệu RAYTHE-ON-1500B, giống như Radar trên trên những chiến hạm nhỏ. (14)

1971

Tháng 3 ngày 20, khóa 21 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Nhân-Mã – mãn khóa, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Sau một năm huấn luyện thực tập, những Sĩ Quan này sẽ được thăng Thiếu Úy.

Hải-Quân Việt-Nam tiếp nhận từ Hải-Quân Hoa-Kỳ:

2 DER: HQ 1 và HQ 4

4 WHEC: HQ 2, HQ 3, HQ 5 và HQ 6

2 LST loại lớn: HQ 801 và HQ 802

Tháng 4 ngày 14, khóa 23 Sĩ Quan Hải-Quân khai giảng, với 140 sinh viên ngành chỉ huy và 140 ngành cơ khí.

Tháng 9 ngày 11, khóa 22 Sĩ Quan Hải Quân – Đệ-Nhị Nam-Dương – ra trường, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Sau một năm huấn luyện thực tập những sĩ quan này sẽ được thăng cấp Thiếu Úy.

Tháng 9 ngày 28, khóa 24 Sĩ Quan, với sĩ số 279 khóa sinh, nhập học.

Một Sĩ Quan theo học tại The Naval Postgraduate School, Hoa-Kỳ.

1972

Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển nhượng cho Hải-Quân Việt-Nam:

3 WHEC: HQ 15, HQ 16 và HQ 17

1 YOG: HQ 475

Và hầu hết những Căn-Cứ của Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam

Tháng 4 ngày 15, khóa 23 Sĩ Quan Hải-Quân – Đệ-Nhị Bảo-Bình – ra trường, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Sau một năm huấn luyện thực tập, những sĩ quan này sẽ được thăng cấp Thiếu Úy.

Tháng 11 ngày 15, khóa 25 sinh viên sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 186 khóa sinh, nhập học.

Bốn Sĩ Quan được gửi sang tu nghiệp tại U.S. Naval Postgraduate School, Hoa-Kỳ.

Quân số Người Nhái tăng đến 600 người.

1973

Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân tiếp nhận 30 sinh viên Sĩ Quan Trường Võ Bi Quốc Gia Đà-Lạt thuộc khóa 25 và khóa 26 để giảng dạy lý thuyết trong 3 tháng. Sau khi tốt nghiệp, những Sĩ Quan này sẽ phục vụ trong quân chủng Hải-Quân, ngành hiện dịch

Tháng 8, khóa 26 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, với sĩ số 182 khóa sinh, nhập học.

Tháng 9 ngày 1, khóa 24 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – Đệ-Nhị Song- Ngư – mãn khóa, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Sáu Sĩ Quan được sang Hoa-Kỳ tu nghiệp tại U.S. Naval Postgraduate School.

1974

Tháng 1, Hải-Quân V.N.C.H. chống Hải-Quân Trung-Cộng để dành chủ quyền Hoàng-Sa. (Mời xem chi tiết ở mục Hải Chiến Hoàng-Sa)

Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải được thành lập và được đặt tại NămCăn.

Giải tán Bộ-Tư-Lệnh Duyên-Phòng.

Tất cả Hải-Đội Duyên-Phòng được sát nhập vào các Vùng Duyên-Hải.

Tháng 3, tất cả Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tại Vùng 4 Sông-Ngòi được gom thành Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21. Tư-Lệnh Vùng 4 Sông-Ngòi kiêm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm, yểm trợ cho Quân Đoàn 4.

Sau khi Hạm-Đội Đặc Nhiệm 21 được hình thành, Bộ-Tư-Lệnh Hành- Quân Lưu-Động-Sông được di chuyển về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. (15)

Thời điểm này Giang-Lực có 13 Giang-Đoàn:

Giang-Đoàn 21 Xung-Phong, hậu cứ tại Mỹ-Tho
Giang-Đoàn 22 Xung-Phong, hậu cứ tại Nhà-Bè
Giang-Đoàn 23 Xung-Phong, hậu cứ tại Vĩnh-Long
Giang-Đoàn 24 Xung-Phong, hậu cứ tại Thị-Nghè Saigon
Giang-Đoàn 25 Xung-Phong, hậu cứ tại Cần-Thơ
Giang-Đoàn 26 Xung-Phong, hậu cứ tại Long-Xuyên
Giang-Đoàn 27 Xung-Phong, hậu cứ tại Mỹ-Tho
Giang-Đoàn 28 Xung-Phong, hậu cứ tại Nhà-Bè
Giang-Đoàn 29 Xung-Phong, hậu cứ tại Cần-Thơ
Giang-Đoàn 30 Xung-Phong, hậu cứ tại Thị-Nghè Saigon
Giang-Đoàn 31 Xung-Phong, hậu cứ tại Vĩnh-Long
Giang-Đoàn 32 Xung-Phong, hậu cứ tại Huế
Giang-Đoàn 33 Xung-Phong, hậu cứ tại Mỹ-Tho

Tháng 9 ngày 3, khóa 25 Sĩ Quan Hải-Quân – Đệ-Tam Dương-Cưu – mãn khóa, mang cấp bậc Thiếu Úy.

Tháng 10, sinh viên khóa 26 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang thi xong giai đoạn I, mang cấp bậc Chuẩn Úy. Khóa 26 – Đệ-Tam Kim-Ngưu – được dự trù sẽ mãn khóa vào tháng 8 năm 1975, nhưng không thành!!

Năm Sĩ Quan được tu nghiệp tại U.S. Naval Postgraduate School.

1975

Mười chín Sĩ Quan tu nghiệp tại U.S. Naval Postgraduate School.

Một Sĩ Quan cao cấp Hải-Quân tu nghiệp tại The Naval War College.

Những Sĩ Quan này bị kẹt lại Hoa-Kỳ khi miền Nam Việt-Nam thất thủ.

Thời gian này Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam gồm có:

- 5 Vùng Duyên-Hải

- 2 Vùng Sông-Ngòi

- Hạm-Đội với 83 chiến hạm đủ loại

- 650 Sĩ Quan

- 7.000 Đoàn Viên

- Mỗi chiến hạm có một Sĩ Quan cơ khí

- Lực-Lượng Duyên-Phòng 213 thuộc Hành-Quân Lưu-Động-Biển

- 28 Duyên-Đoàn

- Sở Phòng Vệ Duyên-Hải

- Bốn Lực-Lượng Đặc-Nhiệm thuộc Hành-Quân Lưu-Động-Sông, gồm có:

  • Lực-Lượng Thủy-Bộ (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211).
  • Lực-Lượng Tuần-Thám (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212).
  • Lực-Lượng Trung-Ương (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214).
  • Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 – được thành lập cấp tốc vào tháng 4-1975

Liên-Đoàn Tuần-Giang

13 Giang-Đoàn Xung-Phong

3 Trung-Tâm Huấn-Luyện

Hải-Quân Công-Xưởng tại Saigon và vài Thủy-Xưởng khác.

ü Nhiều Căn-Cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ rải rác khắp 5 Vùng Duyên-Hải và 2 Vùng Sông-Ngòi

ü Bệnh-Xá Bạch-Đằng với tòa nhà hai tầng đồ sộ, trang bị đầy đủ dụng cụ y-khoa, tọa lạc đối diện Hải-Quân Công-Xưởng

Thời điểm này quân số Hải-Quân lên đến hơn 40.000.

______________

1 và 2.- Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu

3.- Wikipedia

4.-5-6-8-9-10-11-12-14.- Lược Sử Hải-Quân V.N.C.H. của ông Vũ Hữu San

7.- HQ/VNCH Trong Thời Kỳ Sơ Khai của ông Bùi Hữu Thư

13.-Bài của Người Nhái Lê Quán.

15.- Ông Đặng Cao Thăng.


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


 CHƯƠNG II

CÁC VỊ TƯ-LỆNH HẢI-QUÂN

haiquanvnch

Kể từ khi thành lập cho đến tháng 4 năm 1975, những sĩ quan sau đây tuần tự đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân:

  • Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Quang Mỹ 20/8/1955 – 1957
  • Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1957 – 1959
  • Hải-Quân Đại-Tá Hồ Tấn Quyền 6/8/1959 – 1963
  • Hải-Quân Đại-Tá Chung Tấn Cang 11/1963 – 1965
  • Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn Phấn 26/4/1965 – 1966
  • Trung-Tướng Cao Văn Viên 9/1966 – 10/1966
  • Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn Chơn * 31/10/1966 – 1974
  • Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh 1974 ­– 1975
  • Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang 3/1975 – 4/1975

 

* Khi bàn giao chức vụ Tư-Lệnh cho Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Trần Văn Chơn mang cấp bậc Đề-Đốc.

                                      HQVNCH

Tư-Lệnh Hải-Quân Đầu Tiên

Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Quang Mỹ

 

HQVNCH

 

HQVNCH

Vị sĩ quan Hải-Quân cao cấp nhất bị Cộng Sản cầm tù

Nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân Cựu Đề-Đốc Trần Văn Chơn

 


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


 CHƯƠNG III

SƠ LƯỢC SỰ TỔ CHỨC CỦA HẢI QUÂN VNCH

BỘ TƯ LỆNH HẢI QUÂN

Khi mới được Pháp chuyển giao, căn cứ của Bộ Tham Mưu Hải-Quân Việt-Nam đóng tại Trại Cữu-Long, Thị-Nghè. Sau khi Pháp giao lại bản doanh Hải-Quân Caserne Francis Garnier ở bờ sông Saigon, Bộ Tham Mưu Hải-Quân Việt-Nam được chính thức trở thành Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và đặt tại trại Bạch-Đằng, cho đến tháng 4 năm 1975. (1)

Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân gồm có Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng; được chia thành các khối như sau:

- Khối Hành Quân
- Khối Quân Huấn
- Khối Nhân Viên – Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân.
- Khối Tiếp Vận
- Sở An Ninh
- Quân Y
- Khối Chiến Tranh Chính Trị
- Tổng Thanh Tra

Mỗi Khối được một Tham Mưu Phó chỉ huy và điều động. Mỗi khối được chia ra nhiều phòng.

Các quân trường Hải Quân Việt Nam:

- Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang

- Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh

- Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Saigon

- Trung Tâm Huấn Luyện Tuần Giang, tại Cái Lái

Những quân trường ngoại quốc mà Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam theo học

- Trường Sĩ Quan Hải-Quân Pháp tại Brest

- Trường O.C.S. (U.S Naval Officer Candidate School)

- Trường Hậu Đại Học Hoa-Kỳ (U.S. Naval Postgraduate School)

- Trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa-Kỳ (U.S. Naval War College)

Hai Lực-Lượng Chiến Đấu chính yếu được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân là Hành Quân Lưu-Động-Sông và Hành Quân Lưu-Động-Biển.

Bộ Chỉ Huy Hành Quân Lưu-Động-Sông gồm có:

- Hải-Quân Biệt Khu Thủ-Đô

- Đặc Khu Rừng-Sát

- Vùng III Sông Ngòi

- Vùng IV Sông Ngòi

- Lực Lượng Tuần-Thám

- Lực Lượng Thủy-Bộ

- Lực Lượng Trung-Ương

- Giang Đoàn Xung-Phong

- Liên Đoàn Tuần-Giang

- Liên Đoàn Người-Nhái

- Lưc Lượng 99

Bộ Chỉ Huy Hành Quân Lưu-Động-Biển gồm có:

- Hạm-Đội

- Vùng I Duyên-Hải

- Vùng II Duyên-Hải

- Vùng III Duyên-Hải

- Vùng IV Duyên-Hải

- Vùng V Duyên-Hải

- Lực Lượng Hải-Thuyền

- Lực Lượng Hải-Tuần

- Biệt-Hải

hai quan ra khoi-chuong 3

KHỐI QUÂN HUẤN

Song song với chương trình huấn luyện, năm 1972, dù với ngân khoảng eo hẹp và phương tiện quá thiếu thốn, Phòng Binh Thư thuộc Khối Quân Huấn cũng đã ấn hành một số sách giáo khoa đáng kể, đồng thời phòng Trợ Huấn cũng không ngừng trong việc xúc tiến thiết lập các mô hình và dụng cụ huấn luyệnđể yểm trợ tối đa cho các quân trường Hải-Quân. (2)

KHỐI NHÂN VIÊN NỮ QUÂN NHÂN

Nữ Quân Nhân Quân Lực V.N.C.H. nguyên thủy là Nữ Trợ Tá – còn được gọi là Nữ Phụ Tá (Personnel Auxiliaire Féminin) viết tắt là P.A.P. – được chính thức thành lập năm 1952.

Thời gian mới thành lập, Nữ Quân Nhân thường phục vụ trong ngành Quân-Y và Xã Hội. Khi Quân Đội Việt-Nam phát triễn và lớn mạnh, Nữ Quân Nhân cũng phục vụ trong nhiều ngành khác thuộc tất cả quân binh chủng và trên khắp bốn vùng chiến thuật.

Dù không phục vụ tại các đơn vị tác chiến, Nữ Quân Nhân vẫn là thành phần quan trọng trong guồng máy chung của Quân Đội miền Nam Việt-Nam.

Muốn trở thành Nữ Quân Nhân, ứng viên phải:

- Có lý lịch an ninh rõ ràng

- Đầy đủ sức khỏe

- Có bằng Trung Học Đệ Nhất cấp hoặc chứng chỉ học lực Trung Học Đệ Nhị cấp hoặc Tú Tài I để được trở thành Sĩ Quan. Thời gian thụ huấn quân sự là 4 tháng.

- Trình độ Tiểu Học để được trở thành Hạ Sĩ Quan. Thời gian thụ huấn quân sự là 3 tháng.

Sau khi hội đủ điều kiện về sức khỏe và học vấn, ứng viên Nữ Quân Nhân được huấn luyện căn bản quân sự như Nam Quân Nhân; nhưng không chú trọng nhiều vế tác chiến mà đặt trọng tâm về vấn đề huấn nhục, rèn luyện cơ thể và quân phong quân kỹ.

Trường Nữ Quân Nhân tọa lạc trên đường Nguyễn Văn Thoại, giữa Trường Đua Phú Thọ và chợ Tân Bình.

Vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên và cũng là cuối cùng của Trường Nữ Quân Nhân là Trung Tá Hồ Thị Vẽ.

Sau khi tốt nghiệp, Nữ Quân Nhân thường phải theo học những ngành chuyên môn, như: Quân Y, Xã Hội, Truyền Tin, Thông Dịch, v.v… Trong những ngành chuyên môn, Nữ Quân Nhân phải học chung với Nam Quân Nhân. Khi hoàn tất chuyên ngành, tùy theo thứ hạng, Nữ Quân Nhân được ưu tiên chọn quân, binh chủng hoặc đơn vị để phục vụ.

Quân Lực V.N.C.H. có một quân trường chuyên đào tạo Nữ Quân Nhân Xã Hội, từ Hạ Sĩ Quan cho đến Sĩ Quan. Đó là Trường Xã Hội Quân Đội thuộc Cục Xã Hội (Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị), tọa lạc trong trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh của Bộ-Tư-Lệnh Biệt Khu Thủ-Đô, trên đường Lê Văn Duyệt.

Ngành Xã Hội Quân Đội do phu nhân Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh – Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia – đề nghị thành lập, vào khoảng năm 1952.

Vị Chỉ Huy Trưởng Trường Xã Hội Quân Đội những năm sau cùng là Thiếu Tá Trần Thị Bích Nga.

Ngành Nữ Quân Nhân được gọi là Đoàn Nữ Quân Nhân Quân Lực V.N.C.H., trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Đoàn Nữ Quân Nhân là Đại Tá Trần Cẩm Hương – xuất thân từ Nữ Trợ Tá Xã Hội và tốt nghiệp Cán Sự Xã Hội trường Thévénet.

Vị Chỉ Huy Trưởng kế nhiệm, sau khi Đại Tá Trần Cẩm Hương giải ngũ vì đáo hạn tuổi, là Trung Tá Lưu Thị Huỳnh Mai.

Văn phòng Đoàn Nữ Quân Nhân được đặt tại Bộ Tổng Tham Mưu. Văn phòng chịu trách nhiệm điều động bốn Phân Đoàn Nữ Quân Nhân cho bốn Vùng Chiến Thuật cùng Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Không-Quân và Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân.

PHÂN ĐOÀN NỮ QUÂN NHÂN HẢI-QUÂN

Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân trực thuộc Khối Nhân Viên Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.

Vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân là Thiếu Tá Nguyễn Thị Điện.

Vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân là Đại Úy Trần Thị Tươi. Phụ tá Phân Đoàn Trưởng Hải-Quân là Trung Úy Nguyễn Kim Nương.

Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân có nhiệm vụ quản trị quân số Nữ Quân Nhân Hải-Quân tại Saigon và những vùng trách nhiệm của Hải-Quân. Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân cũng đảm nhiệm vấn đề tiếp liệu, phục vụ Phòng Xã Hội Hải-Quân và xây dựng Chi Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân.

Văn phòng của Chi Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân được đặt tại Cư Xá Gia Binh Hải-Quân, gần Hải-Quân Công Xưởng.

Chi Đoàn Nữ Quân Nhân Hải-Quân có nhiệm vụ thu xếp nơi cư trú cho Nữ Quân Nhân Hải-Quân độc thân đang phục vụ tại Bộ-Tư-Lệnh, Trung Tâm Tiếp Liệu, Bệnh Xá Hải-Quân, Trung Tâm Vi Phim và Phòng An Ninh của Hải-Quân Công Xưởng.

Chi Đoàn Trưởng Nữ Quân Nhân Hải-Quân là Thiếu Úy Lê Quang Lệ Lan – con gái của Tư Lệnh Hải-Quân đầu tiên Lê Quang Mỹ. Thiếu Úy Lệ Lan tử nạn tại Phú-Quốc trong khi thi hành công vụ giữa Dương Vận Hạm Cam-Ranh, HQ 500 và Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên Hải, vào hạ tuần tháng 4-1975! (*)

(*) Điệp-Mỹ-Linh tổng hợp từ bài viết của Trần Văn/Nguyễn Khắp Nơi trên Internet và tư liệu của Cựu Trung Úy Nguyễn Kim Nương

KHỐI TIẾP VẬN - HỆ THỐNG TIẾP VẬN

Các Đơn Vị Yểm Trợ Tiếp Vận Trung Ương:

- Hải-Quân Công Xưởng

- Trung Tâm Tiếp Liệu

- Ty Công Thự Tiện Ích

- Trung Tâm Sửa Chữa Điện Tử

- Trung Tâm Hành Chánh

- Quân Y Hải-Quân

Bảy Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận địa phương:

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Đà-Nẵng

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Cam-Ranh

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Nhà-Bè

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Đồng-Tâm

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Bình-Thủy

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Cát-Lở

- Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận An-Thới

Bảy Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận:

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Qui-Nhơn

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Cát-Lái

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Rạch-Sỏi

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Năm-Căn

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Bến-Lức

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Thuận-An

- Tiền-Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Đồng-Tâm

- Hai tàu chuyển vận và tiếp tế

Với chiều hướng phát triển tự túc để yểm trợ các đơn vị, ngành Tiếp Vận Hải-Quân cải tiến không ngừng và thâu đạt được nhiếu thành tích khích lệ.

Dù ngân khoản eo hẹp, ngành Tiếp Vận Hải-Quân cũng đã đóng được 87 Duyên Kích Đỉnh xi-măng. Đồng thời, trong nổ lực cải tiến kỹ thuật hầu gia tăng khả năng hoạt động cho chiến hạm và chiến đĩnh, Tiếp Vận Hải-Quân đã hoàn tất thiết trí nhiều loại đại bác phòng không trên các khu trục hạm và tuần dương hạm, tăng cường hỏa lực cho nhiều giang đĩnh, biến cải hệ thống đẩy tàu và chân vịt cho một số giang pháo hạm và trợ chiến hạm.

Song song với việc tiếp vận nặng nề có tính cách quân sự nêu trên, ngành Tiếp Vận Hải-Quân cũng xây cất nhiều trại gia binh tại những nơi đơn vị Hải-Quân trú đóng.

Với sự yểm trợ của Tổng Cục Tiếp Vận và Hoa-Kỳ, Hải-Quân đã xây cất được 50 căn nhà tại Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Cát-Lở và 120 căn nhà tại Duyên-Đoàn 43, Duyên-Đoàn 44 cùng một số đơn vị tại Bình-Thủy. (3)

HOẠT ĐỘNG AN NINH

Hoạt động an ninh Hải-Quân chính yếu là phối hợp, kiểm soát, phong tỏa Duyên-Hải và duy trì ưu thế trên sông, biển hầu bảo vệ an ninh quốc phòng và quyền lợi kinh tế Quốc-Gia.

Hoạt động an ninh Hải-Quân cũng nhằm chận đứng mọi mưu mô của Cộng-Sản Bắc Việt trong vấn đề lấn đất giành dân và những vi phạm Hiệp Định ngưng bắn.

Hải-Quân V.N.C.H. đã khai diễn 1.028 cuộc hoạt động an ninh biệt lập; chận xét 375.250 ghe thuyền và 1.053.604 người; bắt giữ 140 ghe và 276 người.

Về phương diện kiểm soát lãnh hải và bảo vệ kinh tế Quốc-Gia, Hải-Quân Việt-Nam đã đạt được nhiều thành tích đặc biệt như bắt giữ nhiều ghe thuyền và ngư phủ Thái-Lan vi phạm lãnh hải, đánh cá trong vùng kiểm soát của Hải-Quân Việt-Nam.

Ngày 26-06-1974 Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ 4, chận bắt chiếc tàu Luang Lapsri mang số 093393 tại 48 hải lý phía Nam đảo Côn-Sơn và tịch thu được 2.005 ký lô thuốc phiện đựng trong 55 bao lớn và 2 bao nhỏ.

Ngoài ra, công tác yểm trợ các công ty khai thác mỏ dầu hỏa tại thềm lục địa V.N.C.H. đã nói lên được tính cách đặc thù và sự hữu hiệu của quân chủng Hải-Quân. Mặt khác, Hải-Quân cũng hộ tống nhiều chuyến “convoy” trên những thủy trình huyết mạch để vận chuyển quân bạn, đạn dược và quân dụng.

Nhưng, vượt trên tất cả mọi công tác, Hải-Quân V.N.C.H. đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc Việt bất khuất trong trận Hải Chiến Hoàng-Sa với Trung-Cộng, ngày 19 tháng 1 năm 1974.(4)

QUÂN-Y HẢI-QUÂN

Cuối năm 1950, khi Quân Đội Việt-Nam mới bắt đầu thành lập, ngành Quân-Y do một Sĩ Quan Quân-Y người Pháp – Đại Tá Quân-Y Pagès, xuất thân Trường Quân-Y Bordeaux – đảm trách. Đại Tá Pagès là nhân vật đầu tiên được biệt phái giúp thành lập Quân-Y Việt-Nam.

Thời điểm này chính phủ Pháp chấp thuận và trợ giúp học bổng để 5 sinh viên thuộc Đại Học Saigon và 5 sinh viên thuộc Đại Học Hà-Nội sang Pháp, theo học ngành Quân-Y tại Bordeaux.

Ở Pháp có hai trường Quân-Y, một là Trường Quân-Y Lyon để đào tạo Quân Y Sĩ cho quân đội đóng ở Pháp (Métropole) và trường thứ hai là Trường Bordeaux, gọi là Trường Quân-Y Hải-Quân và các Thuộc Địa (École de Santé Navale et Coloniale). Sở dĩ có sự phân chia đó vì Trường Lyon chuyên về chuẩn bị cho chiến trường Âu Châu và Trường Bordeaux chuyên về Y -Khoa nhiệt đới. Đây là lần đầu tiên Trường Quân-Y Bordeaux nhận sinh viên ngoại quốc. Hai năm đầu sinh viên được xem như thi hành quân dịch, cấp bậc là Thủy Thủ không chuyên nghiệp (Matelot de seconde classe, sans specialité). Mỗi tháng sinh viên được cấp 180 quan, 15 gói thuốc lá và 10 con tem để gửi thư. Sau hai năm sinh viên mang cấp bậc Chuẩn Úy và lảnh lương Sĩ Quan.

Cũng vào giai đoạn tiên khởi này, Nha Quân-Y Việt-Nam bổ nhiệm Y-sĩ Thiếu Tá Phạm Tấn Tước vào chức vụ Y-Sĩ-Trưởng Hải-Quân kiêm Y-Sĩ phụ trách phần Quân-Y cho Thủy-Quân Lục-Chiến.

Cơ sở Quân-Y Hải-Quân đầu tiên do Y-Sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước trách nhiệm được đặt tên là Bệnh Xá Bạch-Đằng. Tên gọi cũ của Pháp là Infirmerie Francis Garnier, gồm cơ sở hai tầng lầu về phía Đông của Trại Bạch-Đằng, nhìn ra Công Trường Mê-Linh, sau này được đổi tên là Công Trường Trần Hưng Đạo.

Bệnh Xá Bạch-Đằng là một bệnh xá có tầm vóc, có phòng Quang Tuyến, phòng Nha Khoa, phòng Dược, phòng Thí Nghiệm, v. v...Tầng hai là trại bệnh và tầng ba dành cho Y-Sĩ trực và Y-Tá. Bệnh xá Bạch-Đằng có xe cứu thương hiệu Peugeot sơn màu trắng. Y-Sĩ Thiếu Tá Phạm Tấn Tước bổ nhiệm Y-Sĩ Đại Úy Nguyễn Gia Quýnh vào chức vụ điều hành Quân-Y cho bệnh xá thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang.

Bệnh xá thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Nha-Trang là một bệnh viện tư của một Y-Sĩ Pháp thành lập và được Hải-Quân Pháp mua lại khi xây cất Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân; vì vậy bệnh xá này rất đầy đủ tiện nghi.

Nha Sĩ Hải-Quân đầu tiên là Nha Sĩ Đại Úy Nguyễn Văn Hiền, tốt nghiệp ở Pháp. Dược Sĩ phụ trách Trung Tâm Tiếp Liêu Y Dược là Dược Sĩ Đại úy Thái Hữu Đức, tốt nghiệp Đại học Toulouse, Pháp.

Quân-Y-Sĩ Hải-Quân vào lúc khởi đầu gồm toàn Y-Sĩ trừ bị, được động viên và do Nha Quân-Y thời bấy giờ phân phối cho quân chủng Hải-Quân.

Khoảng cuối năm 1956 sinh viên Quân-Y Việt-Nam bắt đầu trình luận án tốt nghiệp tại Trường Y Khoa Bordeaux. Những bác sĩ này là Sĩ Quan Quân-Y hiện dịch.

Sĩ Quan Quân-Y hiện dịch lần lược trở về nước và được Y-Sĩ Thiếu Tá Phạm Tấn Tước bổ nhiệm vào phục vụ ở bệnh xá Bạch-Đằng, bệnh xá Hải-Quân Công Xưởng, Căn-Cứ Cát-Lái, bệnh xá Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Riêng bác sĩ Nguyển Phúc Quế được chỉ định làm Y-Sĩ- Trưởng Thủy-Quân Lục-Chiến và cùng với Đại Úy Lê Nguyên Khang tiếp nhận Căn-Cứ Cam-Ranh. Bệnh xá đầu tiên của Thủy-Quân Lục-Chiến được Bác Sĩ Nguyễn Phúc Quế thành lập tại Bình-Ba, Cam-Ranh.

Y-Tá được huấn luyện riêng tại Nha-Trang theo chương trình của Hải-Quân Pháp. Nha Quân-Y không chấp thuận và bắt buộc khóa sinh Y-Tá phải theo học chương trình Y-Tá quân đội CC1, CC2...

Y-Sĩ Thiếu Tá Phạm Tấn Tước được giải ngủ.

Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu đảm nhận chức vụ Y-Sĩ-Trưởng Hải-Quân kiêm Sĩ Quan hộ tịch cho Thủy-Quân Lục-Chiến cho đến ngày xảy ra trận chiến Bình-Giả.

Từ thời điểm này Y-Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Phúc Quế không còn trực thuộc Quân-Y Hải-Quân nữa. Những Y-Sĩ Thủy-Quân Lục-Chiến đã gầy dựng một ngành Quân-Y riêng biệt với nhiều thành công rực rỡ.

Nhận thấy bệnh xá Bạch-Đằng có thể làm trở ngại việc phòng thủ Trại Bạch-Đằng – mặc dầu cửa vào bệnh xá lối Công Trường Mê-Linh đã được khóa lại và bệnh nhân phải ra vào bằng cổng chánh của Trại – sau nhiều lần trình bày, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chấp thuận bệnh xá Bạch-Đằng được dời về Trung Tâm Hành Chánh Hải-Quân tọa lạc tại đường Cường-Để, trước Hải-Quân Công Xưởng.

Địa điểm mới của bệnh xá Bạch-Đằng là một cơ sở biệt lập, thích hợp với cơ quan Quân-Y và có khả năng phát triển. Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam giúp khuyếch trương bệnh xá, lo việc xây cất phòng ốc và xây thêm một nhà bảo sanh cho gia đình Binh Sĩ Hải-Quân.

Ngoài công tác yểm trợ Quân-Y cho các chiến hạm, Giang-Đoàn, Duyên-Đoàn, Y-Sĩ Hải-Quân cũng tham gia công tác Dân Sự Vụ tại các đảo và các miền Duyên-Hải. Để có khả năng giúp đỡ hữu hiệu, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chấp thuận thành lập một tàu bệnh viện. Quân-Y Hải-Quân đã phối hợp với Hải-Quân Công Xưởng để thiết lập sơ đồ biến cải Hải Vận Hạm Hát-Giang, HQ 400, thành một bệnh viện lưu động với đầy đủ trang bị dụng cụ Y Khoa. Vào lúc này, một thành phần thuộc Quân-Y Hải-Quân Hoa-Kỳ được biệt phái làm cố vấn cho ngành Quân-Y Hải-Quân. Y-Sĩ Thiếu Tá Pye là vị cố vấn đầu tiên.

Khi nhận viện trợ chiến hạm của Hải-Quân Hoa-Kỳ, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa phải chấp nhận điều kiện không được biến cải tính cách của chiến hạm. Các chiến hạm được xem như Hoa-Kỳ cho Hải-Quân Việt-Nam mượn xử dụng trong thời chiến. Vì lý do nêu trên, Thiếu Tá Pye xử dụng quân xa chở hàng cỡ lớn của quân đội Mỹ với tiện nghi máy lạnh để trang bị thành những phòng khám bịnh, phòng giải phẫu, phòng thí nghiệm, phòng quang tuyến, v. v...Những xe chở hàng này được ràng buộc trong lòng chiến hạm Hát-Giang. Hai Y-Sĩ Hoa-Kỳ về nội thương và giải phẫu cùng toán Y-Tá thí nghiệm, phòng mổ cũng được biệt phái cho chiến hạm Hát-Giang để phục vụ cạnh Y-Sĩ và Y-Tá Hải-Quân Việt-Nam.

Công tác Dân Sự Vụ của HQ 400 đã đem đến cho dân chúng các đảo và các miền Duyên-Hải sự trợ giúp y tế hữu hiệu. Một tàu bệnh viện thứ hai, Hải Vận Hạm Hàn-Giang, HQ 401, cũng được thành lập tiếp theo sau thành quả tốt đẹp của bệnh viện hạm HQ 400.

Việc di chuyển thương bệnh binh trên chiến hạm qua các cầu thang dựng đứng và chật hẹp hay từ chiến hạm này qua chiến hạm khác, không thể dùng các loại cáng thường mà phải cần buộc thương bệnh binh trong cáng thúng (basket litter). Việc đào thoát và sống còn trên biển cả cần phải có những phương thức huấn luyện riêng. Kho Y-Dược Hải-Quân phải có kế hoạch yểm trợ đặc biệt cho các chiến hạm như các bệnh xá biệt lập, không thể chỉ có được cấp số như một đại đội Lục-Quân...

Y-Tá Việt-Nam được sang Hoa-Kỳ tu nghiệp.

Sự hiện diện của phái bộ cố vấn Quân-Y Hoa-Kỳ bên cạnh Quân-Y Hải-Quân Việt-Nam đã giúp rất nhiều về sinh hoạt và huấn luyện cho nghành Quân-Y. Đó là những sự việc mà tất cả Y-Sĩ Hải-Quân phải trực diện trong lúc phôi thai, để chuẩn bị cho sự gia nhập đông đảo về sau của các Quân-Y-Sĩ tốt nghiệp tại Việt-Nam.

Giờ đây chiến cuộc đã tàn phai. Nhiều anh em Y-Sĩ Hải-Quân đã trở về trong lòng đất lạnh. Hồi tưởng lại buổi thiếu thời, sau khi đã nếm mùi biển động của Đại Tây Dương vùng Brest hay biển êm ả Địa Trung Hải ở vịnh Toulon (Pháp), lần đầu tiên được trở về phục vụ Hải-Quân Việt-Nam, nhìn nước biển một màu xanh biếc ở Cầu-Đá Nha-Trang, tâm hồn người Y-Sĩ trẻ cảm thấy phấn khởi và hãnh diện vô biên .

CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ

Chiến Tranh Chính Trị nhắm vào 3 đối tượng Dân, Binh, Địch và bao gồm 4 lãnh vực:

- Tâm Lý Chiến

- Chính Huấn

- Xã Hội

- Tuyên Úy

Chiến Tranh Chính Trị càng ngày càng trở nên cần thiết trong nhiệm vụ nâng cao tin thần quân sĩ Hải-Quân đế chống Cộng cứu quốc đồng thời giữ lập trường Quốc Gia vững chắc.

Trong nỗ lực thực thi các chiến dịch, chương trình, kế hoạch thuộc lãnh vực Tâm Lý Chiến, ngành Chiến Tranh Chính Trị Hải-Quân đã gặt hái được nhiều thành tích khả quan. (5)

TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI-QUÂN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA

Hải-Quân Việt-Nam có ba Trung Tâm Huấn Luyện:

  • Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang có khả năng huấn luyện từ 1.200 đến 1.500 khóa sinh; gồm có các trường đào tạo Sĩ Quan Hải-Quân, trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp, trường Trung-Đẳng và trường Sơ Đẳng Chuyên Nghiệp.
  • Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh có khả năng huấn luyện từ 1.500 đến 1800 khóa sinh; gồm trường Huấn Luyện Chiến Hạm, trường Phòng Tai, trường Sơ Đẳng Chuyên Nghiệp và trường Tân Binh Hải-Quân. (6)
  • Trung Tâm Huấn Luyện Bổ-Túc Saigon được tổ chức theo yêu cầu của Ban Cố Vấn Hải-Quân Hoa-Kỳ. Tất cả Ban Tham Mưu và huấn luyện viên đều tốt nghiệp từ các trường Hải-Quân Hoa-Kỳ. Riêng Chỉ Huy Trưởng thì Ban Cố Vấn Hoa-Kỳ đề nghị phải là một sĩ quan tốt nghệp từ U.S. Naval Postgraduate School. Tham mưu và huấn luyện viên gồm có khoảng 25 nhân viên Việt-Nam và 10 nhân viên Hoa-Kỳ. (7)

Hai vị Sĩ Quan sau đây đã từng là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Saigon:

- Hải-Quân Đại Úy Vũ Xuân An

- Hải-Quân Đại Úy Hồ Văn Kỳ Thoại

Trung Tâm Huấn Luyện Bổ-Túc có khả năng huấn luyện 200 khóa sinh; gồm trường Chỉ Huy Tham Mưu Hải-Quân, trường Chuẩn Úy Đoàn Viên, trường Trung Đẳng Chuyên Nghệp và các khóa huấn luyện bổ túc ngắn hạn.

  • Và Trung Tâm Huấn Luyện Tuần-Giang tại Cát-Lái.

Khóa Tuần-Giang đầu tiên do Hải-Quân huấn luyện. Sau đó Trung Tâm Huấn Luyện Tuần-Giang được thành lập tại Cát-Lái. (8

TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI-QUÂN NHA-TRANG

hai quan ra khoi-chuong 3Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang tọa lạc trên đường Duy-Tân nối dài, qua khỏi phi trường quân sự Nha-Trang và trước khi đến Chutt.

Công tác xây cất Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang được khởi sự vào tháng 11 năm 1951 và được khánh thành ngày 12 tháng 7 năm 1952.

Tháng 7 năm 1955 Hải-Quân Pháp chuyển giao Trung Tâm Huấn Luyện cho Hải-Quân Việt-Nam.

Từ khi Hải-Quân Việt-Nam chính thức điều hành cho đến tháng 4 năm 1975, Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang đã được những Sĩ Quan sau đây chỉ huy:

  • Hải-Quân Thiếu Tá Chung Tấn Cang 7/11/1955 – 29/3/1958
  • Hải-Quân Thiếu Tá Đặng Cao Thăng. 29/3/1958 – 10/2/1960
  • Hải-Quân Thiếu Tá Vương Hữu Thiều 10/2/1960 – 19/1/1963
  • Hải-Quân Thiếu Tá Dư Trí Hùng 19/1/1963 – 23/12/1963
  • Hải-Quân Trung Tá Nguyễn Đức Vân 23/12/1963 – 26/2/1966
  • Hải-Quân Thiếu Tá Bùi Hữu Thư 26/2/1966 – 13/7/1966
  • Hải-Quân Đại Tá Đinh Mạnh Hùng 13/7/1966 – 1/3/1969
  • Hải-Quân Đại Tá Khương Hữu Bá 1/3/1969 – 6/8/1971
  • Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Trọng Hiệp 6/8/1971 – 6/1/1973
  • Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu 6//1/1973 – 3/1975 (*)

(*) Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi do Điệp-Mỹ-Linh biên soạn

Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang tọa lạc trên đường Duy-Tân nối dài về hướng Chụtt, mặt tiền hướng ra biển Nha-Trang, bên cạnh rào trái mặt Bắc là nhà máy điện. Cạnh rào phải mặt Nam là trường trung học Kỹ Thuật Nha-Trang. Mặt sau là khu gia binh của Lực Lượng Đặc-Biệt.

Giai đoạn đầu, khuôn viên quân trường gần như là một hình vuông, mỗi cạnh khoảng 400 mét.

Năm 1965, trong chương trình viện trợ và hiện đại hóa Lực Lượng Hải-Quân Việt-Nam, Hoa-Kỳ đã cho tu bổ, nới rộng cơ sở huấn luyện nhằm đáp ứng nhu cầu. Hãng thầu xây cất Hoa-Kỳ RMK trúng thầu thực thi công tác tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang và Trunh Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh.

Quân trường Hải-Quân Nha-Trang được nới rộng ra cả hai phía. Phía Bắc được xây thêm 4 dãy nhà song song có khả năng làm chỗ ở cho trên 300 Hạ Sĩ Quan khoá sinh, Ðoàn Viên Chuyên Nghiệp. Phía Nam được xây thêm 4 dãy nhà mới và một phạn xá có khả năng làm nơi ăn ở cho trên 400 sinh viên. Ngoài ra các dãy nhà cũ đều được tân trang, giảng đường, lớp học được thiết trí rộng rãi và tiện nghi hơn. Ðường sá trong Trung Tâm và Thao Diễn Trường được tráng nhựa mới. Toàn thể Trung Tâm có 4 câu lạc bộ dành cho Sĩ Quan, Sinh Viên Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Ðoàn-Viên khoá sinh Chuyên Nghiệp và một thư viện lớn.

Tiêu chuẩn được chọn để theo học các khoá Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên phải qua một cuộc thi tuyển. Thời gian thụ huấn tùy theo nhu cầu. Đối với các khóa Sĩ Quan thì chương trình huấn luyện từ 6 tháng đến 2 năm.

hai quan ra khoi-chuong 3

Cuối năm 1962 vì nhu cầu khẩn thiết để tiếp nhận nhiều chiến hạm, chương trình huấn luyện được rút ngắn 6 tháng; do đó từ khóa 11 cho đến khoá 18 áp dụng chương trình huấn luyện 18 tháng. Số lượng sinh viên Sĩ Quan được thu nhận cũng thay đổi. Từ năm 1957 đến 1960 mỗi khóa không quá 60 sinh viên. Năm 1961 thu nhận 82 sinh viên. Từ khóa 12 đến khoá 18 thu nhận trên 100 sinh viên.

Ðầu năm 1969 do nhu cầu Hoa-Kỳ chuẩn bị chuyển giao trách nhiệm chiến trường Sông Biển cho Hải-Quân Việt-Nam đảm trách, số lượng sinh viên mỗi khoá tăng lên khoảng trên 200.

Tại quân trường Nha-Trang kể từ khoá 19 đến khóa 23 thời gian huấn luyện là 1 năm. Về văn hoá vẫn dạy theo chương trình đại học như các khóa đàn anh. Về quân sự được tổ chức và điều hành theo hệ thống tự chỉ huy. Sau khi thụ huấn một năm, sinh viên tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Uý. Sinh viên được thực tập một năm theo chương trình OJT ( On Job Training ). Sau khi hoàn tất chương trình thực tập, mang cấp bậc Thiếu Úy trừ bị.

Từ khóa 24 về sau việc huấn luyện trở lại áp dụng chương trình 2 năm và tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Uý trừ bị.

Năm 1956, để huấn luyện Hải Nghiệp cho sinh viên khóa 7 và các khóa kế tiếp, tại vịnh Cầu-Ðá thường xuyên có 3 Trục Lôi Hạm:

- Hàm Tử, HQ 111

- Chương Dương, HQ 112

- Bạch Đằng, HQ 113

Tình trạng ba chiến hạm này quá cũ nên không còn xử dụng cho việc rà mìn. Tất cả Hạm Trưởng đều là Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam.

Từ năm 1961 cho đến năm 1963 các Trục Lôi Hạm HQ 111, HQ 112 và HQ 113 lần lượt được phế thải. Các Trục Lôi Hạm sau đâ được thay thế:

- Hàm Tử II, HQ 114

- Chương Dương II, HQ 115

- Bạch Đằng II, HQ 116

Ngoài việc huấn luyện ba chiến hạm kể trên còn tham gia tuần phòng lãnh hải. Hàng năm có chương trình khử từ tại Subic Bay Phi-Luật-Tân. Mỗi chuyến khử từ được sắp xếp cho sinh viên thực tập hải hành viễn dương. Các tân Sĩ Quan cũng được Hải-Quân Hoa-Kỳ phối hợp cho thực tập OJT trên chiến hạm Mỹ.

Giữa năm 1962 toàn thể sinh viên khóa 10 Hải-Quân Nha-Trang được đi thực tập trên các chiến hạm một tháng. Khởi đầu từ Cầu-Ðá Nha-Trang nhập hạm, hải hành xuyên đại dương qua Subic Bay, Phi-Luật-Tân và trở về lại Cầu-Ðá Nha-Trang.

Năm 1963 được dự trù các tân Sĩ Quan đến thực-tập OJT tại San Diego Hoa-Kỳ, nhưng sau đó thực tập trên các chiến hạm thuộc Ðệ 7 Hạm-Ðội đang hoạt động tại các nước như Nhật-Bản, Phi-Luật-Tân, Ðài-Loan, HongKong, Singapore v. v… Từ khi Ðệ 7 Hạm-Ðội tham gia Market Time của CTF 115 tại Cam-Ranh thì các tân Sĩ Quan nhập hạm ngay tại vùng biển Việt-Nam và nghỉ bến tại các bến cảng ngoại quốc. Trên mỗi chiến hạm có 2 tân Sĩ Quan Việt-Nam thực tập.

Cuối năm 1971, sau khi khóa 22 ra trường thì Trung-Tâm chuẩn bị tiếp nhận thêm các Sĩ Quan khóa sinh, được gọi là khóa Sĩ Quan Ðặc-Biệt. Ðó là những Sĩ Quan có cấp bậc từ Chuẩn Úy đến Thiếu Tá đã tốt nghiệp tại các quân trường Bộ-Binh và đang làm việc tại các đơn vị bờ của Hải-Quân, kể cả các Sĩ Quan ngành Cảnh-Sát thuộc các Lực-Lượng Giang-Cảnh.Thời gian thụ huấn là 6 tháng lý-thuyết, chương trình thuần túy về hải nghiệp, khi tốt nghiệp thì vẫn mang cấp bậc cũ nhưng danh xưng bây giờ là Hải Quân.

Tháng 9 năm 1974 khóa 25 sinh viên Hải-Quân Nha-Trang mãn khóa. Quân trường Nha-Trang chỉ còn lại khóa 26 là khóa cuối cùng.

Từ ngày thành lập cho đến 30-04-1975 Trung-Tâm đã đào tạo được trên 3000 Sĩ Quan chung cho ngành Chỉ Huy và Cơ Khí. Riêng về trường Sơ-Ðẳng Chuyên Nghiệp thì đã đào tạo được 15.050 Hạ Sĩ Quan và Ðoàn Viên.

SỰ TỔ CHỨC của TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI-QUÂN NHA-TRANG

Khối Quân Sự Vụ và Văn Hoá Vụ liện hệ mật thiết đến việc huấn luyện cho khóa-sinh.

1. Khối Quân Sự Vụ có 2 Liên Ðoàn:

- Liên Ðoàn sinh viên Sĩ Quan gồm 2 khoá; một khóa đàn anh và một khóa đàn em.

- Liên Ðoàn Chuyên Nghiệp gồm các khoá sinh tân tuyển cũng như các khoá sinh học Chuyên Nghiệp, các Hạ Sĩ Quan học Chuyên Nghiệp.
Trách nhiệm về sinh hoạt, quân phong quân kỷ, hệ thống tự chỉ huy, các cuộc thanh tra, tổ chức các cuộc lễ diễn hành và lễ mãn khóa.

Phòng Thể Thao và đảm trách việc huấn luyện thể dục, thể thao và võ thuật.

2. Khối Văn Hoá Vụ: Có 2 trường:

- Trường Sĩ Quan Hải-Quân, có một Hiệu Trưởng.
- Trường Sơ Ðẳng Chuyên Nghiệp Hải-Quân, có một Hiệu Trưởng.
Trách nhiệm về các chương trình huấn luyện, tổ chức thi định kỳ, thi trắc nghiệm và thi mãn khóa.

Quản lý thư viện và phòng Trợ Huấn Cụ.

TRUYỀN THỐNG TRƯỜNG SĨ QUAN HẢI-QUÂN

LIÊN ĐOÀN SINH VIÊN SĨ QUAN HẢI-QUÂN

Theo truyền thống Hải-Quân, khi nhập khóa, tân sinh viên được đặt dưới sự hướng dẫn và điều hành của khóa đàn anh. Sinh viên mỗi khi di chuyển từ 2 người trở lên phải bước đều. Di chuyển tập thể phải có người chỉ huy đếm và hát theo nhịp.

Khoảng từ 1 tuần đến 30 ngày sau, Chỉ Huy Trưởng cho phép Khối Quân Sự Vụ để khóa đàn anh huấn nhục khoá đàn em. Thời gian huấn nhục kéo dài theo truyền thống qui định là một tháng. Giờ huấn nhục nằm ngoài giờ học tập.

Chương trình huấn nhục phải được thông báo trước cho Sĩ Quan Trực quân trường. Trọng tâm chương trình huấn nhục nhằm cho khóa đàn em biết tuân thủ mệnh lệnh của cấp trên. Sau khi chấp nhận đời quân ngũ và sẽ trở thành cấp Chỉ Huy thì thi hành trước báo cáo sau. Bất cứ một sự thi hành chậm trễ hay không đúng yêu cầu, khóa đàn anh áp dụng kỹ luật đối với cá nhân hay tập thể sai phạm bằng các hình phạt như hít đất, chạy vòng quanh sân hay ngồi xổm tay chống ngang hông đi chân vịt, v.v... Mùa huấn nhục là thời gian mà khóa đàn anh tự tạo ra những trò chơi vừa có tính ra lệnh vừa có tính bất ngờ. Ðối với khóa đàn em thì đó là một thời kỳ căng thẳng về kỹ luật, hệ thống quân giai và quân phong quân kỹ nhập môn.

Khi giai đoạn huấn nhục chấm dứt, toàn thể khóa đàn anh làm lễ tiếp nhận khóa đàn em đã trải qua thời kỳ gian khổ và kết tình "Bố Con". Khi đã nhìn nhận "Bố Con" thì khóa đàn anh giúp đỡ và tạo điều kiện cũng như hướng dẫn cho đàn em khi cần đến.

Trong lịch sử huấn nhục tại trường Hải-Quân Nha-Trang từ trước đến nay theo một truyền thống có tính cách quốc tế rất tốt đẹp. Sau khi hết giai đoạn khổ nhục, khóa đàn anh và đàn em sống với nhau rất thuận hòa, chấp hành tốt các kỹ luật và hệ thống quân giai trong hệ thống tự chỉ huy.

Chương Trình Huấn Luyện

Ngành Chỉ Huy: Dù thời gian học tại quân trường là 2 năm, 18 tháng hay một năm thì các môn học chính vẫn như nhau, chỉ rút ngắn cho thích hợp với thời gian.

Giai đoạn 1: Sinh viên Sĩ Quan từ cầu vai đen đến Chuẩn Uý, phải hoàn tất các môn học như:

- Toán: Toán học đại cương

- Lượng giác hình học phẳng và lượng giác không gian (lượng giác cầu).

- Vận Chuyển: Thực tập và lý thuyết nhập môn.

- Ðiện từ trường

- Ðiện kỹ nghệ cấp 1

- Anh Văn và các môn phụ

- Căn bản quân sự, tháo ráp vũ khí nhẹ và thực hành tác xạ.

Giai-Ðoạn 2: Sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp Thiếu Uý gồm có các môn chính trong Hải Nghiệp như:

- Vận Chuyển lý thuyết

- Hàng Hải Thiên Văn

- Sức bền Vật Liệu

- Lý thuyết thuyền bè tầu nổi và tầu ngầm

- Cơ khí: Ðộng cơ nổ 2 thì và 4 thì

- Ðiện kỹ nghệ cấp 2

- Vận Chuyển Chiến Thuật

- Anh Văn và các môn phụ.

Ngành Cơ Khí: Các môn chính như sau:

- Ðộng cơ nổ 2 thì và 4 thì

- Ðộng cơ Diesel

- Ðiện kỹ nghệ

- Phòng Tai

- Sức bền vật liệu

- Lý thuyết thuyền bè áp dụng cho tầu nổi và tầu ngầm. Chú trọng nhiều về nguyên tắc và thực hành các loại động cơ.

- Các môn phụ như ngành Chỉ Huy, kể cả căn bản quân sự, tháo ráp vũ khí nhẹ và thực-hành tác-xạ.

Các Khóa Ngắn Hạn 6 tháng và 3 tháng

Các khóa Sĩ Quan Ðặc Biệt thì thời gian học 6 tháng nên chỉ học các môn chính của giai đoạn 2 trong Hải Nghiệp như Hàng Hải lý thuyết, Vận Chuyển lý thuyết, Khí Tượng, Vận Chuyển Chiến Thuật, một số môn phụ do Khối Văn Hóa Vụ chọn lựa và soạn thảo cho thích hợp với nhu cầu.

Các khóa 3 tháng của sinh viên Trường Võ-Bị Ðà-Lạt thì chú trọng các môn Hải Nghiệp như Vận Chuyển, Hành Hải lý thuyết và thực hành.

Chương Trình Thực Tập

Tùy theo thời gian học tại quân trường mà việc thực tập áp dụng khác nhau. Những khóa từ 18 tháng đến 2 năm thì thực tập hải hành trên chiến hạm nằm trong chương trình huấn luyện tại quân trường. Các khóa 1 năm thì sau khi mãn khóa được đi thực-tập OJT trên chiến hạm một năm.

Thi Mãn Khóa Và Chọn Thủ-Khoa

a- Hội Ðồng Chấm Thi: Trước khi một khóa sinh viên Sĩ Quan sắp đến giai đoạn mãn khóa, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm thông báo cho Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, Khối Quân Huấn tối thiểu trước 1 tháng để Bộ-Tư-Lệnh chỉ định hội đồng Giám Khảo. Hội Ðồng thi không thuộc thành phần cơ hữu của Trung Tâm như Chỉ Huy Trưởng, các Trưởng Khối Văn Hóa Vụ , Quân Sự Vụ và Giáo Sư các môn chính. Thành phần chủ động cuộc thi do Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ định gồm một vị Chánh Chủ Khảo và các vị Giám Khảo từ Saigon ra để chấm thi các môn chính: Vận Chuyển, Hàng Hải, Cơ Khí, Ðiện Khí, Truyền Tin, Khí Tượng.

Bài thi do Giáo Sư đương nhiệm của trường đề nghị mỗi môn 3 đề tài. Tất cả đề thi giao nạp cho Khối Văn Hoá Vụ. Khối Văn Hoá Vụ có nhiệm vụ đánh máy và bỏ vào bì niêm phong. Trước giờ thi môn nào, vị Chánh Chủ Khảo chọn một trong 3 phong bì đó và trao cho các vị Giám Khảo khui, phát cho sinh viên. Cuộc thi gồm cả lý thuyết, vấn đáp và thực hành.

b- Tính Ðiểm và Chọn Thủ Khoa: Ðiểm thi mãn khóa được tính chung là 100 hệ số.

Ngành Chỉ Huy:

- Vận Chuyển lý thuyết hệ số 25

- Hàng-Hải lý thuyết hệ-số 25.

Ngành Cơ Khí:

Có phương thức tính riêng cho ngành Kỹ Thuật cũng có 100 hệ-số.

- Các môn phụ và các điểm thi trong giai đoạn cũng như thực tập tính trung bình có 30 hệ-số.
- Ðiểm Chỉ Huy Trưởng sẽ cho sau cùng có 20 hệ-số.

c- Chọn Thủ khoa: Theo truyền thống, thủ khoa là một sinh viên cao điểm nhất của ngành Chỉ Huy. Sau khi có kết quả điểm thi mãn khóa các môn xong, ban Giám Khảo trao cho khối Văn Hóa Vụ để đúc kết và trình lên Hội Ðồng tuyển chọn sinh viên cao điểm nhất. Hội Ðồng gồm có Chỉ Huy Trưởng, Chánh Chủ Khảo, Trưởng Khối Quân Sự Vụ và Trưởng Khối Văn Hóa Vụ. Chỉ Huy Trưởng dựa vào hồ sơ quân kỹ, chấp hành nội qui, vóc dáng, tác phong, quân phục cũng như cách xưng hô khi trình diện. Sau đó theo nghi thức, Liên Ðoàn Sinh Viên cho những người cao điểm nhất trình diện Chỉ Huy Trưởng bằng quân phục đại lễ. Ðiểm của Chỉ Huy Trưởng sẽ quyết định là người sinh viên nào Thủ Khoa.

Các Khóa Sĩ Quan Hải-Quân

Hải-Quân Pháp trực tiếp Chỉ Huy và huấn luyện tại Việt-Nam từ khóa 1 đến khóa 6 Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam:

Khóa 1

Tổng số có 9 sinh viên<br</> *Ngành Chỉ Huy:
- Chung Tấn Cang
- Trần Văn Chơn
- Lê Quang Mỹ
- Trần Văn Phấn
- Hồ Tấn Quyền
- Lâm Ngươn Tánh
*Ngành Cơ Khí:
- Ðoàn Ngọc Bích
- Nguyễn Văn Lịch
- Lương Thanh Tùng.
Khóa 1 đầu năm 1952 được tuyển chọn từ Hàng Hải Thương Thuyền; ngoại trừ Lê Quang Mỹ là một Thiếu Úy Bộ-Binh. Khóa 1 gia nhập Hải-Quân Pháp, được thực tập Hải Nghiệp và phục vụ trên Hàng Không Mẫu Hạm ARROMANCHES tạm trú và huấn luyện, Khóa 1 mãn khóa ngày 1 tháng 10 năm 1952, cấp bậc Thiếu Úy; riêng sinh viên Lê Quang Mỹ được gắn cấp bậc Trung Úy.
Thủ khoa: Trần Văn Chơn.
Tất cả Sĩ Quan xuất thân khóa 1 đều giữ những chức vụ then chốt trong quân chủng Hải-Quân.

  • Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh cuối cùng của Hải-Quân
  • Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải-Quân hai nhiệm kỳ, bị Cộng Sản Việt-Nam cầm tù.
  • Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Hải-Quân.

Khóa 2

Tổng số 16 sinh viên, gồm 12 sinh viên ngành Chỉ Huy và 4 sinh viên ngành Cơ Khí, hầu hết được thi tuyển chọn từ Hàng Hải Thương Thuyền.Khóa sinh nhập trường ngày 1 tháng 11 năm 1952, thời gian thụ huấn 6 tháng. Chú trọng huấn luyện về căn bản quân sự, vũ khí, tác xạ, hải pháo và ôn tập Hải Nghiệp.

Khóa 2 mãn khóa tháng 5 năm 1953, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ Khoa: Ðinh Mạnh Hùng.

*Ngành Chỉ Huy:
- Ðặng Cần Chánh
- Ðỗ Quý Hợp
- Đinh Mạnh Hùng
- Ngô Khắc Luân
- Trương Ngọc Lực
- Nghiêm Văn Phú
- Phùng Nhật Tân
- Nguyễn Văn Thu
- Nguyễn Văn Trụ
*Ngành Cơ Khí:
- Võ Văn Chơn

- Nguyễn Văn Kính
- Nguyễn Hữu Tiễn
Khóa 2 có hai vị được vinh thăng Phó Đề Đốc:

  • Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành Quân Hành Quân Lưu-Động-Sông.
  • Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh cuối cùng của Lực Lượng Đặc Nhiệm Tuần-Thám.

Khóa 3

Tổng số 23 sinh viên gồm 19 ngành Chỉ Huy và 4 sinh viên ngành Cơ Khí, hầu hết được thi tuyển chọn từ Hàng Hải Thương Thuyền.Khóa sinh nhập trường tháng 7 năm 1953, thời gian thụ huấn 6 tháng, chú trọng huấn luyện về căn bản quân sự, vũ khí, tác xạ, hải pháo và ôn tập hải nghiệp.

Khóa 3 mãn khóa tháng 1 năm 1954, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngành chỉ huy: Nguyễn Văn Thông.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Trần Phước Dũ.

Khóa 3 có 4 vị được vinh thăng Phó Đề Đốc:

  • Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Tham Mưu Trưởng cuối cùng của Hải-Quân
  • Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, Tư Lệnh cuối cùng của Lực Lượng Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.
  • Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào, Tư Lệnh cuối cùng của Vùng III Duyên- Hải
  • Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu, Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang.

Khóa 4

Tổng số 15 sinh viên gồm 12 sinh viên ngành Chỉ Huy và 3 sinh viên ngành Cơ Khí, hầu hết được thi tuyển từ Hàng Hải Thương Thuyền.Khóa sinh nhập trường tháng 2 năm 1954, thời gian thụ huấn 10 tháng, chú trọng huấn luyện về căn bản quân sự, vũ khí, tác xạ, hải pháo và ôn tập hải nghiệp.

Khóa 4 mãn khóa tháng 12 năm 1954, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ Khoa ngành Chỉ Huy: Nguyễn Văn Ánh

Thủ Khoa ngành Cơ Khí: Lê Kim Sa

Khóa 4 có một vị được vinh thăng Phó Ðề Ðốc:

  • Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh cuối cùng của Vùng 1 Duyên-Hải kiêm Liên-Ðoàn Ðặc-Nhiệm 213.1. Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cũng là vị Sĩ Quan trực tiếp chỉ huy trận Hải Chiến Hoàng-Sa ngày 19-1-1974.

Khóa 5

Sĩ số 23 sinh viên ngành Chỉ Huy, đa số xuất thân từ Hàng Hải Thương Thuyền và một số được chọn qua cuộc thi tuyển ngoài dân sự.Khóa 5 nhập trường ngày 27 tháng 7 năm 1954, thời gian thụ huấn 10 tháng, chú trọng huấn luyện về căn bản quân sự, vũ khí, tác xạ, hải pháo thực hành, hang hải cận duyên, viễn duyên, vận chuyển và ôn tập hải nghiệp.

Khóa 5 mãn khóa tháng 5 năm 1955, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ-Khoa: Nguyễn Viết Tân.

Khóa 5 có một vị được vinh thăng Phó Ðề Ðốc:

  • Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân cuối cùng của Vùng 2 Duyên Hải kiêm Liên Ðoàn Ðặc-Nhiệm 213.2, kiêm Tổng Trấn Qui-Nhơn.

Khóa 6

Sĩ số 21 sinh viên gồm 16 sinh viên ngành Chỉ Huy và 5 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa 6 nhập trường ngày 21 tháng 4 năm 1955, thời gian thụ huấn là 11 tháng, chú trọng huấn luyện về căn bản quân sự, vũ khí, tác xạ, hải pháo thực hành, hàng hải cận duyên, viễn duyên, vận chuyển và ôn tập hải nghiệp.

Khóa 6 mãn khóa ngày 8 tháng 3 năm 1956, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ Khoa ngành chỉ huy: Bùi Huy Phong.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Nguyễn Văn Tần.

Tên Các Chòm Sao

Sau khi Hải-Quân Pháp chuyển giao Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân cho Hải-Quân Việt-Nam, ngoài số thứ tự còn có tên riêng của mỗi khóa. Mỗi tên tượng trưng cho một chòm sao.
Thời đại văn minh tiến bộ như hiện nay dù có vệ tinh theo dõi, nhưng căn bản của việc định vị trí trên biển bằng các tinh tú, Sĩ Quan Hải-Quân vẫn phải học, vẫn phải biết. Ðó cũng là một niềm vui mà cũng là một nghệ thuật vừa áp dụng toán học cũng như kinh nghiệm trong ngành hàng hải.

Trong vũ trụ, ngoài Thái Dương Hệ, chúng ta quan sát thấy có những chòm sao kết hợp với nhau thành những hình dạng gần như không thay đổi, xuất hiện trên bầu trời tùy theo ngày, giờ và vị trí của người nhìn. Ðó cũng là những mục tiêu của chúng ta dùng để xác định vị trí con tầu.

Theo toán học không gian, trái đất tạm xem như là trung tâm điểm của Vũ Trụ hình cầu. Mặt Trời di chuyển giáp vòng trên Hoàng Ðạo (Ecliptic) trong thời gian là 365 ngày 1/4 (một năm), đi qua 12 chòm sao nằm dọc theo vòng cung lớn. Các chòm sao này tạo thành 12 con giáp (Zodiac) của khoa chiêm tinh học Tây Phương như sau:

- Bảo-Bình (Verseau hay Aquarius: từ 21 tháng 1 đến 19 tháng 2)

- Song-Ngư (Poissons hay Pisces: từ 20 tháng 2 đến 20 tháng 3)

- Dương-Cưu (Bélier hay Aries: từ 21 tháng 3 đến 20 tháng 4)

- Kim-Ngưu (Taureau hay Taurus: từ 21 tháng 4 đến 20 tháng 5)

- Song-Nam (Gémeaux hay Gemini: từ 21 tháng 5 đến 21 tháng 6)

- Bắc-Giải (Cancer: từ 22 tháng 06 đến 22 tháng 07)

- Hải-Sư (Lion hay Leo: từ 23 tháng 07 đến 23 tháng 08)

- Xử-Nữ (Vierge hay Vergo: từ 24 tháng 08 đến 22 tháng 09)

-Thiên-Xứng (Balance hay Libra: từ 23 tháng 09 đến 23 tháng 10)

- Hổ-Cáp (Scorpion hay Scorpius: từ 24 tháng 10 đến 22 tháng 11)

- Nhân-Mã (Sagittaire hay Sagittarius: từ 23 tháng 11 đến 21 tháng 12)

- Nam-Dương (Capricorne hay Capricornus:Từ 22 tháng 12 đến 20 tháng 1)

Các chòm sao được xếp thứ tự ngày tháng theo khoa Tử Vi Tây Phương. Ðầu tiên là Bảo Bình và cuối cùng là Nam Dương. Tuy nhiên trong Hàng Hải Thiên Văn, Hoàng Ðạo và Xích Ðạo hợp với nhau một góc nghiêng là 23 độ 27 phút. Hai vòng tròn đó cắt nhau tại 2 điểm "Gamma" và "Gamma" ta gọi là Xuân Phân và Thu Phân. Vòng khởi điểm được tính lúc mặt trời đi từ "Gamma" và trở về lại là một năm.

Ngày 21 tháng 3 Dương Lịch hằng năm là lúc mặt trời đi qua điểm xuất phát, cũng là vùng có chòm sao Dương Cưu nên được coi như số 1 và mặt trời mỗi tháng chiếm một cung. Khi mặt trời đi giáp vòng thì đến chòm sao Song Ngư là số 12. Căn cứ vào số thứ tự các chòm sao ở trên để đặt tên cho mỗi khóa.

Khóa 7 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang, lúc này vị Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên là Hải-Quân Thiếu Tá Lê Quang Mỹ. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân là Hải-Quân Ðại Uý Chung Tấn Cang. Giám Ðốc Trường Sinh Viên Sĩ Quan là Hải-Quân là Ðại Uý Nguyễn Ðức Vân.

Dù Pháp đã chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam nhưng Giáo Sư và Huấn Luyện Viên vẫn là người Pháp. Ngoại trừ căn bản quân sự và vũ khí nhẹ thì do Huấn Luyện Viên Việt-Nam phụ trách.

Ðến tháng 5 năm 1957 tất cả Sĩ Quan và Huấn Luyện Viên Pháp cuối cùng rời quân Trường. Khóa 7 được đặt tên Ðệ Nhất Thiên-Xứng, đó là chòm sao số 7. Các khóa kế tiếp cứ thế mà tính theo thứ tự 12 con giáp.

Khóa 7: Ðệ Nhất Thiên-Xứng

Tổng số 46 sinh viên gồm 29 sinh viên ngành Chỉ Huy và 17 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường tháng 1 năm 1956, thời gian thụ huấn 20 tháng.

Khóa 7 mãn khóa tháng 7 năm 1957, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Nguyễn Văn Thiện.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Thiếu Úy Ðoàn Văn Tiếng.

Khóa 8: Ðệ Nhất Hổ-Cáp

Sĩ số 50 sinh viên gồm 40 sinh viên ngành Chỉ Huy và 10 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường ngày 6 tháng 1 năm 1958, thời gian thụ huấn 2 năm.

Khóa 8 mãn khóa ngày 1 tháng 4 năm 1960, cấp bậc Thiếu Uý.

Khóa 8 là khóa đầu tiên do Giáo Sư và Huấn Luyện Viên người Việt-Nam hoàn toàn đảm trách.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Trịnh Tiến Hùng.

Thủ khoa Cơ Khí: Nguyễn Văn Niệm.

Khóa 9: Ðệ Nhất Nhân-Mã

Tổng số 38 sinh viên gồm 29 sinh viên ngành Chỉ Huy và 9 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa 9 nhập trường tháng 3 năm 1959, thời gian thụ huấn 2 năm.

Khóa 9 mãn khóa tháng 5 năm 1961, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Hà Ngọc Lương.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Mai Văn Hoa.

Khóa 10: Ðệ Nhất Nam-Dương

Tổng số 55 sinh viên ngành Chỉ Huy. Khóa sinh nhập trường tháng 7 năm 1960, thời gian huấn luyện 2 năm.

Khóa 10 ra trường ngày 14 tháng 7 năm 1962, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ Khoa: Lê Bá Thông.

  • Hải-Quân Trung Tá Lê Văn Thự, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ 16, trực tiếp tham chiến trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974, xuất thân từ khóa này.

Khóa 11: Ðệ Nhất Bảo-Bình

Tổng số 82 sinh viên ngành Chỉ Huy.Khóa sinh nhập trường 1- 9-1961, thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 11 ra trường ngày 14- 4-1963, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ Khoa: Trần Quang Thiệu.

  • Hải-Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ 4, trực tiếp tham dự trận Hải Chiến Hoàng-Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974, xuất thân từ khóa này.
  • Hải-Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ 5, trực tiếp tham dự trận hải chiến Hoàng-Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974, xuất thân từ khóa này.

Khóa 12: Ðệ Nhất Song-Ngư

Tổng số 103 sinh viên ngành Chỉ Huy.Khóa 12 nhập trường ngày 13 tháng 8 năm 1962, thời gia thụ huấn 18 tháng.

Khóa 12 ra trường tháng 3 năm 1964, cấp Thiếu Uý.

Thủ Khoa: Trần Trọng Ngà.

  • Hải-Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ 10, hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 – được truy thăng Trung Tá – xuất thân từ khóa này.
  • Hải-Quân Thiếu Tá Đặng Hữu Thân – sau ngày 30-4-1975 đã thành lập Mặt Trận Dân Quân Cứu Quốc, chống lại bạo quyền Cộng Sản. Ông bị Cộng Sản Việt-Nam bắt và xử bắn, năm 1980 – xuất thân từ khóa này.
  • Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Thìn tức nhạc sĩ Trường Sa, xuất thân từ khóa này.

Khóa 13: Ðệ Nhị Dương-Cưu

Tổng số 115 sinh viên ngành Chỉ Huy. Khóa sinh nhập trường tháng 5 năm 1963, thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 13 ra trường tháng 12 năm 1964, cấp bậc Thiếu Uý.

Đặc biệt khóa 13, ngoài số Sinh Viên tân tuyển còn có 7 Sĩ Quan đã tốt nghiệp khóa 16 trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt ngày 22 tháng 12 năm 1962. Khi khóa 13 ra trường thì 7 Sĩ Quan khóa 16 Đà-Lạt cũng đến ngày thăng cấp Hải-Quân Trung Úy hiện dịch và đầu năm 1965 thì Nghị Ðịnh được ban hành.

Khoá 14: Ðệ Nhị Kim-Ngưu

Tổng số 100 sinh viên gồm 80 sinh viên ngành Chỉ Huy và 20 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường tháng 4 năm 1964. Thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 14 mãn khóa tháng 12 năm 1965, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Trương Minh Hoàng.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Thiếu Úy Trịnh Long Hải.

  • Hải-Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 43 Ngăn-Chặn thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 214, tuẩn tiết trên một chiến đĩnh tại Kinh Thủ-Thừa tỉnh Long-An, khuya 30 tháng Tư rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975, xuất thân từ khóa này.(Muốn biết thêm chi tiết, xin đọc Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh)

Khóa 15: Ðệ Nhị Song-Nam

Tổng số 108 sinh viên gồm 88 sinh viên ngành Chỉ Huy và 20 sinh viên ngành Cơ Khí. Khóa sinh nhập trường tháng 11 năm 1964. Thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 15 mãn khóa tháng 7 năm 1966, cấp bậc Thiếu Uý trừ.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Nguyễn Thành Lộc.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Trần Chí Hoạt.

  • Hải-Quân Ðại Úy Ngô Minh Dương, Hạm Trưởng Tuần Duyên Hạm Minh Hoa, HQ 602 – vào thời gian sôi động của sáng 30-4-1975, đã bị Thiếu Úy xử lý thưởng vu Hạm Phó cùng nhóm người quá giang từ Singapore sát hại rồi đem chiến hạm về giao cho Việt-Cộng – xuất thân từ khóa này. (Muốn biết thêm chi tiết, mời đọc Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh)

Tổng số 134 sinh viên gồm 104 sinh viên ngành Chỉ Huy và 30 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường tháng 1 năm 1966. Thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 16 mãn khóa tháng 7 năm 1967, cấp bậc ThiếuUý.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Lý Ngoc Ẩn.

Thủ khoa ngành Cơ Khí: Thiếu Úy Phạm Huy Hy.

Khóa 17: Ðệ Nhị Hải-Sưhai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 136 sinh viên gồm 103 sinh viên ngành Chỉ Huy và 33 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường tháng 8 năm 1966. Thời gian thụ huấn 18 tháng.

Khóa 17 mãn khóa tháng 8 năm 1968, cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngàng Chỉ Huy: Trần Ngọc Ðiển.

p>Thủ khoa ngành Cơ Khí: Trần Vĩnh Tuấn.

Khóa 17 năm thứ hai gặp lúc biến cố Tết Mậu Thân cho nên thời gian học bị kéo dài thành ra 2 năm.

Khóa 18: Ðệ Nhị Xử-Nữ hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 95 sinh viên gồm 75 sinh viên ngành Chỉ Huy và 20 sinh viên ngành Cơ Khí.

Khóa sinh nhập trường tháng 9 năm 1967. Thời gian thụ huấn 22 tháng.

Khóa 18 mãn khóa ngày 14 tháng 7 năm 1969, cấp bậc Thiếu Úy.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Trần Anh Tuấn.

Thủ Khoa ngành Cơ Khí: Bùi Ngọc Anh.

Khóa 18 năm đầu gặp lúc biến cố tết Mậu Thân cho nên thời gian học cũng bị kéo dài thành ra 22 tháng.

Khóa 19: Ðệ Nhị Thiên-Xứng hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 272 sinh viên gồm 192 sinh viên ngành Chỉ Huy và 80 sinh viên ngành Cơ Khí.

Sinh viên nhập trường từ tháng 10 năm 1968 nhưng mãi đến ngày 19 tháng 2 năm 1969 mới chính thức khai giảng khóa học. Thời gian thụ huấn 1 năm. Ðây là khóa đầu tiên trong chương trình ACTOV. (Accelerated Turn Over to Vietnam)

Khóa 19 mãn khóa vào ngày 21 tháng 2 năm 1970, cấp bậc Chuẩn Uý. Sau một năm thực tập OJT sẽ mang cấp bậc Thiếu Uý.

Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Lê Văn Từ.

Thủ Khoa Cơ Khí: Ðỗ Khắc Mạnh.

Khóa 20: Ðệ Nhị Hổ-Cáp hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 270 sinh viên gồm 200 sinh viên ngành Chỉ Huy và 70 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường ngày 17 tháng 8 năm 1969. Thời gian thụ huấn 1 năm.
Khóa 20 mãn khóa ngày 17 tháng 8 năm 1970, cấp bậc Chuẩn Uý. Sau một năm thực tập OJT sẽ mang cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Lưu Ðức Huyến.
Thủ khoa ngành Cơ Khí: Lê Vĩnh Hiệp.

Khóa 21: Ðệ Nhị Nhân-Mã hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 269 sinh viên gồm 135 sinh viên ngành Chỉ Huy và 134 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường ngày 4 tháng 3 năm 1970. Thời gian thụ huấn 1 năm.
Khóa 21 mãn khóa ngày 20 tháng 3 năm 1971, cấp bậc Chuẩn Uý. Sau một năm thực tập OJT sẽ mang cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Phạm Ðức Lai.
Thủ khoa Cơ Khí: Lê Tất Chánh.

Khóa 22: Ðệ Nhị Nam Dương

Tổng số 248 sinh viên gồm 124 sinh viên ngành Chỉ Huy và 124 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường tháng 9 năm 1970. Thời gian thụ huấn 1 năm.
Khóa 22 mãn khóa ngày 11 tháng 9 năm 1971, cấp bậc Chuẩn Uý.
Sau một năm thực tập OJT sẽ mang cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Nguyễn Tấn Khải.
Thủ khoa ngành Cơ Khí:Nguyễn Thanh.

Khóa 23: Ðệ Nhị Bảo-Bình hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 282 sinh viên gồm 140 sinh viên ngành Chỉ Huy và 140 sinh viên ngành Cơ Khí.Khóa sinh nhập trường ngày 14 tháng 4 năm 1971. Thời gian thụ huấn 1 năm. Ðây là khóa cuối trong chương trình ACTOV.
Khóa 23 mãn khóa ngày 15 tháng 4 năm 1972, cấp bậc Chuẩn Uý. Sau một năm thực tập OJT sẽ mang cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa ngành Chỉ Huy: Nguyễn Công Minh.
Thủ khoa ngành Cơ Khí: Nguyễn Thế Hùng.

Khóa 24: Ðệ Nhị Song-Ngư hai quan ra khoi-chuong 3

Tổng số 279 sinh viên ngành Chỉ Huy. Khóa sinh nhập trường ngày 28 tháng 9 năm 1971.
Khóa 24 mãn khóa ngày 1 tháng 9 năm 1973, cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa: Trần Văn Thuận.

Khóa 25: Ðệ Tam Dương-Cưu
Tổng số 186 sinh viên ngành Chỉ Huy. Khóa sinh nhập trường ngày 15 tháng 11 năm 1972. Thời gian thụ huấn 2 năm.
Khóa 25 mãn khóa ngày 3 tháng 9 năm 1974, cấp bậc Thiếu Uý.
Thủ khoa: Nguyễn Chí Thành.

Khóa 26: Ðệ Tam Kim-Ngưu hai quan ra khoi-chuong 3
Tổng số 182 sinh viên ngành Chỉ Huy.
Khóa 26 nhập trường tháng 8 năm 1973. Thời gian thụ huấn 2 năm.
Tháng 10 năm 1974 thi mãn giai đoạn 1 mang cấp bậc Chuẩn Uý. Dự tính sẽ thi mãn khóa vào tháng 8 năm 1975, nhưng không thành.

Nguyễn Tấn Ðơn
(Tài liệu trên Internet)

 

SĨ QUAN ĐẶC BIỆT HẢI-QUÂN NHA-TRANG

hai quan ra khoi-chuong 3

Phạm Viết Khiết
Thủ khoa khóa 1 Đặc Biệt đang nhận bằng tốt nghiệp

Đầu năm 1972 Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang khai giảng khóa I Đặc Biệt Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang và kết thúc ở khóa V Đặc Biệt.

Tên của 5 khóa Sĩ Quan Đặc Biệt:
- Khóa 1 Đặc Biệt: Thủy Tinh (Mercury)
- Khóa 2 Đặc Biệt: Kim Tinh (Venus)
- Khóa 3 Đặc Biệt: Hỏa Tinh (Mars)
- Khóa 4 Đặc Biệt: Mộc Tinh (Jupiter)
- Khóa 5 Đặc Biệt: Thổ Tinh (Saturn).

Các khoá Sĩ Quan Đặc Biệt này nhằm mục đích bổ túc Hải Nghiệp cho những Sĩ Quan Hải-Quân chưa thụ huấn qua một khóa Hải Nghiệp nào, trong hoặc ngoài nước. Những Sĩ Quan chưa học Hải Nghiệp được gọi là Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh (Chiến Binh viết tắt CB). Các Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt này gồm nhiều thành phần Sĩ Quan xuất thân khác nhau. Nhưng đa số khóa sinh là những cựu sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân đã tốt nghiệp căn bản Sĩ Quan Lục-Quân. Theo học các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt này còn có một số Sĩ Quan khóa 22B, 23 và 24 Sĩ Quan hiện dịch của trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt tình nguyện sang Hải-Quân và các Sĩ Quan trừ bị Thủ-Đức được Bộ-Tư- Lệnh Hải-Quân tuyển mộ. Ngoài ra còn có một số ít khóa sinh từng là những Sĩ Quan Hải-Quân đã phục vụ lâu năm trong Hải-Quân.
Khóa 1 Đặc Biệt có 2 Sĩ Quan Biên tập viên cải ngạch sang Giang-Cảnh và khóa 2 Đặc Biệt có 2 Sĩ Quan cấp Úy (1 Đại Úy, 1 Thiếu Úy ) của Quân-Vận theo học

SĨ QUAN ĐẶC BIỆT HẢI-QUÂN NHA-TRANG XUẤT THÂN TỪ HẢI-QUÂN:

Sĩ Quan Hải-Quân Đặc Biệt gốc Hải-Quân chính là những cựu sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân tình nguyện vào Hải-Quân thuộc các khóa 20a, 21, 22 Hải-Quân Nha-Trang được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tuyển mộ năm 1969.

Năm 1969
• Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 20 nhập khóa ở Quân Trường Hải- Quân Nha-Trang mà vẫn không còn đủ chổ trống cho nên một số sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 20 đang thực tập trên tàu biển phải đi học tại hai quân trường Bộ-Binh Đồng-Đế và Thủ-Đức.
• Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 sau đổi tên lại là Tiểu Đoàn Trần Hưng Đạo được gởi học Anh ngữ đủ điểm đi Mỹ học tại trường O.C.S. một số nhỏ bị loại, đi học quân trường Bộ-Binh Thủ-Đức.
• Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 22 được gởi đi học khóa 6/69 trường Bộ-Binh Thủ-Đức.
Trong năm 1969 Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã giải quyết xong trên cả ngàn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân, gởi họ đến các Quân Trường Bộ-Binh thụ huấn để trở thành Sĩ Quan Hải-Quân – nhưng chưa có Hải Nghiệp nên gọi là Sĩ Quan Chiến-Binh. Ra trường, những Sĩ Quan này mang tên khóa của trường đã đào tạo họ thành Sĩ Quan để phân biệt khóa trước, khóa sau như: 6/69 Thủ-Đức, 6/69 Đồng-Đế, 1/70 2/70 3/70 Thủ-Đức, v.v...Không còn ai thuộc sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 20, 21, 22 nữa.

Năm 1970: Sau 1 năm Quân Trường Hải-Quân Nha-Trang đã có chỗ trống (Khóa 19 ra trường, khóa 20 còn đang học) khóa kế tiếp để trám vào chổ trống sẽ là khóa 21 và Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã dùng lại danh xưng sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 – lần thứ 2 – để tuyển mộ. Đây chính là giải thích chi tiết kỳ lạ tại sao sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 22 lại thâm niên hơn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 lần thứ 2 này, nhưng không phải tất cả sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 này được nhận hết vào khóa 21 Hải-Quân Nha-Trang, mà đã chia ra 3 nhóm y như năm 1969, gởi đi thụ huấn ở các quân trường khác nhau như: Khóa 21 Hải-Quân Nha-Trang, khóa O.C.S. khóa 1/70 Thủ-Đức, 2/70....3/70 Thủ-Đức…

Từ khóa 22 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang trở về sau thì khi tình nguyện vào Hải-Quân sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân của khóa nào thì được ra Quân Trường Hải-Quân Nha-Trang học đúng khóa đó. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân không còn gởi sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân đi học ở các Quân Trường Bộ- Binh nữa .Quân chủng Hải-Quân đã hoàn thành kế hoạch hóa chiến tranh Việt-Nam sớm nhất trong QL/VNCH].

Quá trình quân ngũ của Sĩ Quan gốc Hải-Quân đã trải qua 4 giai đoạn huấn luyện và phục vụ như sau:
- Giai đoạn 1: Dự tuyển vào Hải-Quân và được gởi thụ huấn Căn Bản Quân Sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung 3 tháng. Điều kiện được tuyển chọn cũng như tuyển chọn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân của các khóa khác: có sức khỏe và trình độ văn hóa từ Tú Tài Toàn Phần (Tú Tài II) ban Toán ( Ban B) hay Tú Tài II Kỹ Thuật trở lên.
- Giai đoạn 2: Thụ huấn Kỹ Thuật Tác Chiến Bộ-Binh và Lãnh Đạo Chỉ Huy tại các trường huấn luyện Sĩ Quan Bộ-Binh như Thủ-Đức và Đồng-Đế, thời gian 6 tháng. Sau khi tốt nghiệp trở về Hải-Quân được mang cấp bậc Hải-Quân Chuẩn Úy CB (Chiến Binh).
- Giai đoạn 3: Sau khi tốt nghiệp giai đoạn 2, các tân Sĩ Quan được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân bổ xung về các đơn vị bờ, các Trung Tâm Huấn Luyện, Căn Cứ, Duyên Đoàn, Giang Đoàn, và những đơn vị tác chiến, v.v... Thời gian phục vụ trên dưới 2 năm.
- Giai đoạn 4: Bổ túc Hải Nghiệp tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang trong thời hạn 6 tháng. Sau khi tốt nghiệp, Sĩ Quan Đặc Biệt trở thành Sĩ Quan Hải-Quân ngành Chỉ Huy. Một đặc điểm đáng nêu lên là tất cả Sĩ Quan Hải-Quân Đặc Biệt, sau khi tốt nghiệp đều được đưa đi phục vụ các đơn vị biển như Hạm-Đội và Hải-Đội Duyên-Phòng.

Như vậy một Sĩ Quan Đặc Biệt Hải-Quân Nha-Trang có 2 văn bằng tốt nghiệp do bộ Quốc Phòng cấp:
- Văn Bằng Tốt Nghiệp Sĩ Quan Bộ-Binh
- Văn Bằng Tốt Nghiệp Sĩ Quan Hải-Quân Ngành Chỉ Huy (Nghi định số 210/QP/NĐ của Bộ Quốc Phòng V.N.C.H.)

CHI TIẾT VỀ SINH VIÊN KHÓA 21 VÀ SINH VIÊN KHÓA 22

SĨ QUAN HẢI-QUÂN

Cuối năm 1969 Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã gởi một số sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 22 đến quân trường Thủ-Đức và Đồng-Đế theo học khóa 6/69 Sĩ Quan trừ bị Bộ-Binh .

Cuối tháng 3 năm 1970 Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tiếp tục gởi một số sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 đến quân trường Thủ-Đức theo học khóa 1/70 Sĩ Quan trừ bị Bộ-Binh. Những sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân được gởi học tại Quân Trường Thủ-Đức không phải đi chiến dịch nên sớm rời quân trường trở về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 22 ra trường khóa 6/69 Sĩ Quan Thủ-Đức

Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 ra trường khóa 1/70 Sĩ Quan Thủ- Đức vào trung tuần tháng 7 năm 1970.

KẾ HOẠCH ACTOV( Accelerated Turn Over Vietnam)

Kể từ năm 1969 chính phủ Hoa-Kỳ bắt đầu thực thi kế hoạch ACTOV nhằm mục đích gia tăng quân số Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa để có đủ khả năng bảo vệ miền Nam Việt-Nam. Quân Đội V.N.C.H. sẽ từ từ thay thế quân đội đồng minh theo kế hoạch hóa chiến tranh. Do đó nhu cầu quân số cũng như huấn luyện từ cấp Sĩ Quan đến Binh Sĩ đã được cấp bách soạn thảo và thi hành. Kế hoạch Việt-Nam hóa áp dụng cho toàn Quân Binh Chủng Hải Lục Không Quân thuộc Q.L.V.N.C.H.

Riêng quân chủng Hải-Quân, quân đội Hoa-Kỳ bắt đầu bàn giao nhiều Tuần Duyên Đĩnh WPB (lực lượng Coast Guard của Hoa-Kỳ), Khinh Tốc Đĩnh (PCF) các Giang-Đoàn, Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận cùng lúc chuyển giao nhiều chiến hạm lớn như Khu Trục Hạm (DER) và Tuần Dương Hạm (WHEC). Bởi thế số lượng Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên Hải-Quân thiếu hụt trầm trọng vào thời điểm này.

Trước nhu cầu cấp bách về quân số, nhất là Sĩ Quan Chỉ Huy, trưởng toán, chuyên viên kỹ thuật, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân phải tuyển mộ ồ ạt sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân và đồng thời đào tạo cấp tốc một số sinh viên tân tuyển trở thành Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh trong thời gian ngắn nhất – không cần kiến thức về hải hành – để kịp bổ xung đến các Căn Cứ, Bộ-Tư-Lệnh Vùng, Duyên-Đoàn, Giang-Đoàn tân lập là những đơn vị không đòi hỏi về chuyên môn Hải Nghiệp. Cùng lúc, cuộc chiến sông ngòi đang sôi động, nhu cầu Sĩ Quan Trưởng Toán giang đỉnh và Sĩ Quan kỹ thuật lại càng trở nên cấp bách hơn.

Cho đến cuối năm 1969 Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã tuyển mộ được gần hàng nghìn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân. Vào thời điểm này Trung Tâm Huấn Luyện Nha-Trang có 2 khóa đang thụ huấn: khóa 19 và khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân.

Tại Trung Tâm Tạm Trú Bạch Đằng II Saìgòn, tân khóa sinh càng ngày càng ứ động. Vì thế phải đưa một số khóa sinh xuống tạp dịch trên các chiến hạm. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tiếp tục khai triễn kế hoạch đào tạo cấp bách Sĩ Quan Hải-Quân kịp thời cho kế hoạch Việt-Nam hóa chiến tranh. Do đó, cuối năm 1969 lần lượt nhiều đợt khóa sinh được đưa lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung thụ huấn căn bản quân sự.

Khóa đầu tiên đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung học căn bản quân sự là khóa 19 sĩ quan Hải-Quân. Tiếp đến là khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân. Sau khóa 20, vào cuối năm 1969, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tiếp tục đưa lên Quang-Trung hàng trăm khóa sinh thuộc khóa 22 sinh viên Sĩ Quan.

Ngay sau khi mãn khóa tại Quang-Trung, số sinh viên khóa 22 Sĩ Quan Hải-Quân này được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đưa thẳng lên trường Bộ-Binh Thủ- Đức và Đồng-Đế. Đây là khóa đầu tiên mà Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đưa sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân đến trường Bộ-Binh đào tạo Sĩ Quan với số lượng trên hằng trăm sinh viên.

Ngày 30/12/1969, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đưa tất cả sinh viên khóa 21 Sĩ Quan Hải-Quân, tổng số 530 sinh viên, lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung.

Song song với việc đưa sinh viên đến các quân trường Bộ-Binh để được huấn luyện Căn Bản Quân Sự và tác chiến Bộ-Binh, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân còn tuyển khóa sinh có trình độ Anh Ngữ khá từ các khóa 20, 21, 22 Sĩ Quan Hải-Quân sau khi họ đã học xong giai đoạn Căn Bản Quân Sự tại Quang-Trung để gởi thụ huấn Hải Nghiệp ngắn hạn – 6 tháng – tại các trường Hải-Quân của Hoa-Kỳ và Úc (Officer Candidate School) được gọi tắt là Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S.

 

SINH VIÊN SĨ QUAN HẢI-QUÂN ĐỤƠC GỬI ĐẾN CÁC QUÂN TRƯỜNG BỘ-BINH

Đợt đầu tiên theo học khóa 6/69 Thủ Đức:

Có 202 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 22, trong số này có 13 sinh viên thuộc khóa 20 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân và 9 sinh viên còn đang theo tạp dịch trên các chiến hạm đang hoạt động ngoài vùng công tác không về kịp để nhập học khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang.

Tại trường Bộ-Binh Thủ-Đức, trong lúc di hành ra bãi tập ngang qua cầu Bến Nọc có một Đại Đội sinh viên (Đại Đội 42) bị Việt Cộng gài claymore, phục kích, gây tử thương cho một sinh viên khóa 6/69 và 3 sinh viên khóa 6/69 bị thương.

Khóa 6/69 có 2 sinh viên Sĩ Quan không tốt nghiệp vì phạm kỹ luật, phải ra trường với cấp bậc Thượng Sĩ Chiến Binh. Sau đó 2 vị này trở về học khóa 23 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang.

Khóa 6/69 Đồng Đế có 50 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân theo học.

Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân cũng tuyển thêm 35 Sĩ Quan Bộ-Binh vừa tốt nghiệp khóa 6/69 Thủ-Đức sang Hải-Quân; hơn phân nửa số Sĩ Quan Bộ-Binh này được về Liên Đoàn Người Nhái.

Sĩ Quan Hải-Quân theo học khóa 6/69 Thủ-Đức và Đồng-Đế ra trường mang cấp bậc Hải-Quân Chuẩn Úy Chiến Binh, sau khóa 19 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang 2 tháng và trước khóa 20 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang 4 tháng.

Danh xưng "Hải-Quân Lưu Đày" (viết tắt HQLĐ) do những sinh viên Hải-Quân như: Phạm Thái Hoàng, Võ Văn Màng, Trần Hùng Cận – Trần Hùng Cận tử trận vào tháng 4 năm 1975 tại cửa Bồ Đề, Cà Mau, trên HQ 401 – khởi xướng. Tiếp theo danh xưng này được truyền khẩu qua các sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khác và sinh viên các khóa sau. Phần đông sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân được đưa đến quân trường Bộ-Binh đều chấp nhận danh xưng “Hải-Quân Lưu Đày” một cách dễ dàng bởi vì hầu hết sinh viên Hải-Quân lúc bấy giờ không ai hiểu được mục đích của Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đưa sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân đi học trường Bộ-Binh!

Đợt thứ hai theo học khóa 1/70 Thủ-Đức:

Ngày 30 tháng 12 năm 1969 Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đưa 530 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân khóa 21 lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung – gồm 3 Đại Đội: 18C, 19D, và 20E của Tiểu Đoàn Trưong Tấn Bữu, liên đoàn B. Sau khi mãn khóa tại Quang-Trung, sinh viên khóa 21 Sĩ Quan Hải-Quân có 86 sinh viên trở về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân học bổ túc Anh Ngữ, chuẩn bị du học trường Sĩ Quan O.C.S. tại Hoa-Kỳ; 286 sinh viên được đưa ra Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang để thụ huấn khóa 21 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang – khóa đệ nhị Nhân Mã; còn lại 176 Sinh Viên Sĩ Quan Hải-Quân được gởi theo học khóa 1/70 Sĩ Quan Bộ-Binh Thủ-Đức

Mặc dù đã tuyển mộ sinh viên Sĩ quan Hải-Quân ồ ạt và lấy thêm sĩ quan vừa tốt nghiệp từ Thủ-Đức và Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt sang, nhưng nhu cầu Sĩ Quan Hải-Quân vẫn chưa được đáp ứng. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân phải gởi tiếp một số tân khóa sinh còn đang tạm trú tại Trung Tâm Tạm Trú Bạch-Đằng II lần lượt đến các khóa 2/70 ,3/70 và 4/70 Thủ-Đức nhưng với quân số ít hơn khóa 6/69 và 1/70.

SĨ QUAN HẢI-QUÂN CHIẾN BINH

Sĩ Quan Hải-Quân sau khi tốt nghiệp từ các quân trường Bộ-Binh trở về Hải-Quân mang cấp bậc Hải-Quân Chuẩn Úy Chiến Binh và được điều động về các đơn vị không cần kiến thức Hải Nghiêp như: Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng, Căn-Cứ, Duyên-Đoàn, Hải-Quân Công Xưởng, các đơn vị Yểm Trợ Tiếp Vận như Căn-Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Sửa Chữa, Tiền Doanh hay Tiền Phương Yểm Trợ và đông nhất là các đơn vị tác chiến sông ngòi.

Riêng sinh viên khóa 22 Sĩ Quan Hải-Quân học khóa 6/69 Thủ-Đúc có đến 96 Sĩ Quan Hải-Quân xuất thân từ các trường Kỹ Thuật Cao-Thắng Saigon, Vĩnh-Long, Đà-Nẳng, Qui-Nhơn v.v... cho nên những tân Sĩ Quan này được trực tiếp thuyên chuyển về các đơn vị Yểm Trợ Tiếp Vận sửa chữa.

Vào đầu thập niên 70, những đơn vị khác như: Giang-Đoàn Thủy-Bộ, Tuần-Thám, Ngăn-Chận, Trục-Lôi, Xung-Phong, Hộ-Tống, Tác Chiến Điện Tử, Xung-Kích Hải-Quân, Duyên-Đoàn và Liên Đội Người Nhái, v.v…có Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh tân đáo đông đảo nhất.

Đặc biệt, rất nhiều vị thuộc các khóa Sĩ Quan Hải Quân Chiến Binh tốt nghiệp Cử Nhân hoặc sắp xong Đại Học Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa cho nên sau khi tốt nghiệp Sĩ Quan Bộ-Binh nhiều vị được bổ nhiệm về Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Saigon, Nha-Trang, Cam-Ranh làm Sĩ Quan Cán Bộ, như: Nguyễn Kim Sa, Giang Hữu Tuyên, Nguyễn Hữu Lễ, Bùi Thọ Xung, Phạm Viêt Khiết, Đổ ngọc Thành v.v...

Nhiều Sĩ Quan Đặc Biệt được đi học các ngành chuyên môn như: An Ninh, Tình Báo, Không Ảnh,Chiến Tranh Chính Trị, Tiếp Liệu, Truyền Tin v.v... Đồng thời cũng có nhiều Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh trở về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tái dự tuyển Anh ngữ để đi học khóa Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S. và Sĩ Quan Người Nhái tại Hoa-Kỳ.

Sĩ Quan Hải Quân Chiến Binh xuất thân từ Thủ-Đức, Đồng-Đế, Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt chẳng những là một lực lượng quan trọng cho quân chủng Hải-Quân vào giai đoạn bành trướng mà những Sĩ Quan này còn là thành phần cần thiết để đáp ứng nhu cầu chiến trường trong sông rạch và duyên hải.

Với khả năng lãnh đạo chỉ huy và kiến thức quân sự được đào tạo tại các quân trường Bộ-Binh cùng với vốn liếng văn hóa cũng như chuyên môn kỹ thuật sẵn có, Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh đã ứng dụng rất có hiệu quả qua những công tác điều hành tiếp vận, sửa chửa, cũng cố, tái tạo những công sự chiến đấu, phòng thủ, hành quân hổn hợp với các đơn vị Bộ-Binh, Trưởng Toán các giang đĩnh chỉ huy ngăn chận, tấn công, xung kích, hải kích, thám sát, truy lùng, đột kích địch quân trong nhiều trận chiến trên sông và dọc bờ biển Việt-Nam.

Ngay sau khi mãn khóa, Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh đã đóng góp không nhỏ trong trọng trách trấn đảo giữ sông vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến. Nhiều Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh đã gục ngã trên những dòng sông oan nghiệt hay hải đảo xa xôi như:
- Hải-Quân Trung Úy Người Nhái Nguyễn văn Toàn (trận Đồng Tâm)
- Hải-Quân Chuẩn Úy Kha Tư Quốc (Duyên Đoàn 16)
- Hải-Quân Trung Úy Chiến Binh Lê Thanh Xuân (trận Mộc Hoá)
- Hải-Quân Chuẩn Úy Chiến Binh Huỳnh Hữu Phước (Giang Đoàn 72 Thủy Bộ)
- Hải-Quân Trung Úy Hải Kích Lê Văn Đương (tại đảo Hoàng Sa trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng năm 1974)
- và nhiều Sĩ Quan Hải-Quân Chiến Binh đã hy sinh một phần cơ thể cho Quê Hương Miền Nam.

PHẠM QUỐC NAM

Tài liệu trên Internet

ĐÀO LUYỆN SĨ QUAN ĐOÀN VIÊN trong HẢI-QUÂN VIỆT-NAM


Ngành Sĩ quan Đoàn Viên gồm những Sĩ Quan xuất thân từ Hạ Sĩ Quan. Ngành này được tổ chức phỏng theo Hải-Quân Pháp, với tên Officiers des Équipages. Hải-Quân Mỹ cũng có ngành tương đương, với tên Warrant Officers. Ngay từ khi thành lập, Hải-quân V.N.C.H. đã có các Sĩ Quan Đoàn Viên, trong đó phải kể Trung tá Phạm Văn Bảo là vị Sĩ Quan có công lớn trong công tác tuyển mộ của Hải Quân trong thời kỳ thành lập.


Sĩ Quan Đoàn Viên thường được tiếp tục phục vụ trong chuyên nghiệp mà họ đã phục vụ ở cấp Hạ Sĩ Quan. Chẳng hạn như một Thượng Sĩ Trọng Pháo khi thăng cấp Sĩ Quan Đoàn Viên sẽ tiếp tục phục vụ trong ngành Trọng Pháo. Với kiến thức và kinh nghiệm dồi dào về chuyên nghiệp, các vị này thường là những huấn luyện viên xuất sắc trong ngành và được coi như những “cố vấn chuyên môn” về chuyên nghiệp cho cấp chỉ huy. Trong một đơn vị, Sĩ Quan Đoàn Viên thường là gạch nối rất thích hợp giữa cấp chỉ

huy và các Đoàn Viên.

Sĩ Quan Đoàn Viên thường được chọn lựa để được thăng cấp trong số những Thượng Sĩ nhất hoặc Thượng Sĩ có khả năng chuyên nghiệp và trình độ văn hóa cao, hạnh kiểm tốt. Việc thăng cấp này không đòi hỏi một khóa huấn luyện đặc biệt nào. Tuy nhiên, trong khoảng đầu thập niên 1960, Bộ Tổng Tham Mưu ấn định lại qui chế thăng cấp cho toàn thể quân nhân Quân Lực V.N.C.H, và quyết định rằng muốn mang cấp bậc Sĩ Quan nhân viên phải qua một khóa đào tạo Sĩ Quan. Do đó việc thăng cấp Sĩ Quan Đoàn Viên của Hải-Quân không được chấp thuận nữa. Điều này đã làm nản lòng nhiều Hạ Sĩ Quan ưu tú và có óc cầu tiến của Hải-Quân. Trước tình trạng “không có lối thoát” này, một số có đủ điều kiện đã xin nhập học các khóa Sĩ Quan đặc biệt tại Trường Bộ-Binh Thủ-Đức. Sau khi mãn khóa với cấp bậc Chuẩn Uý, họ sẽ phục vụ trong Lục Quân.

Vì thấy đây là một thất thoát nhân lực đáng kể, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã trình Bộ Tổng Tham Mưu và được chấp thuận cho Hải-Quân tổ chức các khóa Sĩ Quan Đoàn Viên. Mục đích của các khóa này là huấn luyện để học viên có đủ khả năng căn bản của một Sĩ Quan Hải-Quân, kể cả việc đương phiên hải hành trên các chiến hạm.

Bốn khóa đã được đào luyện trong khoảng từ năm 1968 đến 1972, với các chi tiết sau đây:

-Thời gian huấn luyện mỗi khóa: 6 tháng,
- Địa điểm huấn luyện: Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân, Saigon,
- Điều kiện nhập học: Cấp bậc từ Trung Sĩ Nhất trở lên, có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, riêng các Thượng Sĩ Nhất nếu có bằng Cao Đẳng Chuyên Nghiệp có thể được miễn bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp.
- Sĩ số mỗi khóa: 60 khóa sinh.
- Các môn học chính: Lãnh đạo chỉ huy, tổ chức Hải-Quân, hàng hải, vận chuyển, truyền tin, trọng pháo, cơ khí, điện khí, phòng tai.

Sau khi tốt nghiệp, học viên được mang cấp bậc Chuẩn Uý Đoàn Viên kèm với tên của chuyên nghiệp. Thí dụ: Chuẩn Uý Đoàn Viên Cơ Khí. Vì tiêu chuẩn chọn lựa để nhập học khá cao, về khả năng cũng như về hạnh kiểm, nên tỷ số tốt nghiệp được coi là rất cao. Chỉ có một vài học viên bỏ dở khóa học vì lý do sức khỏe hay vì lý do nào khác.


Trên nguyên tắc, trong Hải-Quân Việt-Nam cấp bậc của Sĩ Quan Đoàn Viên không có giới hạn. Trong Hải-Quân Pháp, ngành Sĩ Quan này được giới hạn ở cấp Trung Tá. Trong Hải-Quân Mỹ, cấp bậc cao nhất của Sĩ Quan Đoàn Viên là Thiếu Tá (Chief Warrant Officer, tương đương với Thiếu Tá).

Sĩ Quan Đoàn Viên tốt nghiệp thường được bổ nhiệm đến các đơn vị tùy theo nhu cầu chuyên nghiệp của các đơn vị. Thí dụ Sĩ Quan Đoàn Viên ngành cơ khí hoặc điện khí thường được thuyên chuyển đến các thuỷ xưởng hoặc Hải-Quân Công Xưởng. Rất nhiều Sĩ Quan Đoàn Viên được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tại các Trung Tâm Huân Luyện để cung ứng nhu cầu huấn luyện rất cao của Hải-Quân lúc đó.


Tính tới tháng 4 – 1975, cấp bậc cao nhất của Sĩ Quan Đoàn Viên là Đại úy. Các khóa đào luyện Sĩ Quan Đoàn Viên tỏ ra rất hữu ích cho Hải-Quân vì ít nhất đã đáp ứng được các nhu cầu quan trọng sau đây:

1. Bảo toàn nhân lực cho Hải-Quân nhờ giữ được nhân viên có khả năng cao, giầu kinh nghiệm và hạnh kiểm tốt.
2. Thỏa mãn được nhu cầu tiến thân của các nhân viên tốt, nhờ đó nâng cao tinh thần của toàn thể nhân viên.

Ngoài phương thức đào luyện trên đây, tưởng cũng cần thêm rằng đã có một số Đoàn Viên có trình độ văn hóa cao hơn (từ Tú Tài I trở lên) đã được nhập học Trường Sĩ Quan Hải-Quân tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha- Trang. Với phương thức này, Hải-Quân cũng bảo toàn được nhân lực và lại đào luyện được Sĩ Quan ngành Chỉ Huy và Cơ Khí có thêm kinh nghiệm về chuyên nghiệp.

Nguyễn Ngọc Quỳnh

Trích từ Hải Sử Tuyển Tập

HẠ SĨ QUAN CHUYÊN NGHIỆP HẢI-QUÂN

Hải-Quân chỉ mở 2 khóa Hạ Sĩ Quan Hải-Quân; mỗi khóa có khoảng trên 200 người. Đa số ứng viên là thanh niên, học sinh, số còn lại là Đoàn Viên. Tất cả được nhập học tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Điều kiện để theo học:

  • Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và đầy đủ sức khỏe.
  • Học 3 tháng cơ bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang.
  • Ra trường đi tập sự với cấp bậc Thủy Thủ Tập Sự.
  • Sau 3 tháng, trở lại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang học Sơ Đẳng Chuyên Nghiệp theo ngành nghề ứng viên chọn.
  • Sau 3 đến 6 tháng học chuyên nghiệp, ứng viên được cử đi tập sự tại các đơn vị Hải-Quân trong 4 tháng.
  • Trở lại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân để thụ huấn Trung Đẳng Chuyên nghiệp, thời gian từ 3 đến 6 tháng, tùy theo ngành, nghề. Sau giai đoạn huấn luyện này ứng viên mới chính thức trở thành Hạ Sĩ Quan Hải-Quân.

Tổng cộng thời gian thụ huấn tại quân trường là 11 tháng.

Đa số Hạ Sĩ Quan Chuyên Nghiệp Hải-Quân đều trở về học các khóa Sĩ Quan Đoàn Viên tại Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc.

Cũng trong 2 khóa Hạ Sĩ Quan này, vào năm 1963-1964, những khóa sinh có bằng Tú Tài I được gọi đi học tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ-Đức. Sau khi tốt nghiệp, đa số tân Sĩ Quan chọn những quân, binh chủng khác; chỉ một số nhỏ trở lại phục vụ Hải-Quân. Do đó Hải-Quân Việt-Nam đã mất đi một số cán bộ ưu tú về chuyên môn.

Người có cấp bậc cao nhất trong 2 khóa này lên đến Thiếu Tá, chỉ huy trưởng một đơn vị.

THỦY THỦ

So với các quân binh chủng thuộc Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, Hải-Quân tuyển chọn Thủy Thủ với tiêu chuẩn văn hóa khá cao:

  • Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp
  • An ninh lý lịch rõ rang
  • Sức khỏe tốt

Sau khi trúng tuyển, khóa sinh phải qua 2 giai đoạn huấn luyện sau đây:

  • Ba tháng căn bản quân sự, ra trường với cấp bậc Thủy Thủ Tập Sự
  • Trở về Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân học Sơ Đẳng Chuyên Nghiệp từ 3 đến 6 tháng, tùy theo ngành nghề.

Sau đây là những ngành nghề chính của Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên Hải-Quân:

- Kế toán: Quản trị hành chánh, quân lương

- Tiếp vụ: Đảm trách ẩm thực
- Trọng pháo; Xử dụng và bảo trì vũ khí, đạn dược
- Vô tuyến: Khai thác truyền tin, nhận và chuyển công điện
- Giám lộ: Truyền tin bằng cờ hiệu, đèn hiệu, định vị trí chiến hạm, tu bổ, bảo trì dung cụ hải hành, cờ hiệu…
- Vận chuyển: Lái tàu, bảo trì vỏ tàu, xuồng, neo, xích neo và dây cột tàu
- Điện khí: Xử dụng bảo trì và sửa chữa máy điện và hệ thống giây điện trên chiến hạm
- Điện tử: Bảo trì và sửa chữa dụng cụ điện tử
- Thám xuất: kiểm soát radar và sonar, theo dõi các hoạt động trên không, trên và dưới mặt biển
- Quản kho: Phụ trách về quân trang, quân dụng và tiếp liệu
- Y tá: Đảm trách về Quân-Y
- Bí thư: Đảm trách dịch vụ hành chánh và văn thư
- Cơ khí: Sửa chữa, bảo trì máy chánh, các loại động cơ nổ, máy lọc nước…
- Phòng tai: Cứu hỏa và cứu thủy
- Điện pháo: Xử dụng và bảo trì hệ thống điện của vũ khí, đạn dược.

Sau khi được huấn luyện chuyên môn, khóa sinh mãn khóa được đeo phù

hiệu chuyên nghiệp và cấp bậc bên tay áo trái. Khi trở thành Sĩ Quan Đoàn Viên thì không còn đeo phù hiệu chuyên nghiệp nữa.

Qua thời gian từ 2 đến 3 năm công vụ, khóa sinh được gửi về học các lớp Hạ Sĩ Quan. Thời gian thu huấn là 4 tháng, tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải- Quân Nha-Trang hoặc Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cát-Lái.

Khoảng 1 hoặc 2 năm sau, khóa sinh được gọi về học các lớp Trung Đẳng Chuyên Nghiệp tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang.

Muốn trở thành Sĩ Quan Đoàn Viên, khóa sinh tốt nghiệp Trung Đẳng phải qua một lớp Cao Đẳng Chuyên Nghiệp rồi ghi danh theo học khóa Sĩ Quan Đoàn Viên.

Năm 1969, 50 tân binh Hải-Quân đang học tại Trung Tâm Huấn Luyện Cam-Ranh, được Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự Hoa-Kỳ tuyển chọn nửa khóa sang thụ huấn căn bản quân sự tại Hoa-Kỳ, do Đại Úy Bùi Nhật Ích hướng dẫn.

Sau khi tốt nghiệp, trở về Việt-Nam, những khóa sinh này đã trình diễn lối diễn hành đặc biệt của Hải-Quân Hoa-Kỳ, trông rất tân kỳ và đẹp mắt; nhưng sau này lối diễn hành đó không được áp dụng cho Hải-Quân Việt- Nam.

Vào những năm 1968-1969, để theo kịp đà chuyển giao tàu bè và chiến cụ tối tân với kỹ thuật cao, nhiều Đoàn Viên – sau khi học Anh ngữ 6 tháng tại Trung Tâm Sinh Ngữ Quân Đội – được gửi đi tu nghiệp tại Hoa-Kỳ, tùy theo ngành nghề. Thời gian tu nghiệp từ 6 tháng đến một năm.

Đa số khóa sinh tu nghiệp thuộc các chuyên nghiệp Cơ Khí, Điện Khí, Vô Tuyến, Điện Tử và Phòng Tai.

Biến cố 30-4-1975 khiến một số Sĩ Quan và Đoàn Viên Hải-Quân bị kẹt lại Hoa-Kỳ. (*)

(*) Nguyên bản: Nguyễn Hữu Hiền. Hạ Tầng Cơ Sở Hải-Quân: Các Đoàn Viên, 2002. Tài liệu riêng, không xuất bản. Trích từ Lược Sử Hải Quân V.N.C.H. của Vũ Hữu San

NHỮNG TRƯỜNG SĨ QUAN HẢI-QUÂN NGOẠI QUỐC mà SĨ QUAN HẢI-QUÂN VIỆT-NAM THEO HỌC

TRƯỜNG SĨ QUAN HẢI-QUÂN PHÁP tại BREST

Thành phố Brest nằm trên thềm lục địa Âu Châu. Lịch sử của Brest là lịch sử của những lâu đài. Đức-Hồng-Y-Thủ-Tướng đã biến đổi Brest thành một quân cảng lớn thứ nhì, sau Toulon.

Vào thế chiến thứ II, Brest bị oanh tạc nặng nề. Sau thế chiến thứ II, trung tâm thành phố Brest được xây cất lại.

Ngày nay Brest là một thành phố quan trọng với trung tâm nghiên cứu về Hải Học, trường đại học và nhiều trường chuyên nghiệp như Télécom Bretagne, École Navale, v.v…

Chính tại ngôi trường École Naval này, giữa thế kỷ 20, nhiều sinh viên miền Nam Việt-Nam đã được gửi sang thụ huấn để trở thành những Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên do Pháp đào tạo.

Từ năm 1952 cho đến năm 1955, mỗi năm, một số sinh viên được tuyển chọn qua các kỳ thi để gửi sang Pháp thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Hải-Quân ở Brest.

Mỗi khóa có khoảng 100 sinh viên. Thời gian thụ huấn: 2 năm. Chương trình huấn luyện gồm có:

Mỗi khóa có khoảng 100 sinh viên. Thời gian thụ huấn: 2 năm. Chương trình huấn luyện gồm có:

- Vận chuyển
- Thiên văn
- Khí tượng
- Hàng hải
- Kiến trúc chiến hạm
- Hải pháo
- Điện lý thuyết và kỹ nghệ
- Các loại động cơ
- Các loại máy dùng điện tuyến đề quan sát không gian.
- Các loại máy dùng âm thanh để theo dõi dưới nước
- Lượng giác không gian
- Toán học đại cương
- Một số giờ quan trọng học về hàng không
- Ngoài lý thuyết về kiến trúc phi cơ, sinh viên cũng thực tập phi hành trên các loại phi cơ Junker của Đức. sinh viên chỉ được thực tập phi hành trên trời thôi; khi cất cánh cũng như khi đáp, huấn luyện viên đảm trách)
- Căn bản quân sự, v. v
- Hằng tháng sinh viên phải thực tập đi biển trên phân đội Trục Lôi Hạm Đại Dương.

Sau khi tốt nghiệp tại trường Brest, Sĩ Quan được cấp bằng Ingénieur de l’École Navale.

Muốn được theo học Trường Sĩ Quan Hải-Quân tại Brest sinh viên phải được tuyển chọn qua một cuộc thi.

Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam theo học Trường Sĩ Quan Hải-Quân tại Brest chỉ có 4 khóa.

Khóa I Brest

Khóa I Brest được khai giảng vào tháng 10 năm 1952.

Ngành chỉ huy gồm có:

- Đặng Cao Thăng
- Nguyễn Vân
- Nguyễn Đức Vân
- Vương Hữu Thiều

Ngàng cơ khí:

- Nguyễn Gia Định

Khóa I Brest mãn khóa vào mùa Hè năm 1954.

  • Khóa I Brest có một vị được vinh thăng Phó Đề Đốc: Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư-Lệnh Hải-Quân cuối cùng của Vùng IV Sông Ngòi kiêm Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc Nhiệm 21.

Khóa II Brest

Khóa II Brest khai giảng tháng 9 năm 1953; gồm các ông:

- Dư Trí Hùng
- Hồ Ngọc Ngà
- Nguyễn Ngọc Quỳnh
- Vũ Xuân An
- Trịnh Xuân Phong
- Bùi Văn Lễ
- Bùi Tiến Rũng
- Ủ Văn Đức

Khóa II Brest ra trường đầu năm 1956.

Khóa III Brest

Khóa III Brest khai giảng tháng 9 năm 1954;gồm các ông:

- Đặng Đình Hiệp
- Phạm Văn Sanh
- Bùi Hữu Thư
- Lê Phụng
- Nguyễn Quang Dật
- Đỗ Kiểm
- Trịnh Quang Xuân
- Phạm Cừ
- Vũ Nhân
- Đỗ Ngọc Oánh, v.v…

Khóa III Brest mãn khóa vào cuối năm 1956.

Khóa IV Brest

 

Khóa IV Brest khai giảng cuối tháng 9 năm 1955;gồm các ông:

Ngành Chỉ Huy

- Lê Triệu Đẩu
- Võ Duy Ninh
- Nguyễn Địch Hùng
- Nguyễn Tiến Ích, v. v…

Ngành Cơ Khí:

- Trần Văn Sơn

Khóa IV Brest mãn khóa vào mùa Hạ 1957. (*)

(*) Điệp-Mỹ-Linh phỏng theo Wikipedia và tóm lược bài “Những Năm tại Trường Hải-Quân Pháp” của Cố Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng từ tài liệu lịch sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh và tư liệu từ những cựu Sĩ Quan xuất thân từ Trường Sĩ Quan Hải-Quân tại Brest.

 

KHÓA SĨ QUAN HẢI-QUÂN TRẦN HƯNG ĐẠO

Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam được gửi du học khóa Sĩ Quan Hải- Quân mang tên vị Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam – Trần Hưng Đạo – tại Trường Sĩ Quan Hải Quân trừ bị Hoa Kỳ, The United States Naval Officer Candidate School (O.C.S.). Thời gian thụ huấn chương trình O.C.S. dài khoảng 24 tuần lễ, tại Newport và sau đó học thêm khoảng 3 tuần về Hành Quân Sông Ngòi tại Treasure Islanf, California

NHẬP HỌC KHÓA O.C.S.

Sinh viên được Bộ Tư Lệnh Hải-Quân chấp thuận cho theo học khóa O.C.S. phải hội đủ những điều kiện sau đây:

- Tối thiểu phải có Tú Tài II, ban Toán.
- Hoàn tất 3 tháng huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung.
- Hoặc tốt nghiệp Trường Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức
- Hoặc tốt nghiệp Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đa-Lạt
- Điểm thi trắc nghiệm Anh ngữ phải từ 70% trở lên.

Sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S. trình diện nhập ngũ liền được đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung để học 3 tháng căn bản quân sự. Mãn khóa, sinh viên Sĩ Quan nào có điểm thi trắc nghiệm Anh ngữ trên 70% sẽ được chuyển về Trại Bạch-Đằng làm thủ tục nhập học chương trình O.C.S.

Trong thời gian chờ đợi thủ tục tiến hành, sinh viên Sĩ Quan O.C.S. được tạm trú trên hai Tạm Trú Hạm APL, tại cầu C, cạnh Câu Lạc Bộ Nổi Hải- Quân, để trao dồi thêm Anh ngữ.

Điều hành mọi hoạt động sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S. tại Tạm Trú Hạm APL là Đại Úy Chiến Binh Đặng Kim Lê. Phụ tá cho Đại Úy Lê gồm có: Hải-Quân Trung Úy Phạm Trọng Thu, Hải-Quân Thiếu Úy Trần Chấn Hải, Trần Đức Thành, Đào Dân.

SINH HOẠT TẠI TRƯỜNG HẢI-QUÂN O.C.S.

Trường Hải-Quân O.C.S. tọa lạc trên một đảo lớn nằm ngay giữa vịnh Narragansette, phía Nam thành phố Newport, tiểu bang Rhode Island.

Ngoài Trường Hải-Quân O.C.S., Newport còn là nơi tọa lạc của Trường Đại Học Hải Chiến Hoa-Kỳ (U.S. Naval War College); gần Newport là Căn-Cứ Hải-Quân của Đệ Lục Hải-Quân Hoa-Kỳ.

Khuôn viên Trường Hải-Quân O.C.S. rộng lớn hơn Trung Tâm Huấn Luyện Nha-Trang, có đủ phòng ốc, cung cấp tiện nghi nơi ăn ở, học hành cho trên 1.300 khóa sinh thu huấn cùng một lúc.

Giám Đốc chương trình Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam tại Trường O.C.S. là Hải-Quân Thiếu Tá J.F. Keith. Sĩ Quan cao cấp trách nhiệm toàn diện về chương trình O.C.S. là Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Hải, xuất thân khóa 10 Sĩ Quan Hải-Quân Nha-Trang. Phụ tá điều hành chương trình O.C.S. gồm một số Sĩ Quan Hải-Quân cấp Úy.

Trường O.C.S. có 2 nơi dành cho khóa sinh trú ngụ, đó là King Hall và Nimitz Hall. Tiểu đoàn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam trú ngụ tại Nimitz Hall; và được chia thành 3 đại đội: Tango, Victor và Uniform Company. Mỗi đại đội gồm 3 trung đội: 1st, 2nd và 3rd Platoon.

Ban giảng huấn của chương trình Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S. Việt-Nam gồm 38 Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan Hoa-Kỳ.

Học trình được chia thành 2 phần Academic và Military:

- Academic gồm 500 giờ, học về Hàng Hải, Thiên Văn, Luật Hàng Hải Quốc Tế, Vận Chuyển, Phòng Tai, Chiến Thuật, Hải Pháo, Kiến Trúc Chiến Hạm, v.v…

Giám Đốc Academic Division là Hải-Quân Thiếu Tá H.D. Hopkins.

- Military gồm khoảng 150 giờ, học về lãnh đạo chỉ huy, diễn hành, cấp cứu và thể dục

Giám đốc Military Division là Hải-Quân Thiếu Tá R.F. Mc Cullough.

Trong suốt thời gian học tại trường Hải-Quân O.C.S., Tiểu Đoàn sinh viên Sĩ Quan Việt-Nam luôn luôn gồm có 4 khóa, tổng cộng 250 sinh viên Sĩ Quan thụ huấn cùng một lúc. Mỗi tháng, khi một khóa sĩ quan O.C.S. hoàn tất chương trình học tại trường O.C.S., rời Trường để sang California theo học về Hành Quân Sông Ngòi thì một khóa mới nhập học.

Sau khi hoàn tất chương trình học tại trường O.C.S., sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân được gắn cấp bậc Hải-Quân Chuẩn Úy.

Đặc biệt, từ khóa 10 đến khóa 12 sĩ quan Hải-Quân O.C.S. còn có một số sĩ quan Bộ-Binh mang cấp bậc Thiếu Úy hoặc Trung Úy theo học. Sau chương trình học Hải Nghiệp, những Sĩ Quan Bộ-Binh này trở thành Sĩ Quan Hải- Quân thực thụ.

Sau khi hoàn tất chương trình thụ huấn tại trường O.C.S., tất cả tân Chuẩn Úy được đưa vế California học khóa Hành Quân Sông Ngòi tại Riverine Inshore Operation Training Center, ở Treasure Island, San Francisco, khoảng 3 tuần lễ.

Thời gian thụ huấn về Hành Quân Sông Ngòi, sinh viên được thực tập trên các giang đỉnh như Command Monitor, Tango, PBR và PCF.

Trước khi chấm dứt chương trình về Hành Quân Sông Ngòi, khóa sinh có 3 ngày đêm tập trận hành quân Thủy Bộ tại Mare Island, CA., mà địa hình và dàn cảnh giống như tại chiến trường Việt-Nam. Trong những cuộc thực tập y như thật, lính Mỹ đóng vai Việt-Cộng ban đêm bò vào tấn công Căn-Cứ. Khóa sinh phải áp dụng tất cả những điều đã học hỏi về chiến thuật, xử dụng vũ khí, vận chuyển tàu bè, v.v…để phòng thủ doanh trại cũng như mở cuộc hành quân truy lung và diệt “địch”.

Chương trình Sĩ Quan Hải-Quân Trần Hưng Đạo đào tạo 12 khóa O.C.S. Mỗi khóa cách nhau khoảng 6 tuần lễ và có khoảng 60 sinh viên.

Khóa 1 Sĩ Quan O.C.S. khai giảng vào tháng Hai năm 1970.

Khóa 12 Sĩ Quan O.C.S. mãn khóa vào tháng Chín năm 1971.

Trong gần 2 năm trường Sĩ Quan Hải-Quân O.C.S. đã đào tạo tổng cộng 750 Sĩ Quan Hải-Quân Việt Nam.

Sau khóa Sĩ Quan O.C.S. cuối cùng – khóa 12 – Trường sĩ quan Hải-Quân O.C.S. cũng nhận huấn luyện khóa International Officer Candidate (I.O.C.S.). Trong số 197 sinh viên khóa International Officer Candidate có 22 sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân Việt-Nam.

Hải-Quân Úc-Đại-Lợi cũng giúp huấn luyện hai khóa O.C.S. với hơn 10 Sĩ Quan Hải-Quân Việt Nam tốt nghiệp. (*)

(*) Điệp-Mỹ-Linh tóm lược từ bài “Khóa Sĩ Quan Hải-Quân Trần Hưng Đạo” của tác giả:

Tổng Hợp do S.Q.H.Q./O.C.S.

Hải Sử Tuyển Tập

 

TRƯỜNG HẬU ĐẠI HỌC HẢI-QUÂN HOA-KỲ

(U.S. NAVAL POSTGRADUATE SCHOOL)

hai quan ra khoi-chuong 3

Naval Postgraduate School (NPS) là trường đại học cao cấp nhất được trực tiếp quản trị bởi Bộ-Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trường NPS nằm trong thành phố Monterey, thuộc tiểu bang California, một thành phố du lịch nằm ven biển với khí hậu mát mẻ gần như quanh năm, cách San Jose độ hơn một giờ lái xe. Nói đến NPS là nói đến một trường đại học có rất nhiều sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ theo học, dĩ nhiên trong đó có các sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H., đa số xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang và Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt.

Sơ Lược về Sự Tổ Chức

của

Naval Postgraduate School

Trường Hậu Đại-Học Hải-Quân (NPS) Hoa-Kỳ gồm có ba khối: General Lines School, Engineering School và Management School.

Management School (Tạm dịch là Trường Quản-Trị). Trường này có lớp riêng cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ và lớp riêng, ngắn và dài hạn dành cho sĩ quan đồng minh. (International Defense Management Course).

Trường NPS không chỉ dành riêng cho sĩ quan Hải-Quân, mà thời đó, chính phủ V.N.C.H. gửi cả sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và luôn cả công chức cao cấp quốc phòng sang tu nghiệp. Về sau, Hoa-Kỳ mở ngay tại Việt-Nam lớp quản trị cho Quân-Lực V.N.C.H.

Engineering School (Tạm dịch là Trường Kỹ Thuật và Cơ khí). Trường này dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Hoa-Kỳ xuất thân từ Annapolis và General Lines School và cũng dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Đồng-Minh.

Những sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam theo học trường này được chia ra hai nhóm:

  • Sĩ quan cơ khí học các ngành như: Mechanical, Electronic…
  • Sĩ quan chỉ huy học các ngành: Communications, Operations Research, Aerology…

General Lines School (Tạm dịch là trường dạy ngành chỉ huy). Đa số sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học tại NPS đều xuất thân Annapolis Naval Academy. Sĩ quan nào xuất thân từ OCS hoặc Naval Aviation School, v. v… đều phải ra đơn vị phục vụ một thời gian tối thiểu là hai năm rồi mới được xin về NPS học tiếp để lấy bằng Cao Học (Master’s Degree), hoặc tiến sĩ (Ph.D.); do đó NPS được gọi là trường hậu đại học.

Những sĩ quan đồng minh, nhất là sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam, theo học trường này đều phải là sĩ quan ngành chỉ huy.

Những Tiêu Chuẩn Được Tuyển Chọn

Để Theo Học Trường NPS

Qua chương trình MAP (Military Assistance Program) của chính phủ Hoa-Kỳ, sĩ quan Hải-Quân muốn theo học Trường NPS phải hội đủ những điều kiện sau đây:

- Có văn bằng hoặc chứng chỉ của phân khoa Đại Học Khoa-Học.
- Điểm Anh ngữ tối thiểu 80.
- Hồ sơ quân bạ phải không có “củ” (bị phạt).

Ban Du Học thuộc Phòng Quân-Huấn, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân có nhiệm vụ xét đơn các ứng cử viên xem có đủ điều kiện hay không sau đó hồ sơ hợp lệ của sĩ quan ghi danh sẽ được chuyển về Trường NPS để duyệt xét, tuyển chọn và quyết định.

Vì phương pháp tuyển chọn do chính Trường NPS quyết định chứ không phải do Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân cho nên rất công bình. Sau khi nộp hồ sơ, các sĩ quan phải chờ để được gọi về thi Anh ngữ tại trường Sinh-Ngữ Quân-Đội. Nhiều sĩ quan bị loại vì không về kịp để thi Anh ngữ. Trường hợp của tôi khá may mắn, hai lần trước về không kịp vì tàu đang công tác; lần thứ ba – cũng là lần chót – bảy giờ sáng tàu vừa cặp bến chưa cột hết giây, tôi đã xin phép Hạm-Trưởng “phóng” xuống bờ, lấy Honda chạy một mạch đến Trường Sinh-Ngữ Quân-Đội, vừa kịp giờ vào phòng thi.

Được Chấp Thuận và Lên Đường Du Học

Trong đợt tôi đi, danh sách có năm sĩ quan. Bốn người, kể cả tôi, cùng khóa và một người khóa đàn em. Trong bốn người cùng khóa, có một anh nổi tiếng từ quân trường và có biệt danh là “Gà Tồ”. Anh này phải ở lại đi sau vì không đủ điểm Anh ngữ; lý do vì mê chơi cờ tướng nên thường bỏ học Anh ngữ và phải kể cộng thêm cái “gà tồ” của anh nữa. Những sĩ quan được chính thức lên đường phải qua một số thủ tục cần thiết như: xin Thông Hành Quân-Vụ, Sự Vụ Lệnh, chiếu khán nhập cảnh, may quân phục, đổi tiền, v. v…

Chúng tôi đi bằng phi cơ từ phi trường Tân-Sơn-Nhất, dừng tại Hawaii độ hai giờ rồi bay thẳng sang Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas, để học thêm ba tháng Anh ngữ. Sau thời gian học Anh ngữ, bốn người chúng tôi đáp máy bay sang Travis Air Force Base, California; từ đây, chúng tôi lấy bus đến Trường NPS.

Trong thời gian di chuyển từ Việt-Nam sang Mỹ, mặc dù Anh văn đã học “một bụng” nhưng mà nói thì múa máy tay chân hơi nhiều. Nhờ đi chung bốn đứa cho nên cũng đỡ, trật đứa này còn đứa khác. Trường hợp anh “Gà Tồ” thì bi đát hơn, vì anh đi trễ nên chỉ có một mình. Anh kể rằng khi ghé tạm nghỉ ở Hawaii, anh đi tìm rest room – danh từ duy nhất anh học tại trường Sinh ngữ Quân-Đội – đi mấy vòng mà không thấy rest room đâu cả, chỉ thấy mấy nơi đề Gentlemen, anh ngẩm nghĩ, không biết mình có được xem như là một Gentleman hay không, vì quần áo xốc xếch quá. Cuối cùng anh đành nhịn, không dám mở cửa bước vào!

Chương Trình và Các Môn Học

Mặc dù được Bộ-Hải-Quân quản trị, nhưng thật ra không có gì là quân đội cả, chương trình học không khác gì các trường Đại Học dân sự, ngoại trừ phải lấy nhiều môn học cho mỗi quarter, gần như gấp đôi so với các đại học ngoài. Vì vậy mà ghế trong thư viện của NPS được các sĩ quan “đánh bóng” rất kỹ vào những ngày cuối tuần; đặc biệt là sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh. Những môn học thường được sĩ quan Việt-Nam theo học gồm:

  • Electronic Engineering
  • Mechanical Engineering
  • Communications
  • Operations Management
  • Operations Research.

Ban giảng huấn đa số là giáo sư dân chính. Nếu tôi không lầm thì có tất cả ba khóa học dài hạn được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân gửi sĩ quan theo học qua chương trình MAP. Ngoài ra, tại NPS có hai khóa huấn luyện ngắn hạn đặc biệt về Quản-Trị Quốc-Phòng (Defense Management) mỗi năm một lần dành riêng cho sĩ quan cấp Tướng; khóa ba tháng dành cho sĩ quan cấp Đại-Tá. Mỗi năm đều có nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Nam theo học hai khóa này. Một người rất đặc biệt trông coi về hành chánh và giao tế cho hai khóa Quản-Trị Quốc-Phòng tại NPS mà tất cả sĩ quan đều kính trọng vì sự phóng khoáng và giúp đỡ tận tình của Bà. Đó là bà Betty Field. Có thể nói, không một sĩ quan nào theo học tại NPS, khóa ngắn hạn cũng như dài hạn, mà không nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Bà. Sau tháng 4-1975, vì sự tận tình tranh đấu và giúp đỡ những sĩ quan Việt-Nam còn đang theo học tại Trường đang gặp khó khăn, Bà đã được sự kính mến và xem như là “Mẹ Tinh Thần” của các sĩ quan tị nạn. Tôi cũng như nhiều sĩ quan khác bọi Bà bằng Mom. Các con của tôi gọi Bà bằng Grandma. Hiện giờ Bà vẫn còn trông coi các khóa Quản-Trị Quốc-Phòng tại NPS.

Trợ Cấp Tài Chánh Học Hành và Ăn Ở

Với số tiền trợ cấp 600 Mỹ kim một tháng - không thuế - được coi là dư giả đối với vật gía vào năm 1972, xăng 32 xu một ga-lông và đi chợ 20 Mỹ kim thì đầy xe. Sĩ quan có thể thuê nhà ở ngoài, mua xe hoặc mặt thường phục đi học.

Chương trình học cũng giống như các đại học dân sự, không như mọi người lầm tưởng là sẽ nặng về quân sự. Có một anh bạn thuộc Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt, cụ bị đem theo đồ trận và giày trận, vì nghĩ rằng chắc phải lăn lộn dữ dội ngoài thao trường; khi biết chương trình chỉ toàn học chữ, anh cảm thấy lỡ bộ, bèn dấu biệt đôi giày trận, không bao giờ dám nhắc tới nữa. Đa số sĩ quan bị trở ngại khoảng ba tháng đầu.

Sĩ quan Việt-Nam theo học tại NPS có năm đông nhất lên khoảng 21 người. Những khóa học Electronic, Mechanical và Communications kéo dài ba năm; khóa Operations Research khoảng hai năm rưỡi; khóa Operations Management khoảng 18 tháng. Sĩ quan Bộ-Binh thường theo học khóa Operations Research. NPS là trường đại học về văn hóa cao cấp nhất của quân đội Mỹ, được công nhận bởi hệ thống đại học Miền Tây Hoa-Kỳ và có quyền cấp phát văn bằng tiến sĩ.

Một sĩ quan nổi tiếng trong Hải-Quân Việt-Nam là ông Nguyễn Tiến Ích. Ông xong cao học ở NPS và sau đó theo học ở MIT và đỗ bằng tiến sĩ. Trường hợp đặc biệt có hai sĩ quan đã hai lần theo học NPS, đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Vân và Hải-Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương. Ông Lương về nước và tự tử chết khi xảy ra cuộc rút quân tại Nha-Trang vào đầu tháng 4 năm 1975. Anh Dzĩnh, một sĩ quan Bộ-Binh, nhỏ con nhưng bù lại anh có một khối óc thật vĩ đại, thuộc loại thiên tài. Anh Dzĩnh theo học khóa Operations Research, được tất cả giáo sư kính nể. Một giáo sư đã nói rằng: “Anh Dzĩnh có cả một thư viện trong đầu.” Anh về nước khoảng cuối năm 1974. Nhà trường sẵn sàng can thiệp để anh ở lại tiếp tục học lấy bằng tiến sĩ, nhưng anh từ chối.

Những Sinh Hoạt Trong Trường và Ngoài Trường

Hằng năm nhà Trường thường tổ chức nhiều buổi văn nghệ và triển lãm quốc tế, đặc biệt là ngày International Day. Vào ngày này, những sĩ quan và gia đình thuộc các quốc gia Đồng-Minh thường làm những món ăn “quốc hồn quốc túy” để giới thiệu món ăn truyền thống của quê hương mình. Riêng về phía Việt-Nam, chỉ toàn sĩ quan “độc thân tại chỗ”, cho nên chỉ biết mượn vài bộ lư hương và đồ gốm để trưng bày.

Sở dĩ sĩ quan Việt-Nam không được phép đem gia đình theo là vì, trong những năm trước, có một sĩ quan – có lẽ bất mãn với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã không cho phép ông gia hạn học thêm – đã cùng vợ trốn sang Canada, không chịu trở về nước. (Theo quy chế cũ, sĩ quan được phép đem vợ theo nếu khóa học hơn một năm). Từ đó, Bộ-Tổng-Tham-Mưu cấm tuyệt đối, không cho sĩ quan du học đem vợ con theo.

Tất cả sĩ quan đều thuê phòng trọ cách trường vài blocks để có thể đi bộ đến Trường. Đa số đều có xe, thỉnh thoảng rủ nhau đi San Francisco ghé phố Tầu ăn mì và mua thực phẩm Á-Đông. Những sĩ quan trẻ thỉnh thoảng cũng làm một chuyến đi xa tận Nevada thăm Mustang Ranch.

Sĩ quan thâm niện hiện diện lúc đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh. Thỉnh thoảng Ông mời các sĩ quan họp để, thứ nhất, nhắc nhở các sĩ quan vài điều cần thiết; thứ hai, để thưởng thức món phở đặc biệt và tiếng cười “bất hủ” của Hải-Quân Trung-Tá Đoàn Doanh Tài.

Vùng Monterey và Pacific Grove có khoảng năm gia đình Việt-Nam kỳ cựu và rất hiếu khách. Các sĩ quan trẻ thường đến chơi vào dịp cuối tuần. Đặc biệt phải kể đến gia đình ông bà Thiệp và gia đình Cụ Diệp. Có lẽ tất cả sĩ quan theo học tại NPS đều biết, ngoài đức tính hào phóng và hiếu khách, hai gia đình này còn có mấy cô con gái rất đẹp và dễ thương. Mấy chàng sĩ quan trẻ đôi khi bị “C” cũng vì mấy cô dễ thương này.

Có một trường cũng rất đặc biệt thuộc thành phố Pacific Grove là Trường Sinh Ngữ Quân-Đội (Defense Language Institute). Vào những năm Hoa-Kỳ đổ quân tối đa vào Việt-Nam, Trường đã có hơn 200 giáo chức người Việt dạy tiếng Việt cho những quân nhân chuẩn bị sang Việt-Nam.

Biến Cố Tháng 4 Năm 1975

Mấy tháng trước biến cố tháng 4-1975, những sĩ quan đang theo học tại NPS đều thấy rõ người Mỹ đang chuẩn bị bỏ miền Nam Việt-Nam. Gần như trong suốt thời gian này tất cả sĩ quan không ai còn tinh thần để học nữa. Trong giảng đường thì như người mất hồn, chỉ chờ chiều về để cùng nhau đón xem tin tức từ các đài ABC, NBC và CBS.

Sau tháng 4 năm 1975, Trường NPS chấm dứt việc huấn luyện sĩ quan Việt-Nam, vì chính phủ V.N.C.H. không còn nữa! Tất cả được chuyển qua quy chế tị nạn. Anh em thỉnh cầu nhà Trường gia hạn cho những sĩ quan chỉ còn một hoặc hai quarter nữa là mãn khóa được tiếp tục học cho xong. Nhà Trường chấp thuận, nhờ đó một số sĩ quan đã kịp thời hoàn tất chương trình học. Tôi thuộc vào số sĩ quan may mắn này. Tôi đã hoàn tất văn bằng cao học vào tháng 6 năm 1975.

Tiếc rằng tôi đã không được dịp đem vốn kiến thức hấp thụ tại xứ người để về phục vụ quê hương Việt-Nam và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.!

Trần Trúc Việt

Trích từ Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

 

TRƯỜNG CAO ĐẲNG HẢI CHIẾN HOA KỲ U.S. NAVAL WAR COLLEGE

Trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa-Kỳ (U.S. Naval War College) là một tổ chức giáo dục và nghiên cứu của Hải-Quân Hoa-Kỳ, đặc biệt phát huy ý tưởng về hải chiến và truyền bá những ý tưởng này đến Sĩ Quan Hải-Quân.

Trường được thành lập ngày 6 tháng 10 năm 1884, tại Căn-Cứ Hải-Quân Newport, thuộc thành phố Newport, tiểu bang Rhode Island.

Từ năm 1887 Trường đã có những liên hệ khác nhau và trở thành nơi thử nghiệm về những đồ án chiến tranh. Có thể nói, hầu hết những cuộc hành quân quy mô của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong thế kỷ 20 đều được nghiên cứu và hoặch định tại Trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa-Kỳ.

Trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa-Kỳ có hai ngành dành cho Sĩ Quan Hải-Quân đồng minh:

- Ngành chỉ huy Hải-Quân (Naval Command College)

- Ngành tham mưu Hải-Quân (Naval Staff College)

Sĩ Quan đồng minh, dù tốt nghiệp cả hai ngành tại Trường Cao Đẳng Hải Chiến Hoa-Kỳ, cũng vẫn không được cấp bằng cao học. Lý do Trường nêu ra là: Nhiều Sĩ Quan thuộc các quốc gia khác không có trình độ đại học.(*)

(*) Điệp-Mỹ-Linh phỏng theo Wikipedia

 

DANH SÁCH SĨ QUAN HẢI-QUÂN V.N.C.H. ĐÃ TU NGHIỆP

TẠI U.S. NAVAL WAR COLLEGE

- Hải Quân Trung Tá Trần Văn Chơn 1959-1960
- Hải Quân Trung Tá Chung Tấn Cang 1960-1961
- Hải Quân Trung Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962
- Hải Quân Trung Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963
- Hải Quân Trung Tá Trần Văn Phấn 1963-1964
- Hải Quân Trung Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965
- Hải Quân Trung Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966
- Hải Quân Trung Tá Khương Hữu Bá 1966-1967
- Hải Quân Trung Tá Vũ Đình Đào 1967-1968
- Hải Quân Trung Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969
- Hải Quân Trung Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970
- Hải Quân Trung Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971
- Hải Quân Đại Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972
- Hải Quân Đại Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973
- Hải Quân Đại Tá Phan Văn Cổn 1973-1974
- Hải Quân Đại Tá Dư Trí Hùng 1974-1975 (11)

 

HẢI-QUÂN CÔNG XƯỞNG

Hải-Quân Công-Xưởng được xây cất trên một khu đất rộng lớn, bên bờ sông Saigon từ thế kỷ 19. Là một thủy xưởng lớn nhất Á-Châu, Hải-Quân Công-Xưởng gồm 87 tòa nhà; mỗi tòa nhà được xử dụng như một cơ xưởng.

Những cơ xưởng ấy là:

- Xưởng đóng tàu.
- Xưởng sửa tàu.
- Xưởng mộc.
- Xưởng điện.
- Xưởng tiện.
- Xưởng điện tử.
- Máy dầu cặn,
- Ty dụng cụ.
- Nhà kho.
- Văn phòng, v.v…

Ngoài ra còn có 2 ụ chìm, một ụ rộng 520 feet, ụ kia rộng 119 feet; một ụ nổi có khả năng sửa tàu nặng 1.000 tấn; 4 đường rầy; 7 cần trục lưu động; một lò nấu chảy. Tất cả những cơ sở đó đều tọa lạc trên 53 mẫu đất.* (12)

--------------------------------------------------------------------------------------------

*Theo MSGS, CP030625Z Dec. 1961; CPF

Chú thích:

(1) Trích trừ Quân-Y Hải-Quân của Bác Sĩ Trần Ngươn Phiêu.
(2)(3)(4)(5)(6) Trích từ Lược Sử Hải-Quân V.N.C.H. của Vũ-Hữu San
(7) Trích từ Can Trường Trong Chiến Bại của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
(8)(9)(10(12) Trích từ tài liệu lịch sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
(11)Trích từ U.S. Naval War College của Cựu Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh/Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp- mỹ- linh

 


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải Việt Nam để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


Chương III tiếp theo (a)

VÙNG SÔNG NGÒI

HÀNH QUÂN LƯU ĐỘNG SÔNG

Tổ Chức.- Hành Quân Lưu Động Sông trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải-Quân. Một phụ tá Tư Lệnh Hải-Quân Hành Quân Lưu Động Sông chịu trách nhiệm điều hành tất cả hành quân trong sông.

Thành Phần.- Về hành quân, Hành Quân Lưu Động Sông gồm có:

  • Hải-Quân Biệt Khu Thủ Đô
    • Đặc Khu Rừng Sát
    • Vùng III Sông Ngòi
    • Vùng IV Sông Ngòi
    • Lực-Lượng Thủy-Bộ (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211)
    • Lực-Lượng Tuần-Thám (Lưc-Lượng Đặc-Nhiệm 212)
    • Lực-Lượng Trung-Ương (Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214)
    • Giang-Đoàn Xung-Phong
    • Liên-Đoàn Tuần-Giang.

    hai quan ra khoi-chuong 3

Phụ tá Tư Lệnh Hải-Quân Hành Quân Lưu Động Sông cuối cùng: Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng.

HẢI-QUÂN BIỆT KHU THỦ ĐÔ *

Hải-Quân Biệt Khu Thủ Đô là những vùng sông ngòi thuộc Biệt Khu Thủ Đô; được thành lập với mục đích thống nhất việc điều hành các đơn vị Hải- Quân tại Saigon để góp phần bảo vệ Thủ Đô và cung cấp những dịch vụ cần thiết cho các đơn vị Hải-Quân đồn trú tại Saigon.

Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Biệt Khu Thủ Đô còn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Quân Cảng và Thương Cảng Saigon.

*Trích từ Lược Sử Hải-Quân V.N.C.H. của ông Vũ Hửu San

ĐẶC KHU RỪNG SÁT *

Kể từ năm 1962, Hải-Quân Việt-Nam được chỉ định trách nhiệm an ninh khu vực sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp – hai giang lộ huyết mạch nối liền Thủ Đô Saigon với Biển Đông.

Đặc Khu Rừng Sát là một rừng chồi dày đặc, thích hợp cho hoạt động của du kích Cộng Sản; do đó việc đảm trách an ninh trên các sông rạch liên hệ rất khó khăn.

Hải-Quân Việt-Nam đã giữ an ninh cho không biết bao nhiêu thương thuyền tiếp tế cho Saigon. Điều này chứng tỏ khả năng hữu hiệu của những Lực Lượng Hải-Quân tuần tiễu tại Đặc Khu Rừng Sát.

* Trích từ Lược Sử Hải-Quân V.N.C.H. của Vũ Hữu San.

VÙNG III SÔNG NGÒI *

hai quan ra khoi-chuong 3

Tổ Chức.- Vùng III Sông Ngòi gồm có Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng.

Bộ Tư Lệnh đặt tại Long-Bình.

Thành Phần.- Các đơn vị cơ hữu của Vùng III Sông Ngòi gồm có:

- Giang-Đoàn 22 và Giang-Đoàn 28 Xung-Phong đóng tại Nhà-Bè

- Giang-Đoàn 24 và Giang-Đoàn 30 Xung-Phong đóng tại Long-Bình

- Nhiều Tiền Doanh Yểm Trợ

Ngoài ra, Vùng III Sông Ngòi cũng được sự tăng phái của những Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (Task Forces) 211, 212, 214.

Phạm Vi Hoạt Động.- Vùng hoạt động của Vùng III Sông Ngòi gồm sông rạch thuộc lãnh thổ Quân Khu III, như các tỉnh: Biên-Hòa, Gia-Định, Long-An, Hậu- Nghĩa, Bình-Dương, Tây-Ninh, v. v…

Trách nhiệm.- Trách nhiệm của Hải-Quân Vùng III Sông Ngòi là giữ an ninh trên sông rạch, ngăn chận Việt-Cộng xâm nhập bằng đường thủy, phối hợp, yểm trợ và chuyển vận quân bạn trong những cuộc hành quân hỗn hợp.

Tư Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại Tá Trịnh Quang Xuân.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

VÙNG IV SÔNG NGÒI *

hai quan ra khoi-chuong 3(a)

Tổ Chức.- Bộ Chỉ Huy Vùng IV Sông Ngòi gồm có: Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng.

Tư Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông Ngòi kiêm Tư Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21.

Về hành quân, Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21 chỉ huy và điều động các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tăng phái và Lực-Lượng Hải-Quân cơ hữu thuộc Vùng IV Sông Ngòi.

Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi đặt tại Cần-Thơ.

Thành Phần.- Đơn vị cơ hữu của Hải-Quân Vùng IV Sông Ngòi gồm những Giang-Đoàn Xung-Phong sau đây:

- Giang-Đoàn 21 và Giang-Đoàn 33 đóng tại Mỹ- Tho
- Giang-Đoàn 23 và Giang-Đoàn 31 đóng tại Vĩnh-Long
- Giang-Đoàn 26 đóng tại Long-Xuyên
- Giang-Đoàn 25 và Giang-Đoàn 29 đóng tại Cần- Thơ
- Nhiều Căn Cứ và Tiền Doanh Yểm Trợ

Ngoài những đơn vị cơ hữu kể trên, Vùng IV Sông Ngòi cũng được sự tăng phái của 3 Lực-Lượng Đặc- Nhiệm 211, 212 và 214. Những Lực-Lượng Đặc-Nhiệm này gom lại thành Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21 – được đặt dưới sự chỉ huy và điều động của Tư Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông Ngòi.

Phạm Vi Hoạt Động.- Địa bàn hoạt động của Hải-Quân Vùng IV Sông Ngòi gồm tất cả sông rạch thuộc Quân Khu IV, như các tỉnh: Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang, Châu Đốc, Gò Công, Phong Dinh, v.v…

Phạm vi hoạt động của Hải-Quân Vùng IV Sông Ngòi được chia thành 3 vùng. Mỗi Lực-Lượng Đặc-Nhiệm chịu trách nhiệm một vùng để yểm trợ cho một Sư Đoàn Bộ-Binh.

Tư Lệnh cuối cùng: Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

LỰC-LƯỢNG THỦY-BỘ *
(Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211)

hai quan ra khoi-chuong 3

Tổ Chức.- Bộ Tham Mưu Lực-Lượng Thủy-Bộ gồm có: Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng.

Lực-Lượng Thủy-Bộ được thành lập vào tháng 6 năm 1969; chia thành 3 Liên-Đoàn. Mỗi Liên-Đoàn có 2 Giang-Đoàn được một Thiếu Tá hoặc Đại Úy Hải-Quân chỉ huy và được điều hành như sau:

  • Liên-Đoàn I Thủy-Bộ. Danh xưng khác là Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 211.1

Gồm 2 Giang-Đoàn 70 và 71 Thủy-Bộ.

Hậu cứ tại Long-Phú.

Nhiệm vụ: Phối hợp hành quân với các chi khu thuộc tiểu khu Sóc-Trăng và hộ tống những đoàn thương thuyền chở nhu yếu phẩm từ Bạc-Liêu, Sóc-Trăng về Saigon.

  • Liên-Đoàn II Thủy-Bộ. Danh xưng khác là Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 211.2.

Gồm 2 Giang-Đoàn 72 và 73 Thủy-Bộ.

Hậu cứ tại Cà-Mau.

Nhiệm vụ: Yểm trợ Trung Đoàn 32 Bộ-Binh, đồng thời phối hợp hành quân và tiếp tế cho các đơn vị thuộc vùng Cà-Mau.

  • Liên-Đoàn III Thủy-Bộ. Danh xưng khác là Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 211.3

Gồm 2 Giang-Đoàn 74 và 75 Thủy-Bộ.

Hậu cứ tại Rạch-Sỏi, tỉnh Kiên-Giang.

Vùng hoạt động: Tuần tiễu, kiểm soát những thủy lộ của hai tỉnh Kiên-Giang và Chương-Thiện.

Trang Bị - Mỗi Giang-Đoàn Thủy-Bộ được trang bị:

- 4 Alpha
- 5 Tango
- 1 Monitor Combat
- 1 Monitor Commandement

Đội hình di chuyển: **

  • 2 Trục mìn
  • 2 Alpha
  • Monitor Combat
  • 5 Tango chở quân
  • Monitor Commandement
  • 2 Alpha

Vì chiến trường đòi hỏi, Bộ Tư Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ đã biến cải mỗi Alpha trang bị thêm 1 súng 81 ly trực xạ.

Trước năm 1973, trong những cuộc hành quân của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 Bộ-Binh tại U-Minh thường có nhiều cuộc chuyển quân; vì vậy, mỗi Giang-Đoàn Thủy-Bộ được trang bị thêm các giang đỉnh rà và trục mìn. Hai giang đỉnh này thường được đi đầu.

Lực-Lượng Thủy-Bộ còn có Căn Cứ Yểm Trợ đặt tại Bình-Thủy, Cần-Thơ để cung cấp nhiên liệu cũng như sửa chữa và tu bổ chiến đỉnh.

Tư Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi của Điệp-Mỹ-Linh

** Đội hình có thể thay đổi tùy theo nhu cầu chiến trường.

LỰC-LƯỢNG TUẦN-THÁM *
(Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212)

hai quan ra khoi-chuong 3

Lực-Lượng Tuần-Thám là hậu thân của Task Force 116 Hoa-Kỳ, dưới sự điều động hành quân của Commander of Naval Forces Việt-Nam.

Task Force 116 được thành lập ngày 15 tháng 3 năm 1966 tại căn cứ Giang-Đoàn 22 Xung-Phong, Nhà-Bè, dưới quyền chỉ huy của Hải-Quân Đại Tá Burton B. William, Jr. Tổng số giang đỉnh đầu tiên là 60 PBR.

Tổ Chức.- Bộ Tham Mưu Lực-Lượng Tuần-Thám gồm có Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó, Tham Mưu Trưởng, Tham Mưu Phó Hành quân và Tham Mưu Phó Tiếp Vận.

Tham Mưu Trưởng trực tiếp điều động Phòng An Ninh, do Khối An Ninh Hải-Quân tăng phái.

Tham Mưu Phó Hành Quân trực tiếp điều động Trung Tâm Hành Quân, Phòng 2, phòng 3 và Giang-Đoàn 65 Tuần-Thám.

Tham Mưu Phó Tiếp Vận điều động Phòng 1, Phòng 4, Phòng Quân Y và Phòng Chiến Tranh Chính Trị.

Bộ Tư Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám đóng tại Châu-Phú, tỉnh Châu-Đốc. Tháng 10 năm 1971, Bộ Tư Lệnh dời về Căn Cứ Hải-Quân Bình-Thủy. Tháng 11 năm 1972, Bộ Tư Lệnh di chuyển về Căn Cứ Hải-Quân Mỹ-Tho.

Lực-Lượng Tuần-Thám gồm 14 Giang-Đoàn, kể từ Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám cho đến Giang-Đoàn 64 Tuần Thám và được chia thành 6 Liên-Đoàn, gọi là Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm.

Mỗi Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm gồm 2 hoặc 3 Giang-Đoàn do một Thiếu Tá hoặc Trung Tá Hải-Quân chỉ huy.

Phối Trí

  • Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.1 gồm các Giang- Đoàn 51 Tuần-Thám, 52 Tuần-Thám, 57 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Trục-Lôi, một Giang-Đoàn Xung- Phong, một toán tác chiến điện tử và một toán Hải-Kích.

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.1 chịu trách nhiệm sông rạch thuộc Đặc Khu Rừng-Sát và sông Đồng-Nai.

Hậu cứ: Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Nhà-Bè.

  • Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.2 gồm các Giang- Đoàn 53 Tuần-Thám, 54 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Ngăn-Chận, một toán tác chiến điện tử và một toán Hải-Kích.

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.2 chịu trách nhiệm hành quân vùng Sông Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông.

Hậu cứ: Tiền Doanh Yềm Trợ Bến Lức.

  • Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.3 gồm các Giang- Đoàn 59, Giang-Đoàn 63 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Ngăn-Chận, một toán tác chiến điện tử, một toán Hải-Kích và một phân đội của Hải-Đội 5 Duyên Phòng.

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.3 chịu trách nhiệm thủy trình Tân-Châu – Nam-Vang.

Hậu cứ: Căn Cứ Hải-Quân Tân-Châu.

  • Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.4 gồm các Giang- Đoàn 55 Tuần-Thám, Giang-Đoàn 61 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Xung- Phong, một toán tác chiến điện tử và một toán Hải- Kích.

Liên Đoàn Đặc Nhiệm 212.4 chịu trách nhiệm vùng Kinh Cái-Sắn, Kinh Vĩnh-Tế, sông Bassac.

Hậu cứ: Châu-Đốc.

  • Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.5 gồm một phân đoàn của Giang-Đoàn 58 Tuần-Thám, một phân đoàn của Giang-Đoàn 61 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Thủy-Bộ, một toán tác chiến điện tử và một toán Hải- Kích.

Liên Đoàn Đặc Nhiệm 212.5 chịu trách nhiệm vùng sông Cái-Lớn và kinh Cái-Sắn.

Hậu cứ: Rạch-Sỏi.

  • Liên Đoàn Đặc Nhiệm 212.6 gồm Giang-Đoàn 60 Tuần-Thám, Giang-Đoàn 62 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Thủy-Bộ, một toán tác chiến điện tử và một toán Hải-Kích.

Liên Đoàn Đặc Nhiệm 212.6 đặc trách những cuộc hành quân trên sông Bồ-Đề, sông Cửa-Lớn và những thủy lộ thuộc tỉnh Cà-Mau.

Hậu cứ: Mỹ-Tho.

Bộ Tư Lệnh Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212 Tiền Phương do Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó hoặc Tham Mưu Trưởng Lực-Lượng trực tiếp chỉ huy, đặc trách những cuộc hành quân phối hợp thủy bộ và hộ tống những đoàn ghe trên thủy trình Tân-Châu – Nam-Vang. (1)

Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám được biệt phái cho Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải; trách nhiệm tuần thám trên sông Hương; hậu cứ tại Huế.

Giang-Đoàn 59 Tuần-Thám làm trừ bị.

Trang bị: .- Mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám được trang bị 20 PBR, có đặc tính giống nhau, do một Đại Úy hoặc Thiếu Tá chỉ huy; và được chia thành 5 Liên-Đội.

Các Giang-Đoàn 51, 53, 56 và 57 Tuần-Thám được trang bị PBR loại MK1. Mười Giang-Đoàn Tuần- Thám còn lại được trang bị PBR loại MK2. Cả hai loại PBR MK1 và MK2 đều không có chân vịt và bánh lái, nhưng vận chuyển bằng tác dụng của hai bơm phản lực.

Mỗi PBR (Patrol Boat River) được trang bị:

- Trước mũi: Một pháo tháp đại liên 50 kép, khai hỏa bằng điện.
- Phía sau: Một đại liên 50 đơn.
- Hai bên thành tàu: Mỗi bên gắn một dàn trung liên M60, 4 hoặc 6 nòng như loại được gắn trên trực thăng Cobra.
- Vũ khí cá nhân gồm có 4 súng M16, 1 súng phóng lựu M18
- 2 radio
- 1 radar
- Máy truyền tin cực mạnh
- Ống dòm hồng ngoại tuyến
Trong nhiều trường hợp, PBR cũng được trang bị súng 50 ly đôi, 7 ly 62 và 20 ly.
Khoảng 6 hoặc 7 PBR Giang-Đoàn Tuần-Thám còn được trang bị đặc biệt:
- 1 súng cối 60 ly có khả năng bắn trực xạ, gắn cùng giá với đại liên 50 ở sân sau
- 1 súng phun lửa
- 1 súng 90 ly không giật
- 1 pháo tháp đại bác 20 ly ở sân mũi thay cho pháo tháp súng đại liên nòng kép.(2)

Mỗi Liên Đội có 4 PBR do một Trung Úy chỉ huy.

Mỗi PBR có từ 4 đến 5 nhân viên do một hạ sĩ quan Hải-Quân làm thuyền trưởng.

PBR có chiều dài 31 feet, chiều ngang 10 feet rưỡi, vỏ bằng nhựa (fiberglass), nhẹ, vận tốc cao – khoảng 32 km/giờ – chạy bằng máy phản lực, không có chân vịt cho nên rất thích hợp trên những sông cạn.

Phạm vi hoạt động.- Trách nhiệm trực tiếp vùng biên giới Tân-Châu, Hồng-Ngự, Châu-Đốc. Hà-Tiên, Cao- Lãnh, v. v…

Ngoài ra, Lực Lượng Tuần Thám cũng được tăng phái cho những vùng hành quân và trực thuộc dưới sự chỉ huy của đơn vị trưởng vùng đó.

Tư Lệnh đầu tiên và cũng là Tư Lệnh cuối cùng: Phó Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh.

(1) và (2)Theo Lược Sử Hải-Quân V.N.C.H. của Vũ Hữu San

LỰC-LƯỢNG TRUNG-ƯƠNG *
(Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214)

hai quan ra khoi-chuong 3

Tổ Chức.- Bộ Chỉ Huy Lực-Lượng Trung-Ương gồm có Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng.

Bộ Chỉ Huy được đặt tại Đồng-Tâm, thuộc tỉnh Định- Tường.

Lực-Lượng Trung-Ương gồm có:

  • Liên-Đoàn Người Nhái
  • 2 Giang-Đoàn Trục-Lôi
  • 4 Giang-Đoàn Ngăn-Chận
  • Nhiều Căn Cứ Hải-Quân.

Giang-Đoàn Ngăn-Chận được trang bị cùng loại chiến đỉnh với Giang-Đoàn Thủy-Bộ và có thêm máy phun lửa. Mỗi Giang Đoàn Ngăn Chận được một Thiếu Tá hoặc Đại Úy Hải-Quân chỉ huy.

Về hành quân, Lực-Lượng Trung-Ương cũng được tăng phái:

- 2 Giang-Đoàn Tuần-Thám

- 2 Giang-Đoàn Xung-Phong.

Lực-Lượng Trung-Ương có 300 sĩ quan, khoảng 3.000 binh sĩ và được chia làm 3 Liên-Đoàn. Mỗi Liên-Đoàn gồm 2 Giang-Đoàn và đặt dưới sự chỉ huy của một Thiếu Tá hoặc Trung Tá Hải-Quân.

Hậu cứ của các Liên Đoàn:

  • Ø Liên Đoàn 214.1 đóng tại Tuyên-Nhơn.
  • Ø Liên Đoàn 214.2 đóng tại Kinh Chợ-Gạo.
  • Ø Liên Đoàn 214.3 đóng tại Cao-Lãnh.

Vùng Hoạt Động.- Miền Tiền-Giang, từ bên này sông Cữu Long cho đến sông Vàm Cỏ, gồm các tỉnh Định- Tường, Vĩnh-Long, Kiến-Tường, v.v…

Tư Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh.

GIANG-ĐOÀN XUNG-PHONG

hai quan ra khoi-chuong 3

Quá trình hình thành Giang-Đoàn Xung-Phong

Mùa Thu năm 1945, sau khi tái chiếm Saigon và Tây-Ninh, Pháp dự trù chiếm lại các tỉnh lỵ nằm trong vùng đồng bằng miền Tây; trước hết là thành phố Mỹ-Tho, gần thủ đô. Lúc đó, trở ngại lớn của Pháp trong kế hoạch bình định vùng này là quốc lộ 4 bị Việt-Minh Cộng Sản phá hoại, cắt đứt làm nhiều đoạn trước khi rút ra bưng, khiến cho trục giao thông giữa Saigon và Mỹ-Tho chỉ còn đường thủy mà thôi.

Đại Tướng Philippe Leclerc, Tư lệnh Lục-Quân Pháp tại Đông-Dương thấy rằng muốn chiếm lại các tỉnh vùng châu thổ sông Cửu-Long, với sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, dài đến 5.550 Km # 3.000 hải lý, thì chỉ có ‘Hải-quân Nước-Ngọt’ (Brown Water Navy) mới đủ khả năng làm được việc này. Mặc dầu đến Việt-Nam chỉ mới mấy tháng, nhưng Leclerc với viễn kiến về địa hình đặc biệt của miền Nam, đã đi đến quyết định là phải xử dụng Hải-Quân trong sông mới chiến thắng được. Điều này, theo Đại Tá Thủy-Quân Lục-Chiến, Victor Croizat, chứng tỏ tài ba của Leclerc vượt trội hơn vị Tướng kế nhiệm của ông ta là Jean Étienne Valuy rất nhiều.

Lý thuyết về Hải-Đoàn Xung-Phong Pháp
Ngày 02 tháng 10 năm 1945, với tư cách tướng lãnh thâm niên hiện diện, Leclerc ủy nhiệm cho Phó Đề-đốc Francois Jaubert thiết kế hành quân bình định các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu-Long mà lực lượng Hải-Quân Pháp trong sông sẽ chỉ huy tất cả các cuộc hàng quân thủy bộ.

Để thành công trong công tác được giao phó, Phó Đề đốc Jaubert đề ra quan niệm hành quân thật mới mẻ cho các cuộc hành quân thủy bộ là: Lực lượng trong sông phải phối hợp ăn khớp với nhau để khai thông và làm chủ mọi thủy trình từ cửa sông đến thượng nguồn (1). Ngoài ra, Jaubert cũng dựa vào lý thuyết quân sự của danh tướng Phổ, Carl Von Clausewitz, đầu thế kỷ 19, trong quyển ON WAR là: Phải có chiến cụ rồi mới xác quyết được chiến thuật (2)

Vì vậy, trên phương diện tân tạo chiến cụ, Jaubert cố gắng ghép các xà-lan, các xuồng (chaland, barge) lại với nhau thành bè rồi dùng LCVP hoặc LCM đẩy bè chở chiến xa và Bộ-Binh của Trung Tá Ponchardier đến tận nơi đổ quân.

Sau khi tạo được chiến cụ tạm thời, Jaubert theo phương pháp quân sự cổ điển mà đặt ra bình phong chiến thuật (Tactical screen) cho đội hình di chuyển trong sông của đơn vị thủy bộ này. Cũng theo Jaubert, việc bảo vệ an toàn cho cánh quân đổ bộ được đặt lên hàng đầu, cho nên các tổ của bình phong có nhiệm vụ liên hoàn là phải yểm trợ lẫn nhau cho đến khi Bộ- Binh rời chiến đỉnh để xung phong chiếm mục tiêu trên bờ.

Điển hình, trong cuộc hành quân Moussac chiếm lại Mỹ-Tho ngày 25 tháng 10 năm 1945 và Vĩnh-Long ngày 29 tháng 10 năm 1945, lần đầu Jaubert điều động đơn vị phối hợp này đúng theo từng giai đoạn thiết kế và phát huy được năng lực thủy bộ. Sau đó, Ông đặt tên cho đơn vị tân lập này là DINASSAUT= Divisions Navales D’Assaut mà Chính Phủ Quốc-Gia Việt-Nam gọi là Hải-Đoàn Xung-Phong Pháp, cũng là tiền thân của Giang-Đoàn Xung-Phong – những đơn vị tác chiến quan trọng trong sông của Hải-Quân V.N.C.H. được Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH ban hành bảng cấp số vào năm 1965.

hai quan ra khoi-chuong 3

Monitor Combat

hai quan ra khoi-chuong 3

Monitor Commandement (3)

 

hai quan ra khoi-chuong 3

 

hai quan ra khoi-chuong 3

Kể từ đầu năm 1951, Hải-Đoàn Xung-Phong được Thống Tướng De Lattre chấp thuận bành trướng, nâng cấp lên thành Binh-Đoàn cơ động trong sông (Group Mobile) với 125 nhân viên Hải-Quân thuần túy, có đủ khả năng chuyển vận và đổ bộ 1 tiểu đoàn Bộ-Binh.

hai quan ra khoi-chuong 3

Tiến trình thành lập
Phúc trình Jaubert đến tay thượng cấp Pháp không đúng thời điểm, bởi lẽ tình trạng kinh tế Paris đang hồi suy sụp nặng. Trong khi kho dự trữ chiến cụ hải ngoại trống trơn, mà phúc trình đề nghị là phải có các loại chiến đĩnh mới để giải quyết cấp bách cho nhu cầu chiến trường sông. Việc đóng FOM mới và mua LCM của Mỹ để biến cải thành giang đỉnh chỉ huy và chiến đấu đỉnh đòi hỏi ngân sách dành cho quân đội viễn chinh quá lớn, khiến nền kinh tế èo uột của Pháp không kham nổi. Còn về nhân lực, hơn phân nửa lực lượng tác chiến của Pháp đang bị chôn chân trên chiến trường sôi động Bắc-Việt thì Pháp đâu còn đủ binh sĩ để thuyên chuyển đến các Hải-Đoàn Xung-

Phong tân lập

Trong sự cố gắng tối đa, Toàn Quyền Đông Dương, Đô Đốc D’Argenlieu, phải tận dụng tài nguyên hải ngoại còn lại để thành lập Hải-Đoàn Xung-Phong 1 và Đại Đội Commandos tùng đỉnh Bergerol tại Nhà-Bè vào tháng 8 năm 1947, và giao cho Hải-Quân Thiếu Tá Léost làm Hải Đoàn Trưởng.

Trong những ngày đầu, Hải-Đoàn Xung-Phong 1 hoạt động từ Nhà-Bè đến Ngã Bảy trên sông Lòng-Tào thuộc Đặc-khu Rừng-Sát.

Tháng 6 năm 1948, Trung Tướng Cộng Sản Nguyễn Bình, Trưởng Khu Bộ 7, mắc phải sai phạm lớn khi ra lệnh cho bộ đội Việt-Minh Cộng Sản tấn công vào bản doanh Bình-Xuyên tại Đặc Khu Rừng-Sát khiến lãnh tụ Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) ngã theo Pháp.

Pháp giao cho Bình Xuyên giữ an ninh thủy lộ Saigon Vũng-Tàu và Hải-Đoàn Xung-Phong 1 chuyển vùng hoạt động sang khu vực Tiền-Giang.

Mặt khác, để giảm bớt gánh nặng hành quân trong sông, Toàn Quyền Đông-Dương đành đi đến thỏa hiệp với hai giáo phái có vũ trang đương thời là Cao-Đài, với 4.500 quân và Hòa-Hảo, với 3.000 quân, để hai giáo phái này chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ vùng mà họ đang kiểm soát.

Trong lúc Hải-Đoàn Xung-Phong trong Nam ra đời khó khăn như vậy, thì ở ngoài Bắc, vì nhu cầu tu sửa cầu đường mà các đội Tuần Giang thuộc Lục-Quân lại được thành lập thật sớm vào đầu năm 1947.

Mãi cho đến tháng 2 năm 1951, De Lattre nắm cả quyền hành chánh lẫn quân sự tại Đông-Dương, nên mới quyết định thành lập Hải-Đoàn Xung-Phong 2 tại Nam-Định và giao cho Hải-Quân Đại Úy Garnier, rất thâm niên hải nghiệp, làm Hải Đoàn Trưởng đầu tiên. Hơn nữa, trước đó nhờ Mỹ viện trợ một cơ xưởng nổi (Floating drydock facilities) và 20 chiếc Trung Vận Đỉnh LCM6, giao lần đầu tại quân cảng Hải-Phòng vào cuối năm 1950 mà Pháp mới có đủ tài nguyên để biến cải các Trung Vận Đỉnh này thành chiến cụ mới, thích nghi cho các Hải-Đoàn Xung-Phong tân lập.

Hải-Quân Công Xưởng nổi (Ụ nổi) Mỹ kéo đến Hải- Phòng viện trợ cho Pháp vào giữa tháng 12 năm 1950. Sau đó chuyển giao cho Hải-Quân Việt-Nam với danh số HQ9600

hai quan ra khoi-chuong 3

Căn cứ vào quá trình hoạt động hết sức tốt đẹp của Hải-Đoàn Xung-Phong 2, vào đầu tháng 11/1951, De Lattre quyết định bành trướng thêm đơn vị Hải-Quân Nam-Định thành Liên Đoàn Hải-Quân Xung-Phong 22 với Hải-Đoàn Xung-Phong 2 và Hải-Đoàn Xung- Phong 4 (xin đừng nhầm với Liên Đoàn 3 Tuần Giang thuộc Lục-Quân, cũng đồn trú tại Nam-Định).

Hải-Quân Thiếu Tá Acloque được chỉ định nắm quyền chỉ huy Liên-Đoàn Hải-Quân Xung-Phong 22 gồm cả các Đại Đội Commandos tùng đỉnh (Groupement des Commandos du North Viet-Nam) như: Tempête, Tigre, Jaubert (tên của người sáng kiến ra DINASSAUT), Romary, Sieffer và Orange. Tất cả đơn vị Hải-quân trong sông tại Nam-Định thao dượt, chuẩn bị tham dự chiến dịch tái chiếm thị xã Hòa-Bình.(4)

Vào thời điểm Liên-Đoàn Hải-Quân Xung-Phong 22 được thành lập thì công cuộc xây cất Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang cũng được khởi sự.

Ngày 6 tháng 3 năm 1952 Hải-Quân Việt-Nam chính thức ra đời.

Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Phó Đô Đốc Paul Ange Philippe Ortoli khánh thành Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Cũng trong tháng này, Hải-Quân Việt-Nam nhận lãnh trách nhiệm dọc bờ biển và trong sông.

Từ khi nhận lãnh trách nhiệm trong sông, Hải-Đoàn Xung-Phong được Hải-Quân Việt-Nam tổ chức như sau:

Tổ Chức.- Chỉ Huy Trưởng của mỗi Hải-Đoàn Xung- Phong có thể là Thiếu Tá hoặc Đại Úy Hải-Quân. Về sau, vì thiếu sĩ quan, một số sĩ quan tốt nghiệp từ trường Bộ-Binh Thủ-Đức biệt phái cũng được huấn luyện để giữ những chức vụ này.

Năm 1965, danh từ Hải-Đoàn Xung-Phong được đổi thành Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault Group).

Trang Bị.- Mỗi Giang-Đoàn Xung-Phong được trang bị:

- 6 LCVP – mỗi LCVP được trang bị 1 đại bác 20 ly và 2 trung liên 7 ly 62.
- 6 FOM – mỗi Fom được trang bị 1 đại liên 12 ly 7 và 3 trung liên 7 ly 62.
- 4 LCM – mỗi LCM được trang bị 2 đại bác 20 ly và 2 đại liên 12 ly 7.
- 1 Monitor Combat – được trang bị 1 đại bác 40 ly, 1 súng cối 81 ly, 2 trung liên 7 ly 62 và 1 đại liên 12 ly 7.
- 1 Commandement – được trang bị 2 đại liên 12 ly 7 hoặc 1 đại liên 40 ly, 2 trung liên 7 ly 62 hoặc 20 ly và 1 súng cối 81 ly.

Ngoài ra, trên mỗi giang đỉnh đều có súng cá nhân như M79, M16 và 57 trực xạ.

Nhiệm Vụ.- Chuyển vận, tuần tiễu, yểm trợ những đồn ven sông, bảo vệ thủy trình, tản thương và phối hợp hành quân với quân bạn, v.v…

Vùng Hoạt Động.- Tất cả sông rạch thuộc miền Nam Việt-Nam. (5)

Đội hình di chuyển **
- 2 LCVP (Landing Craft Vehicle Personnel – Trung Vận Đỉnh)
- 2 FOM (Truy Kích Đỉnh)
- 1 Monitor Combat (Chiến Đấu Đỉnh)
- 1 LCM (Landing Craft Mechanizes – Quân Vận Đỉnh)
- 2 LCVP
- 1 LCM
- 2 FOM
- 1 LCM
- 2 LCVP
- 1 LCM
- 1 Commandement (Soái đỉnh)
- 2 FOM.

(1) Tucker Spencer C. Encyclopedia of Vietnam war. London 1999, trang 103.
- Năm 1948, Dinassaut 1 (tiền-thân của GĐ 21 XP) ra đời ở Cochinchine (Nam-Việt).
- Năm 1951, Dinassaut 2 (tiền-thân của GĐ 22 XP) ra đời ở Tonkin (Bắc-Việt).
(2) Carl Von Clausewitz (1780-1831) gia nhập Thiếu-sinh-quân Phổ (Prussian) năm 1792, thăng cấp tướng năm 1818. Với kinh nghiệm binh-nghiệp lâu dài được trình bày qua học-thuyết quân-sự “Chiến-tranh là một công-cụ của chính-sách” mà Clausewitz khẳng định trong quyển binh-pháp độc nhất của mình ON WAR (VOM KRIEGE) xuất bản năm 1833, sau khi ông chết được 2 năm. Các nước Âu-Châu bắt đầu nghiên cứu học-thuyết Clausewitz từ năm 1873, đến năm 1990 thì học-thuyết này được quảng-bá khắp các nước Mỹ, Nga và Nhật
.

(3) Ảnh của Trương Thanh Việt / hqvnch.org

(4) Trích Giang Đoàn Xung Phong của Nguyễn Văn Ơn / hqvnch.org

(5) Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

**Đội hình có thể thay đổi tùy theo nhu cầu chiến trường

 

LIÊN-ĐOÀN TUẦN-GIANG *

hai quan ra khoi-chuong 3

Thành Lập

Để đáp ứng nhu cầu chiến trường, Lực-Lượng Giang- Phòng được thành lập – đặt dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Trung Tá Trần Văn Chơn – và trực thuộc Bộ Tư Lệnh Địa Phương Quân.

Về sau, danh xưng Lực-Lượng Giang-Phòng được đổi thành Liên-Đoàn Tuần-Giang, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải-Quân.

Bộ Chỉ Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang đặt tại Saigon.

Tổ Chức

Khóa Tuần Giang đầu tiên do Hải-Quân huấn luyện. Sau đó, Trung Tâm Huấn Luyện Tuần-Giang được thành lập tại Cát-Lái.

Ba đại đội sửa chữa được đặt tại Saigon, Cần-Thơ và Mỹ-Tho.

Quảng Trị

Về hành chánh: Bộ Chỉ Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải-Quân về quản trị nhân viên, thuyên chuyển, bổ nhậm, tiếp liệu, sửa chữa, v.v…

Về hành quân: Đại Đội Tuần-Giang đặt dưới sự điều động và xử dụng của Tiểu Khu.

Thành Phần

Liên Đoàn Tuần Giang gồm 24 Đại-Đội, kể từ Đại-Đội 11 Tuần Giang đến Đại Đội 34 Tuần Giang.

Mỗi Đại Đội Tuần-Giang được một Thiếu Tá hoặc Đại Úy chỉ huy.

Trang Bị

Đại-Đội Tuần-Giang được trang bị 1 LCM8 và 8 hoặc 9 LCVP.

Mỗi giang đỉnh được trang bị đại liên 50, đại liên 30 và M72.

Nhiệm Vụ

Mỗi Tiểu-Khu được tăng phái một hoặc hai Đại Đội Tuần-Giang để thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

  • Chuyên chở Bộ-Binh và phối hợp với những đơn vị bạn tham dự các cuộc hành quân do Tiểu-Khu tổ chức.
  • Kiểm soát ghe thuyền để khám phá và ngăn chận sự xâm nhập của địch.
  • Tuần tiễu và giữ an ninh cầu cống trên những thủy trình do Tiểu-Khu chỉ định.
  • Bảo vệ an ninh ấp, xã, yểm trợ hỏa lực và tiếp viện đồn bót ven sông.
  • Hộ tống xà-lan đạn, dầu, thực phẩm, v.v…

Chỉ Huy Trưởng cuối cùng: Đại Tá Kỹ Thuật Nguyễn Văn Kinh.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh.

LỰC-LƯỢNG ĐẶC-NHIỆM 99 *

Thành Lập

Ngay sau khi trở lại nhậm chức Tư Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang ra lệnh thành lập Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

Ngày 8 tháng 4 năm 1975 Lực Lượng 99 được thành lập và được đặt dưới sự điều động trực tiếp của Tư Lệnh Hải-Quân chứ không theo hệ thống quân giai.

Hậu cứ là Căn Cứ Hải-Quân Nhà-Bè.

Vì tính cách cấp thời, Bộ Tham Mưu Lực-Lượng chỉ gồm có: Chỉ Huy Trưởng, một Trung Úy, một tài xế và một thượng sĩ vô tuyến.

Trang Bị

Lực-Lượng ĐặcNhiệm 99 gồm hơn 50 chiến đỉnh, là sự kết hợp của:

- Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận
- Giang-Đoàn 59 Tuần-Thám
- Một phần của Giang-Đoàn 22 Xung-Phong
- Sáu LCM8 của Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận
- Một toán trục vớt
- Một toán tiền phong đỉnh
- Một đại đội Hải-Kích
- Một đơn vi Địa Phương Quân
- 3 súng phun lửa.

Phạm Vi Hoạt Động

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được xem như Lực-Lượng tổng trừ bị của Hải-Quân, với mục đích giải tỏa áp lực nặng của địch ở bất cứ nơi nào thuộc phạm vi hoạt động của Hải-Quân.

Và Lực-Lượng 99 cũng được xem như là Lực-Lượng cuối cùng do Hải-Quân V.N.C.H. thành lập.

Chỉ Huy Trưởng đầu tiên và cũng là cuối cùng: Hải-Quân Đại Tá Lê Hữu Dõng.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi của Điệp-Mỹ-Linh


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải Việt Nam để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG III tiếp theo (b)

VÙNG DUYÊN HẢI

HÀNH QUÂN LƯU-ĐỘNG-BIỂN*


Tổ Chức

Hành-Quân Lưu-Động-Biển trực thuộc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển chịu trách nhiệm tất cả hành quân trên biển.
Đầu thập niên 60, những đại đơn vị Hải-Quân vừa thành lập tại các vùng duyên hải miền Nam Việt-Nam được mang tên là Duyên Khu; vị chỉ huy của mỗi Duyên Khu được gọi là Chỉ Huy Trưởng. Đến giai đoạn Hải-Quân phát triễn, danh từ Duyên Khu được cải danh là Vùng Duyên Hải; vị Chỉ Huy Trưởng được mang danh xưng là Chỉ Huy Trưởng Hải-Quân Vùng Duyên Hải. Đến năm 1970, danh từ Chỉ Huy Trưởng Vùng Duyên Hải được đổi thành Tư Lệnh Hải-Quân Vùng Duyên Hải. (1)

Thành Phần

Mỗi Vùng Duyên Hải có một Lực Lượng Đăc Nhiệm, gồm chiến hạm biệt phái, Lực Lượng cơ hữu (Duyên Đoàn) và Hải Đội Duyên Phòng. Miền duyên hải từ Vùng Phi Quân Sự (vỹ tuyến 17) đến mũi Cà-Mau, gồm đảo Phú-Quốc, được chia thành năm Vùng Duyên Hải. Sau đây là những Lực Lượng Đặc Nhiệm tại 5 vùng Duyên Hải:

- Lực Lượng Đặc Nhiệm 11 hoạt động tại Vùng I Duyên Hải
- Lực Lượng Đặc Nhiệm 21 hoạt động tại Vùng II Duyên Hải
- Lực Lượng Đặc Nhiệm 31 hoạt động tại Vùng III Duyên Hải
- Lực Lượng Đặc Nhiệm 41 hoạt động tại Vùng IV Duyên Hải
- Lựu Lượng Đặc Nhiệm 51 hoạt động tại Vùng V Duyên Hải

Tư Lệnh Vùng Duyên Hải kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Đặc Nhiệm.
Về hành quân, năm Lực Lượng Đặc Nhiệm của năm Vùng Duyên Hải trực thuộc Lực Lượng Đăc Nhiệm 213.

Nhiệm vụ

Kiểm soát và ngăn chận sự xâm nhập của Bắc quân bằng đường biển. Bảo vệ hải phận và hải đảo của Việt-Nam Cộng Hòa từ dưới vĩ tuyến 17 đến mũi Cà-Mau. Yểm trợ hành quân cho 5 Vùng Duyên Hải.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
(1)Được sự bổ túc và xác định của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên Hải.

LỰC LƯỢNG DUYÊN PHÒNG *
(Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 213)

hai quan ra khoi-chuong 3b

Tiến Trình Đưa Đến Sự Thành Lập Lực Lượng Duyên Phòng

Tháng 2 ngày 16 năm 1965, một chiếc tàu trọng lượng 100 tấn của Việt Cộng được ngụy trang đang chuyển vũ khí vào bờ, tại vịnh Vũng-Rô, thuộc hải phận của miền Nam, thì bị một trực thăng của Bộ-Binh Hoa-Kỳ phát hiện.

Sự kiện Vũng-Rô đưa đến sự thành lập OPERATION MARKET TIME để theo dõi, kiểm soát, ngăn chận sự xâm nhập bằng đường biển của Cộng Sản Việt-Nam vào miền Nam.

Tháng 4 ngày 16 năm 1965, Bộ Trưởng Hải-Quân Hoa-Kỳ, Paul Nitze, yêu cầu Tổng Trưởng Tài Chánh Hoa-Kỳ, Henry Fowler, cho Lực Lượng Duyên Phòng Hoa-Kỳ hỗ trợ Hải-Quân V.N.C.H. chống lại những cuộc xâm nhập ven biển để chuyển quân, vũ khí và quân dụng của Việt Cộng từ miền Bắc.

Tháng 4 ngày 29 năm 1965, Tổng Thống Hoa-Kỳ, Lyndon Johnson, chỉ thị Lực Lượng Duyên Phòng (U.S.C.G. – United States Coast Guard) đến Việt-Nam, đặt dưới sự điều động của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Sự hình thành của Coast Guard Squadron One (RONONE) được thông báo.

Tháng 5 ngày 27 năm 1965, Coast Guard Squadron One – RONONE – được điều động.

Tháng 6 ngày 12 năm 1965, Coast Guard Squadron One – RONONE – được đặt dưới sự chỉ huy của Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương.

Tháng 7 ngày 16 năm 1965, Phân Đội (Division) 12 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – rời Subic Bay, Phi Luật Tân, để đến Đà-Nẵng.

Tháng 7 ngày 20 năm 1965, Phân Đội 12 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – đến Đà-Nẵng.

Tháng 7 ngày 21 năm 1965, Coast Guard OPERATION MARKET TIME bắt đầu tuần tiễu với 5 WPB (Coast Guard Patrol Cutters/Boats – Tuần Duyên Đỉnh) dọc theo vùng phi quân sự (DMZ).

Tháng 7 ngày 24 năm 1965, Phân Đội 11 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – rời Subic Bay, Phi Luật Tân, để đến An-Thới, Phú-Quốc.

Tháng 7 ngày 30 năm 1965, Lực Lượng Đặc Nhiệm 115 (Task Force 115 – Market Time) được thành lập.

Tháng 7 ngày 31 năm 1965, Phân Đội 11 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – đến An-Thới.

Tháng 9 ngày 19 năm 1965, lần đầu tiên Tuần Duyên Đỉnh Point Glover, WPB 82307, bắt được một tàu của Việt Cộng xâm nhập.

Tháng 10 ngày 29 năm 1965, Bộ Trưởng Hải-Quân Hoa-Kỳ, Paul Nitze, yêu cầu Lực Lượng Duyên Phòng Hoa-Kỳ tăng số lượng Tuần Duyên Đỉnh để tuần tiễu bờ biển Nam Việt-Nam.

Tháng 12 ngày 12 năm 1965, Phân Đội 13 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – được thành lập.

Tháng 2 ngày 18 năm 1966, Phân Đội 13 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – rời Subic Bay, Phi Luật Tân, để đến Cát-Lỡ

Tháng 2 ngày 22 năm 1966, Phân Đội 13 thuộc Coast Guard Squadron One – RONONE – đến Cát-Lỡ.

Tháng 5 ngày 10 năm 1966, hai Tuần Duyên Đỉnh Point Grey, WPB82324, và Point Cypress, WPB82326, phá hủy một tàu ngụy trang của Việt Cộng. Chiếc tàu ngụy trang này đã dồn mọi nỗ lực để mong đạt được kết quả, kể từ sau sự kiện Vũng-Rô.

Tháng 6 ngày 20 năm 1966, ba Tuần Duyên Đỉnh: Point League, WPB82304, Point Slocum, WPB 82313 và Point Hudson, WPB 82322 bắt được một chiếc tàu ngụy trang.

Tháng 8 ngày 11 năm 1966, Trung Úy David C. Brostrom, thuyền trưởng Tuần Duyên Đỉnh Point Welcome, WPB 82329, và nhân viên Jerry Phillips bị tử thương vì Không-Quân Hoa-Kỳ bắn nhầm trong khi tuần hành tại Cửa-Việt, gần Khu Phi Quân Sự (DMZ). Richard Patterson đã anh dũng cứu tất cả đoàn viên và chiếc Tuần Duyên Đỉnh. Richard Patterson được ân thưởng Bronze Star.

Tháng 9 ngày 2 năm 1966, LORAN-C đồn trú tại Côn-Sơn hoạt động như một phần của OPERATION TIGHT REIGN.

Tháng 10 ngày 15 năm 1966, Lực Lượng Tuần Duyên Hoa-Kỳ phụ trách về an ninh hải cảng và sông rạch đến Việt-Nam.

Tháng 10 ngày 28 năm 1966, LORAN-C tại Côn-Sơn tham dự hành quân.

Tháng 1 ngày 1 năm 1967, Tuần Duyên Đỉnh Point Gammon, WPB 82328, phá hủy một tàu ngụy trang.

Tháng 3 ngày 14 năm 1967, Tuần Duyên Đỉnh Point Ellis, WPB 82330, phá hủy một tàu ngụy trang.

Tháng 4 ngày 24 năm 1967, theo yêu cầu của Hải-Quân Hoa-Kỳ, 5 Tuần Duyên Đỉnh có sức chịu đựng cao độ được sát nhập thành Coast Guard Squadron Three (RON THREE) tại Trân Châu Cảng.
Tháng 5 ngày 15 năm 1967, Coast Guard Squadron Three – RONTHREE – bắt đầu tuần tiễu hành quân Market Time.

Tháng 5 ngày 22 năm 1967, lần đầu tiên US Coast Guard Cutter Barataria – WHEC 381 – khai hỏa yểm trợ hành quân.

Tháng 7 ngày 15 năm 1967 Tuần Duyên Đỉnh Point Orient, WPB 82319, bắt được một tàu ngụy trang.

Tháng 2 ngày 29 và tháng 3 ngày 1 năm 1968, một cuộc hành quân hỗn hợp lớn nhất của Hải-Quân được thực hiện. Kết quả:
- Whec Androscoggin (White Endurance Cutters – Tuần Dương Hạm, WPG 68) cùng 2 Tuần Duyên Đỉnh Point Welcome, WPB 82329 và Point Grey, WPB 82324, phá hủy 1 tàu ngụy trang.
- Whec Winona, WPG 65, cùng 3 Tuần Duyên Đỉnh Point Grace, WPB 82323, Point Marone, WPB 82331 và Point Hudson, WPB 82322, phá hủy một tàu ngụy trang.
- Một tàu ngụy trang bị phá hủy nhưng không có sự tham dự của đơn vị Tuần Duyên.
- Whec Minnetonka, WPG 67, hiện diện khiến chiếc tàu ngụy trang phải thối lui.

Tháng 4 ngày 3 năm 1968, phi công trực thăng thuộc Lực Lượng Tuần Duyên Hoa-Kỳ đến Việt-Nam để thực hiện những chuyến bay tìm kiếm và cấp cứu.

Tháng 6 ngày 9 năm 1968, Trung Úy Jack C. Rittichier, trong khi bay cùng phi đoàn 37 (ARRS – Aerospace Rescue and Recovery Squadron) bị bắn hạ khi Ông cố tình muốn cứu một phi công Thủy Quân Lục Chiến bị bắn hạ trước đó. Sau hành động anh dũng này, Trung Úy Rittichier được ân thưởng huy chương Distinguished Flying Cross. (1)

Tháng 11 năm 1968, Lực Lượng Đặc Nhiệm CTF115 (Coastal Task Force 115) bắt đầu hành quân trong những sông lớn thuộc sông Mekong, như một phần của cuộc hành quân Sealords. Hành quân Sealords làm tê liệt những cuộc chuyển vũ khí của Việt Cộng từ Cao-Miên vào miền Nam Việt-Nam. (2)

Tháng 12 ngày 5 năm 1968, Heriberto S. Hernandez của Tuần Duyên Đỉnh Point Cypress, WPB 82326 tử trận trong cuộc chạm súng tại Cà-Mau.

Tháng 3 ngày 22 năm 1969, Morris S. Beeson của Tuần Duyên Đỉnh Point Orient, WPB 82319, bị tử trận trong khi thi hành nhiệm vụ.

Tháng 8 ngày 9 năm 1969, Trung Úy Michael W. Kirkpatrick, thuyền trưởng Tuần Duyên Đỉnh Point Arden, WPB 82309, và Michael H. Painter bị tử trận vì Tuần Duyên Đỉnh bị pháo kích.
Tháng 8 ngày 15 năm 1969, LORAN-C đồn trú tại Tan-Mỹ tham dự hành quân. (3)

Đầu tháng 10 năm 1969, những Tuần Duyên Đỉnh đã tham dự hành quân Market Time được tuần tự chuyển nhượng cho Hải-Quân V.N.C.H. theo chương trình Việt-Nam hóa chiến tranh. (4)

Tháng 8 ngày 15 năm 1970, hai Tuần Duyên Đỉnh cuối cùng thuộc Coast Guard Squadron One – RON ONE – Point Marone, WPB 82331 và Point Cypress, WPB 82326, được chuyển giao cho Hải-Quân V.N.C.H. Phân Đội 13 và Coast Guard Squadron One – RONONE – giải tán. (5)

Trên đây là nguyên nhân và diễn tiến đưa đến sự thành lập Lực Lượng Duyên Phòng –danh xưng về hành quân là Lực Lượng Đặc Nhiệm 213 – thuộc Hải-Quân V.N.C.H.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 213 được thành lập dự tính sẽ thay thế Coastal Task Force (CTF 115) sau khi quân đội Mỹ rút lui.

- CTG 115.1 do cố vấn trưởng Vùng I Duyên Hải đảm nhiệm
- CTG 115.2 do cố vấn trưởng Vùng II Duyên Hải đảm nhiệm
- CTG 115.3 do cố vấn trưởng Vùng III Duyên Hải đảm nhiệm
- CTG 115.4 do cố vấn trưởng Vùng IV Duyên Hải đảm nhiệm
- CTG 115.5 do cố vấn trưởng Vùng V Duyên Hải đảm nhiệm.

Tại Vùng II Duyên Hải có 2 Coastal Task Unit (CTU – Phân Đoàn Đặc Nhiệm):

- CTU 115.2.1 đồn trú tại Qui-Nhơn, trực thuộc CTG 115.2
- CTU 115.2.2 đồn trú tại Cam-Ranh, trực thuộc CTG 115.2

Tại mỗi CTG đều có một Coastal Serveillence Center (CSC – Trung tâm kiểm sóat Duyên Hải). Mỗi trung tâm kiểm soát được đặt tại Trung Tâm Hành Quân của mỗi Vùng.(6)

Tổ Chức
Lực Lượng Duyên Phòng trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải-Quân; gồm có Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó và Tham Mưu Trưởng.
Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Duyên Phòng được đặt tại Cam-Ranh.

Thành Phần
Lực Lượng Duyên Phòng được chia thành 5 Liên Đoàn Duyên Phòng:

- Liên Đoàn Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.1
- Liên Đoàn Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.2
- Liên Đoàn Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.3
- Liên Đoàn Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.4
- Liên Đoàn Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213.5

Lực Lượng Duyên Phòng gồm có 5 Hải Đội Duyên Phòng, đồn trú tại 5 Vùng Duyên Hải.

Trang Bị

- Hải Đội I Duyên Phòng đồn trú tại Đà-Nẵng, được trang bị 7 WPB và 20 PCF
- Hải Đội II Duyên Phòng đồn trú tại Qui-Nhơn, được trang bị 8 WPB và 20 PCF; được chia thành 2 Phân Đội.
-.* Phân Đội 21 Duyên Phòng đóng tại Qui Nhơn
-.* Phân Đội 22 Duyên Phòng đóng tại Cam Ranh
Riêng tại Cam-Ranh còn có thêm 4 PG (Patrol Gunboat), được CTF 115 xử dụng vào việc tuần dương. PG có vận tốc nhanh, trang bị hỏa lực mạnh với 2 giàn phóng TORPEDO.
- Hải Đội III Duyên Phòng đồn trú tại Cát-Lỡ, được trang bị 6 WPB và 20 PCF.
- Hải Đội IV Duyên Phòng đồn trú tại An-Thới, được trang bị 4 WPB và 20 PCF.
- Hải Đội V Duyên Phòng – trong giai đoạn mới thành lập thì di động tùy theo nhu cầu hành quân – về sau đồn trú tại Năm Căn, được trang bị 36 PCF (Patrol Craft Fast – Duyên Tốc Đỉnh) (7)
Mỗi PCF được trang bị 1 súng cối 81 ly đặt phía sau, bên trên là đại liên 12 ly 7.
Tư Lệnh Lực Lượng Duyên Phòng cuối cùng: Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí. **

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
** Tên thật và chức vụ của nhà thơ Hữu-Phương
1-3-5.- U.S. Coast Guard in Vietnam Chronology
2-4.- Vietnam War Photos - Coastal Surveillance Force
6-7.- Ông Nguyễn Tấn Đơn

HẠM-ĐỘI *


Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội được đặt dưới sự điều động của Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Bộ Tư Lệnh Hạm Đội được đặt tại Hải-Quân Công-Xưởng.

Thành Phần
■ Hạm-Đội gồm có 3 Hải-Đội; được phân nhiệm như sau:

- Hải-Đội I Tuần-Duyên gồm có:VH PGM (Patrol Motor Gunboat – Tuần Duyên Hạm) từ HQ 600 đến HQ 619.
- LSIL (Landing Ship Infantry Large – Giang Pháo Hạm) từ HQ 327 đếnHQ 331.
- LSSL (Landing Ship Support Large – Trợ Chiến Hạm) từ HQ 225 đến HQ 231.
Nhiệm vụ: tuần tiễu, kiểm soát, bảo vệ vùng cận duyên.

■ Hải-Đội II Chuyển-Vận gồm có:■

- LST (Landing Ship Tank – Dương Vận Hạm) từ HQ 500 đến HQ 505.
- LSM (Landing Ship Medium – Hải Vận Hạm) HQ 402 đến HQ 406.
- LSM 400 (Bệnh Viện Hạm Hát-Giang) và LSM 401 (Bệnh Viện Hạm Hàn-Giang)
- LST loại lớn HQ 800 và HQ 801.
- Cơ-Xưởng-Hạm Vĩnh-Long, HQ 802.
- LCM (Landing Craft Mechanizes – Quân Vận Đỉnh) từ 530…
-YOG (Gasoline Barge, Self-Propelled – Hỏa Vận Hạm) từ HQ 470 đến
HQ 475.
Nhiệm vụ: Hành quân đổ bộ, yểm trợ tiếp vận, y-tế, sửa chữa.
■ Hải-Đội III Tuần-Dương gồm có:

- PCE (Patrol Craft Escort – Hộ Tống Hạm) từ HQ 7 đến HQ 14.

- WHEC (White High Endurance Cutter – Tuần Dương Hạm) HQ 2, HQ 3, HQ 5, HQ 6, HQ 15, HQ 16 và HQ 17. DER (Radar Picket Escort – Khu Trục Hạm) HQ 1 và HQ 4.

Nhiệm vụ: Tuần tiễu, ngăn chận, nghênh chiến khi tàu địch xâm nhập hải phận Việt-Nam.

Phạm Vi Hoạt Động

Khắp 4 vùng chiến thuật, từ vỹ tuyến 17 đến Cà-Mau, cả biển lẫn sông.
Tư-Lệnh Hạm-Đội cuối cùng: Hải-Quân Đại Tá Phạm Mạnh Khuê.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi của Điệp-Mỹ-Linh

VÙNG I DUYÊN-HẢI*

Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Vùng I Duyên-Hải gồm có Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.
Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Khu Quân-Sự Tiên-Sa; gồm tất cả đơn vị Hải, Lục, Không-Quân đồn trú tại bán đảo Sơn-Chà.
Bộ-Tư-Lệnh Vùng I Duyên-Hải đặt tại Tiên-Sa Đà-Nẵng.

Thành phần
Vùng I Duyên Hải gồm có những đơn vị sau đây:

  • Hải-Đội I Duyên-Phòng.
  • Giang-Đoàn 32 Xung-Phong tại Huế.
  • Giang-Đoàn 92 Trục-Lôi tại Thuận-An.
  • Giang-Đoàn 60 Tuần-Thám tại Thuận-An.
  • Duyên-Đoàn 11 tại Cửa-Việt.
  • Duyên-Đoàn 12 tại Thuận-An.
  • Duyên-Đoàn 13 tại cửa Tư-Hiền.
  • Duyên-Đoàn 14 tại Hội-An.
  • Duyên-Đoàn 15 tại Chu-Lai.
  • Duyên-Đoàn 16 tại Quảng-Ngãi.
  • 4 đài kiểm-báo (1):

*.- 101 tại Cù Lao Ré - Quảng Ngãi
*.- 102 tại phía Bắc Vùng I Duyên Hải
*.- 103 tại Sơn Chà
*.- 104 tại Đức Phổ - Quảng Ngãi

  • Các Căn Cứ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ.

Ngoài ra, vùng I Duyên-Hải còn có một số chiến hạm biệt phái.

Phạm Vi Hoạt Động
Vùng Duyên-Hải và sông rạch các tỉnh Quang-Trị, Thừa-Thiên, Đà-Nẵng và Quảng-Ngãi.
Tư-Lệnh cuối cùng: Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
(1) Theo sự hiệu đính của ông Lê Chánh Thiêm

hai quan ra khoi-chuong 3b

VÙNG II DUYÊN-HẢI*

Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải gồm Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, khi mới thành lập được đặt tại trại Tây-Kết Nha-Trang, sau được dời về Cam-Ranh.

Thành phần
Gồm các đơn vị sau đây:

  • Hải-Đội II Duyên-Phòng đóng tại Qui-Nhơn.
  • Duyên-Đoàn 21 tại Qui-Nhơn
  • Duyên-Đoàn 22 tại Poulo Gambir.
  • Duyên-Đoàn 23 tại Sông-Cầu.
  • Duyên-Đoàn 24 tại Tuy-Hòa.
  • Duyên-Đoàn 25 tại Hòn-Khói.
  • Duyên-Đoàn 26 tại Bình-Ba.
  • Duyên-Đoàn 27 tại Ninh-Chữ Phan-Rang.
  • Duyên-Đoàn 28 tại Phan-Thiết.
  • Các Căn-Cứ Yểm-Trợ.
  • Một số chiến hạm biệt phái.
  • Bốn Đài-Kiểm-Báo:

*.- 201 tại Poulo Gambir
*.- 202 tại Hòn Tre
*.- 203 tại Hòn Lớn
*.- 204 tại Mũi Dinh

Phạm Vi Hoạt Động

Trách nhiệm Vùng Duyên Hải thuộc các tỉnh Bình-Định, Phú-Yên, Khánh-Hòa, Cam-Ranh, Phan-Rang và Phan-Thiết.
Tư-Lệnh cuối cùng: Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

hai quan ra khoi-chuong 3b

 

VÙNG III DUYÊN-HẢI*

Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Vùng III Duyên-Hải gồm có Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải đóng tại Cát-Lỡ.

Thành phần
Gồm có những đơn vị sau đây:

  • Hải-Đội III Duyên-Phòng, đóng tại Cát-Lỡ
  • Duyên Đoàn 31 tại Hàm Tân
  • Duyên Đoàn 32 tại Vũng-Tàu
  • Duyên-Đoàn 33 tại Rạch-Dừa
  • Duyên-Đoàn 34 tại Bến-Tre
  • Duyên-Đoàn 35 tại Trà-Vinh
  • Duyên Đoàn 36 tại Long Phú
  • Duyên Đoàn 37 tại Bến-Tre
  • Căn-Cứ Yểm-Trợ Cát-Lỡ
  • Bệnh xá Vũng-Tàu
  • Một số chiến hạm biệt phái
  • Bốn đài kiểm báo:

*.- 301 tại Dakoo, Bình-Tuy
*.- 302 tại Núi Lớn
*.- 303 tại Côn-Sơn
*.- 304 đặt trên HQ 406 neo ngoài khơi Ba-Động.

Phạm Vi Hoạt Động
Trách nhiệm miền Duyên-Hải thuộc các tỉnh Phước-Tuy, Gò-Công và Kiến-Hòa.
Tư-Lệnh cuối cùng: Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

hai quan ra khoi-chuong 3b

VÙNG IV DUYÊN-HẢI*

Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Vùng IV Duyên-Hải gồm Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải được đặt tại Phú-Quốc.

Thành phần
Gồm những đơn vị sau đây:

  • Hải-Đội IV Duyên-Phòng đóng tại An-Thới.
  • Duyên-Đoàn 42 tại Hòn Nam-Du.
  • Duyên-Đoàn 43 tại Sông Ông-Đốc, Cà-Mau.
  • Duyên-Đoàn 44 tại Kiên-An, Rạch-Giá; trách nhiệm vùng U-Minh-Thượng, cửa sông Cái-Lớn và Cái-Bé.
  • Duyên-Đoàn 45 tại Bắc-Đảo, Hà Tiên
  • Duyên Đoàn 46 tại An Thới
  • Duyên Đoàn 47 tại An-Thới
  • Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận
  • Một số chiến hạm biệt phái
  • Ba Đài Kiểm Báo:

*.- 402 tại Poulo Dama
*.- 403 tại Hà-Tiên
*.- 404 tại Đồi 162, An Thới.

Phạm Vi Hoạt Động
Trách nhiệm vùng duyên hải từ Mũi Cà-Mau đến biên giới Miên Việt, trong vịnh Thái-Lan.
Tư-Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ Linh

hai quan ra khoi-chuong 3b

VÙNG V DUYÊN-HẢI*

Tổ Chức
Bộ-Tư-Lệnh Vùng V Duyên-Hải gồm có Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.
Bộ-Tư-Lệnh Vùng V Duyên-Hải được đặt tại Năm-Căn thuộc tỉnh An-Xuyên.

Thành phần
Lực-Lượng cơ hữu Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải gồm có:

  • Hải-Đội V Duyên-Phòng.
  • Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận tăng phái
  • Giang-Đoàn 53 Tuần-Thám tăng phái
  • Giang Đoàn 71 Thủy Bộ tăng phái
  • Duyên-Đoàn 36 tại cửa Định-An.
  • Duyên-Đoàn 41 tại Poulo Obi.
  • Đài kiểm báo 401 đặt trên núi Poulo Obi.
  • Căn-Cứ Hải-Quân.
  • Tiền-Doanh Yểm-Trợ.
  • Một số chiến hạm biệt phái.

Vùng Hoạt Động
Trách nhiệm miền duyên hải của các tỉnh Ba-Xuyên, Bạc-Liêu, An-Xuyên (Cà-Mau), một phần duyên hải của tỉnh Kiên-Giang (Rạch-Giá) và các đảo Poulo Obi, Fais Obi, v.v…
Ngoài ra, Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận và Giang-Đoàn 53 Tuần-Thám chịu trách nhiệm sông Năm-Căn – giới hạn từ cửa Bồ-Đề đến cửa Bảy-Hạp – sông Đồng-Cùng và Chi-Khu Năm-Căn.
Tư-Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại-tá Nguyễn Văn May.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

 

LỰC-LƯỢNG HẢI-THUYỀN*

hai quan ra khoi-chuong 3b
Thành Lập
Khởi thủy, Lực Lượng Hải Thuyền là một Lực Lượng bán quân sự, do sĩ quan Hải-Quân tuyển mộ, huấn luyện và chỉ huy. Thời gian huấn luyện là ba tháng.
Khi mới thành lập, mỗi đơn vị của Lực-Lượng Hải-Thuyền được gọi là Đội Hải-Thuyền. Đoàn viên đều tự nguyện xâm hai chữ Sát Cộng bên trái lồng ngực.
Đội Hải Thuyền được 1 Thiếu Úy hoặc hoặc Trung Úy chỉ huy.


Tổ Chức
Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Thuyền đặt ở Phú-Quốc; đến tháng 2 năm 1963 được dời về Cam-Ranh.

- Năm 1960, Bộ Chỉ Huy Duyên Khu Đà-Nẵng thành lập 6 Đội Hải Thuyền; từ Đội Hải Thuyền 11 đến Đội Hải Thuyền 16.
- Năm 1961, Bộ Chỉ Huy Duyên Khu Phú-Quốc thành lập 7 Đội Hải Thuyền; từ Đội Hải Thuyến 41 đến Đội Hải Thuyền 47
- Năm 1962, Bộ Chỉ Huy Duyên Khu Vũng-Tàu thành lập 7 Đội Hải Thuyền; từ Đội Hải Thuyền 31 đến Đội Hải Thuyền 37.
- Năm 1963, Bộ Chỉ Huy Duyên Khu Nha-Trang thành lập 8 Đội Hải Thuyền; từ Đội Hải Thuyền 21 đến Đội Hải Thuyền 28. (1)

Thành phần:
Mỗi Đội Hải Thuyền gồm có:

- 3 ghe Chủ Lực
- 3 ghe Di Cư
- 20 ghe buồm

Trang B
Mỗi ghe Chủ-Lực được trang bị 1 đại liên 50 trước mũi, 1 đại liên 30 sau lái và nhiều súng cá nhân.
Mỗi ghe Di-Cư được trang bị 2 đại liên 30 và nhiều súng cá nhân.
Ghe Buồm chỉ được trang bị súng cá nhân.
Ghe Yabuta được trang bị 2 đại bác 20 ly bên hông.
Y phục của Đoàn Viên là bà ba đen.

Nhiệm Vụ
Tuần tiễu, kiểm soát và ngăn chận sự xâm nhập và trà trộn của Việt-Cộng vào những làng ven biển
Phạm Vi Hoạt Động
Dọc theo miền Duyên Hải Nam Việt-Nam
Sau khi được sát nhập vào Hải-Quân, danh xưng Đội Hải-Thuyền được đổi thành Duyên-Đoàn và Đoàn Viên mặc quân phục Hải-Quân.
Về sau, cấp số của mỗi Duyên Đoàn là Thiếu-Tá.

* Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
(1) Ông Nguyễn Văn Ơn


LIÊN-ĐOÀN NGƯỜI NHÁI*

hai quan ra khoi-chuong 3b

Thành Lập
Liên-Đội Người Nhái được thành lập năm 1961; gồm toàn quân nhân tình nguyện.
Ngay sau khi được thành lập, 12 nhân viên tốt nghiệp khóa Biệt-Hải U.D.T. (Underwater Demolition Teams) tại Đài-Loan huấn luyện lại cho Người Nhái Hải-Quân.

Tổ Chức
Bộ-Chỉ-Huy Liên-Đoàn Người Nhái trước đặt tại Ty Quân-Cảng, trong Hải-Quân Công-Xưởng; sau dời về Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái.
Trước năm 1968, Liên-Đội Người Nhái chỉ phụ trách những công tác thám sát hành quân, đổ bộ, lặn và vớt tàu.
Từ năm 1968 trở về sau, khả năng Người Nhái Hải-Quân Việt-Nam được tận dụng đúng mức khi Liên-Đoàn Người Nhái bắt đầu biệt phái nhân viên cho các toán Người Nhái Mỹ – SEAL team – khắp 4 vùng chiến thuật và cho cả chiến dịch Phụng-Hoàng.
Năm 1971, một số sĩ quan trẻ, xuất thân từ Trường sĩ quan Bộ-Binh Thủ-Đức tình nguyện gia nhập và được huấn luyện theo những khóa Hải-Kích Người Nhái Việt-Nam.
Năm 1972, quân số Người Nhái từ 80 tăng lên 600. Liên-Đội Người Nhái trở thành Liên-Đoàn Người Nhái và gồm có:

- Hải-Kích (SEAL – Sea, Air, Land Forces)
- Biệt-Hải (UDT – Underwater Demolition Team)
- Tháo gỡ đạn dược (EOD – Explosive Ordinance Disposal)
- Trục Vớt (vớt tàu)
- Phòng thủ hải cảng
- Giang-Đoàn yểm trợ Hải-Kích (chuyên chở hành quân)
- Toán yểm trợ tiếp vận

Nhiệm Vụ
Xâm nhập vùng đất địch, chống đặc công thủy Việt-Cộng, vớt tàu, cứu tù binh, v.v…

Phạm Vi Hoạt Động
Người Nhái có thể hoạt động trong sông lẫn ngoài biển.
Bất cứ lúc nào Liên-Đoàn Người Nhái cũng có từ 15 đến 20 toán thuộc các ngành để biệt phái khắp bốn Vùng Chiến Thuật.
Khóa Người Nhái cuối cùng là Khóa 8.
Chỉ-Huy-Trưởng cuối cùng: Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp.

*Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh

SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI *

hai quan ra khoi-chuong 3b

(COASTAL SECURITY SERVICE)
NHA KỸ THUẬT – BỘ TỔNG THAM MƯU Q.L./V.N.C.H.


Năm 1954, sau khi hiệp định đình chiến Genève phân chia hai miền Nam Bắc Việt-Nam vừa được ký kết, Giám Đốc Trung Ương Tình Báo Hoa-Kỳ (CIA), Allen Dulles, chỉ thị Đại Tá Không-Quân Edward Lansdale sang Việt-Nam để hỗ trợ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm củng cố Miền Nam cũng như tổ chức những cơ sở bán quân sự nằm vùng tại Bắc Việt trước khi Cộng Sản kiểm soát.

Đại Tá Lansdale lúc đó đang đảm nhiệm chức vụ Phó Giám Đốc Phòng Hành Quân Đặc Biệt thuộc Bộ Quốc Phòng do Thiếu Tướng Graves Erskine làm Giám Đốc. Sở trường của Đại Tá Lansdale là điều hành những hoạt động phản du kích "mật" trong bóng tối.

Tổ chức của Đại Tá Lansdale tại Việt-Nam được gọi là Phái Bộ Quân Sự Sài-Gòn (Saigon Military Mission), trong đó còn có một chuyên viên điệp báo là Thiếu Tá Bộ-Binh Lucien Conein.

Trước khi miền Bắc được trao cho Cộng Sản, nhiều nhân viên dân sự người Việt do Đại Tá Lansdale tuyển mộ, đa số thuộc sắc tộc Nùng, sinh trưởng tại vùng Móng-Cái gần Hải-Phòng và biên giới Hoa Việt, được gửi sang đảo Saipan để huấn luyện về kỹ thuật xâm nhập, nằm vùng và phá hoại.

Khi Việt-Nam chính thức bị chia đôi, những nhân viên dân sự do Đại Tá Lansdale đã được huấn luyện thuần thục và chia thành từng toán nhỏ; sau đó họ được chiến hạm Hoa-Kỳ thuộc Đệ Thất Hạm Đội đổ bộ vào khu vực bờ biển gần nguyên quán. Những nhân viên này được lệnh trà trộn với thân nhân, "nằm yên" không hoạt động gì cả cho tới khi nhận được chỉ thị. Vũ khí, máy truyền tin và vàng được dấu sẵn tại những địa điểm bí mật để phòng khi cần tới. Một trong những "điệp viên chìm" trong thời gian này là Phạm Xuân Ẩn. Nhưng Đại tá Lansdale không biết Ẩn là một tên Việt Cộng nằm vùng.

Về phần miền Nam Việt-Nam, sau khi tình hình tương đối ổn định, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng tổ chức riêng những cơ quan tình báo đặc biệt trực thuộc Phủ Tổng Thống do Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đứng đầu. Một trong những bộ phận dưới quyền Bác Sĩ Tuyến chuyên đảm nhiệm các hoạt động Biệt Kích là Sở Liên Lạc do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, Đại Tá Trần Khắc Kinh phụ tá. Người lo việc tuyển mộ nhân viên cho Sở Liên Lạc là Đại Úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại Tá Lê Quang Tung. Thời điểm đó Đại Úy Lê Quang Triệu còn đảm nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ. Ngoài ra, ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn cũng có những tổ chức điệp báo riêng biệt tại miền Trung.

Sở Liên Lạc chia thành 3 bộ phận chính: Sở Bắc, Sở Nam và Liên Đội Quan Sát.


SỞ BẮC

Sở Bắc, còn được gọi là Phòng 45, do Đại Úy Bộ-Binh Ngô Thế Linh, bí danh là "Bình", điều khiển. Tuy được mệnh danh là Sở Bắc nhưng cơ quan này không những chỉ đảm nhiệm các hoạt động Biệt Kich ở Bắc Việt mà còn tổ chức những cuộc hành quân mật trên đất Lào và Cam Bốt. Tóm lại, Sở Bắc chịu trách nhiệm về những hoạt động Biệt Kích bên ngoài lãnh thổ Việt-Nam Cộng Hòa.(1)
Sở Bắc có chi cục Bộ Vận – Atlantic – xâm nhập bằng đường bộ; và chi cục Hải Vận – Pacific – xâm nhập bằng đường thủy
Chi cục Atlantic đóng tại Huế, do Trung Úy Trần Bá Tuân làm Chi Cục Trưởng, đặc trách việc tuyển mộ, huấn luyện và xâm nhập bằng đường bộ.
Chi cục Pacific đóng tại Đà-Nẵng, do Đại Úy Hà Ngọc Oánh, rồi đến Trung Úy Nông An Pang làm Chi Cục Trưởng, đặc trách việc tuyển mộ, huấn luyện và xâm nhập bằng đường thủy.
Từ năm 1961 đến đầu năm 1964 – trước ngày Sở Phòng Vệ Duyên Hải được chính thức thành lập – Chi Cục Pacific, sau này đổi thành Trại Mỹ Khê, có khoảng 40 nhân viên vừa quân đội vừa dân chính lấy tên là Lực Lượng Hải Kích, đồn trú trong các lều vải lớn tại Trại Orion, cạnh Bộ Tư Lệnh Hải-Quân vùng I Duyên Hải, do Thiếu Úy Nguyễn Duy Vân (Charlie) làm trại trưởng.
Cơ quan CSD (Combined Studies Division) là cố vấn cho 2 chi cục Atlantic và Pacific.(2)


SỞ NAM

Sở Nam hay Phòng 55 do Đại Úy Bộ-Binh Trần Văn Minh chỉ huy, chịu trách nhiệm về những hoạt động Biệt Kích trong lãnh thổ V.N.C.H.


LIÊN ĐỘI I QUAN SÁT

Năm 1956, với sự trợ giúp của Ngũ Giác Đài và CIA, Liên Đội Quan Sát I được thành lập. Bề ngoài, Liên Đội chỉ là một tổ chức thông thường với một số nhân viên trực thuộc về mặt hành chánh, nhưng mọi công tác đều do Sở Liên Lạc điều động. Những nhân viên của Liên Đội được đặc biệt huấn luyện để thi hành công tác "nằm vùng" ngay tại miền Nam trong trường hợp miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản sau cuộc Tổng Tuyển Cử theo tinh thần hiệp định Genève.
Năm 1958, dù cuộc tuyển cử đã bị hủy bỏ, các toán công tác thuộc Liên Đội vẫn còn thực hiện những vụ chôn giấu vũ khí, chất nổ, máy truyền tin và vàng.


CÁC ĐƯỜNG XÂM NHẬP

Năm 1958, khi tình hình miền Nam tương đối ổn định, Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới chính thức yêu cầu Hoa-Kỳ trợ giúp để thực hiện những hoạt động Biệt Kích tại Bắc Việt.
Tháng 1 ngày 1 năm 1959, sau khi Williams Colby thuộc CIA được cử đến Sài-Gòn để sắp đặt các cơ sở cần thiết thì những hoạt động Biệt Kích phối hợp giữa Hoa-Kỳ và Việt-Nam mới chính thức bắt đầu.
Những hoạt động xâm nhập Miền Bắc gồm hai ngã chính là đường hàng không và đường biển.


XÂM NHẬP BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG

Thoạt tiên, CIA mướn một số phi công thuộc công ty Hàng Không Trung Hoa (China Air Lines - CAL) ở Đài-Bắc để huấn luyện những phi công Việt-Nam. Sau này, Phi Đoàn Vận Tải của Không-Quân Việt-Nam do Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ làm Phi Đoàn Trưởng kiêm luôn những chuyến bay thả dù đặc biệt ngoài Bắc.
Tháng 5 ngày 27 năm 1961, chuyến bay đầu tiên do Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ là phi công chính của chiếc phi cơ C-47. Bốn nhân viên của toán Caster được thả dù xuống một vùng rừng núi thuộc tỉnh Sơn-La. Họ đều là người Nùng gốc Sơn-La, nguyên là quân nhân thuộc Sư Đoàn 22 Bộ-Binh, một đơn vị có đa số quân nhân thuộc gốc người thiểu số miền Bắc di chuyển vào miền Nam. Toán Caster được đặt dưới quyền điều động của Sở Khai Thác Địa Hình thuộc Phòng 45 tức là Sở Bắc. Trưởng toán Caster tên là Hà Văn Chấp. Sau khi hoàn tất công tác thả toán, phi cơ của Trung Tá Kỳ rời khỏi Bắc Việt an
toàn bằng ngả không phận Lào.


XÂM NHẬP BẰNG ĐƯỜNG BIỂN

Năm 1956, Sở Liên Lạc cần một số ghe gỗ để chở nhân viên tăng cường cũng như tiếp tế vật liệu cho những toán "nằm vùng" ngoài Bắc bằng đường biển.
Lực lượng xâm nhập gồm toàn nhân viên dân sự là một thành phần của Sở Bắc dưới quyền điều động của "ông Bình", có thể được coi là tiền thân của Sở Phòng Vệ Duyên Hải và Lực Lượng Hải Tuần sau này.
Tháng 2 năm 1961 – tuy những chuyến tiếp tế và liên lạc bằng đường biển vẫn tiếp tục – cơ quan mật vụ của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, với sự trợ giúp cùa CIA Hoa-Kỳ, mới cho đổ bộ 2 điệp viên thực sự lên bờ biển Quảng-Yên. Hai điệp viên này, một người gốc miền Nam, một người gốc miền Bắc tên là Phạm Chuyên, lên bờ an toàn. Chuyên nguyên là một cán bộ trung cấp Việt Cộng hồi chánh bằng cách vượt vĩ tuyến 17 vào năm 1959. Bí danh hoạt động của Chuyên là Ares. Sau này, có bằng cớ cho thấy Ares là một điệp viên nhị trùng.

GHE NAUTILUS

Sau chuyến đổ bộ Ares và điệp viên người miền Nam, các ghe dùng để xâm nhập hải phận miền Bắc đều được đặt bí danh Nautilus, lấy tên chiếc Tiềm Thủy Đỉnh bí mật của Hạm Trưởng Nemo trong cuốn truyện khoa học giả tưởng "20,000 Dậm Dưới Đáy Biển" của văn hào Jules Verne. Những chuyến công tác cũng được gọi là Nautilus.
Những công tác Nautilus đều do CIA điều hành. Thủy thủ đoàn Nautilus vẫn hoàn toàn là nhân viên dân sự do CIA tuyển mộ, nhưng cũng đã có một số Người Nhái thuộc Hải-Quân Việt-Nam được CIA đặc biệt huấn luyện để thi hành những công tác phá hoại bằng chất nổ. Những Người Nhái này đa số thuộc toán 18 quân nhân được gửi đi thụ huấn khóa huấn luyện đặc biệt tại Đài-Loan vào tháng 8 năm 1960 để chuẩn bị cho những công tác "nằm vùng" khi cần.
Ghe Naulitus được kiến tạo bằng gỗ. Ghe khá lớn, dài khoảng 30 thước, có mui, trông giống như ghe đánh cá xa bờ ở vịnh Bắc Việt. Ghe chạy bằng buồm nhưng có gắn máy, vận tốc dưới 10 hải lý/giờ. Vũ khí trang bị gồm có đại liên giấu trong khoang ghe và vũ
khí cá nhân của Thủy Thủ đoàn.
Giữa năm 1963, tại Đà Nẵng, có 7 ghe đặt tên Nautilus 1 tới Nautilus 7, chuyên dùng để xâm nhập hải phận miền Bắc. Lúc đó, thành phần này đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô Thế Linh, trực thuộc Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung.
Trong giai đoạn này, các chuyến xâm nhập bằng đường biển đều thành công tương đối dễ dàng.

THAY ĐỔI HỆ THỐNG CHỈ HUY

Ban đầu, một số công tác Nautilus xâm nhập bằng đường biển đạt được kết quả khả quan; vì địch chưa kịp đề phòng cũng như ứng phó. Nhưng càng về sau, hiệu năng càng giảm sút, vì địch gia tăng lực lượng duyên phòng và cũng vì trong tổ chức xâm nhập miền Bắc có một số ít nhân viên bội phản cho nên nhiều chuyến công tác bằng ghe bị thất bại.
Việc dùng ghe chỉ được lợi điểm có thể trà trộn với thuyền đánh cá địa phương. Nhưng nhờ khai thác tin tức từ Thủy Thủ bị bắt, địch biết khá rành rẽ về những chuyến xâm nhập cho nên những chuyến xâm nhập kế tiếp khó lòng lẩn tránh. Hơn nữa, ghe Nautilus đều có vận tốc chậm và hỏa lực yếu, không thể tự vệ khi bị phát hiện và săn đuổi.
Tháng 6 ngày 28 năm 1962, trong chuyến công tác đánh phá căn cứ Hải-Quân Quảng Khê của Việt Cộng tại cửa sông Gianh, vì hỏa lực yếu và vận tốc chậm nên ghe Nautilus II bị tầu Việt Cộng đuổi kịp và đánh chìm. Từ đó CIA thay thế ghe Nautilus bằng Duyên Tốc Đỉnh (PCF - Patrol Craft Fast) còn gọi là Swift, nhanh hơn và hỏa lực mạnh hơn.
Vì những lý do nêu trên, Đô Đốc Harry G. Felt, Tư Lệnh Quân Đội Hoa-Kỳ tại Thái Bình Dương (CINPAC - Commander In Chief, Pacific), cho rằng những tổ chức mật vụ của CIA không đủ khả năng để hoàn thành sứ mạng xâm nhập. Ông đề nghị dùng phương tiện của Hải-Quân Hoa-Kỳ, trong đó có cả việc dùng tiềm thủy đỉnh thay thế ghe Nautilus.
Khoảng tháng 7 năm 1962, Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara triệu tập một buổi họp giữa Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại Giao và CIA để tìm giải pháp. Mọi người đồng ý chuyển giao phần điều hành các hoạt động biệt kích xâm nhập Bắc Việt từ CIA qua Bộ Quốc Phòng. Việc chuyển giao sẽ được hoàn tất trong vòng một năm dưới kế hoạch mang bí danh Switchback. (3)
Tháng 9 ngày 27 năm 1962, việc xử dụng PTF (Patrol Torpedo Fast – Khinh Tốc Đỉnh) và Người Nhái tại Việt-Nam được Khối Hành Quân Đặc Biệt của Hoa-Kỳ chính thức đề nghị.
Tháng 12 năm 1962, Toán Đặc Biệt (Special Group) thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) cũng chấp thuận đề nghị của Đô Đốc Felt trước đây về việc xử dụng Khinh Tốc Đỉnh và Người Nhái để đảm nhiệm những công tác đổ người lên miền Bắc. Tuy nhiên lúc đó cả tầu lẫn Người Nhái đều chưa có.
Cuối năm 1962, Hoa-Kỳ gửi 2 Duyên Tốc Đỉnh Swift và 2 thuyền trưởng người ngoại quốc sang Việt-Nam. Thủy Thủ đoàn là nhân viên dân chính được tuyển mộ theo hợp đồng dưới danh nghĩa là Dân Sự Chiến Đấu.(4)
Tháng 1 ngày 1 năm 1963, kế hoạch Switchback chính thức khởi đầu. Bộ Tư Lệnh Quân Sự Hoa-Kỳ tại Sài-Gòn (MACV - Military Assistance Command Vietnam) chính thức thay thế CIA đảm nhiệm các công tác dọc theo biên giới lúc bấy giờ đang do nhân viên CIA, Gilbert Layton, chỉ huy.
Đại Tá Geoge Morton thay thế Gilbert Layton, thành lập Toán C Lực Lượng Đặc Biệt, đặt bản doanh tại Nha-Trang, Gilbert Layton làm phụ tá. Riêng các hoạt động ngoài Bắc, tuy do MACV điều động nhưng nhân viên CIA, W.T Chenney, vẫn chịu trách nhiệm.
Tháng 4 năm 1963, một trung tâm huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt cũng được thiết lập tại Long-Thành để huấn luyện các toán sẽ được thả ra Bắc trong khi CIA chuẩn bị bàn giao những hoạt động xâm nhập miền Bắc cho giới chức quân sự.(5)


KẾ HOẠCH 34A (OPLAN 34A)

Tháng 5 năm 1963, Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa-Kỳ chỉ thị Đô Đốc Harry G. Felt soạn thảo dự án yểm trợ chính quyền miền Nam Việt-Nam thi hành những công tác đặc biệt ngoài Bắc.
Tháng 6 năm 1963, Đô Đốc Felt và Bộ Tham Mưu phác họa kế hoạch hành quân sơ khởi dùng chiến thuật "đánh bất ngờ" (hit and run) với mục tiêu chiến lược buộc miền Bắc giảm bớt nỗ lực quân sự tại miền Nam. Theo kế hoạch này, Quân Lực V.N.C.H. đảm trách về nhân viên, Hoa-Kỳ sẽ cung cấp phương tiện và huấn luyện.
Tháng 8 ngày 14 năm 1963, kế hoạch soạn thảo sơ khởi mang tên OPLAN 34-63 được trình lên Bộ Tham Mưu Liên Quân (Joint Chiefs of Staff) và được chấp thuận trên nguyên tắc, chỉ một vài chi tiết nhỏ được yêu cầu thay đổi.
Tháng 9 ngày 9 năm 1963, kế hoạch được tu chỉnh và được chính thức chấp thuận.
Tháng 10 ngày 20 năm 1963, trong cuộc Hội Nghị về Việt-Nam tại Honolulu, Williams Colby – đã được thuyên chuyển về Hoa Thịnh Đốn giữ chức vụ Giám Đốc CIA toàn vùng Viễn Đông – ngỏ ý với Bộ Trưởng Quốc Phòng rằng: Theo kinh nghiệm của CIA, kế hoạch thả các toán nhỏ vào Bắc Việt sẽ không thành công. Nhưng giới chức cao cấp Hoa-Kỳ không đồng ý, cho rằng sở dĩ CIA thất bại vì thiếu phương tiện và khả năng; do đó chỉ thị cho CIA bàn giao kế hoạch xâm nhập miền Bắc cho quân đội.
Trong lúc việc chuẩn bị bàn giao tiến hành khả quan thì cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 3 tháng 11 năm 1963 làm xáo trộn phần nhân sự về phía Việt-Nam trong kế hoạch hành quân. Hai người cầm đầu ban Mật Vụ của Tổng Thống Diệm là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến và Đại Tá Lê Quang Tung không còn nữa. Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm nhận chức Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt rồi tới Đại Tá Lam Sơn Phạm Đình Thứ thay thế chỉ mấy tháng sau đó. Tuy nhiên, cả Phòng 45 tức Sở Bắc và Phòng 55 tức Sở Nam vẫn do Ngô Thế Linh và Trần Văn Minh điều khiển.
Dù gặp trở ngại, những các công tác biệt kích bằng đường biển vẫn được tiến hành.
Tháng 11 năm 1963, một số Người Nhái thuộc toán công tác đường biển rời Đà Nẵng ra Căn Cứ Hải-Quân Cửa-Việt để thực tập chuẩn bị cho công tác đánh phá tầu bè tại các quân cảng Bắc Việt gần vĩ tuyến 17 Bắc.
Trước ngày công tác, cố vấn Mỹ cho Toán công tác xem không ảnh căn cứ Quảng-Khê.
Đầu tháng 12 năm 1963, chuyến công tác được chuẩn bị, mục tiêu là những chiến đĩnh Bắc Việt tại căn cứ Hải-Quân Quảng-Khê, nằm ở cửa sông Gianh thuộc tỉnh Quảng-Bình, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hải-Quân Vùng Nam của Bắc Việt. Nhưng chuyến công tác bị hủy bỏ vì thời tiết xấu. Một trong những Người Nhái tham dự là anh Vũ Văn Gương.
Để hữu hiệu hóa các hoạt động, cả CIA và MACV được chỉ thị tu chỉnh OPLAN 34-63.
Tháng 12 ngày 12 năm 1963, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara báo tin cho Đại Sứ Cabot Logde biết rằng Tổng Thống Johnson muốn đẩy mạnh những cuộc hành quân đặc biệt nhắm vào miền Bắc do lực lượng Nam Việt-Nam đảm trách với sự hỗ trợ của quân lực Hoa Kỳ.
Tháng 12 ngày 15 năm 1963, kế hoạch tu chỉnh mang tên OPLAN 34A, đặt trọng tâm vào việc xâm nhập bằng đường biển, được đệ trình Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ. CIA gọi là Kế Hoạch Tiger.
Mục đích chính của OPLAN 34A là phối hợp áp lực về quân sự và ngoại giao để cảnh cáo Bắc Việt không được gia tăng hoạt động ở Lào cũng như Nam Việt Nam. Như vậy, từ một kế hoạch đổ biệt kích do CIA điều khiển với mục tiêu thâu thập tin tức tình báo và phá hoại, OPLAN 34A vào giai đoạn này trở thành một kế hoạch nặng về chính trị.
Cũng thời điểm này, Hải-Quân Hoa-Kỳ thành lập Toán Yểm Trợ Lưu Động (MST - Mobile Support Team) tại Đà-Nẵng. Toán này gồm một số Người Nhái Hải-Quân (SEAL – Sea, Air, Land), các sĩ quan chuyên về tình báo của Thủy Quân Lục Chiến và nhiều chuyên viên hành quân Biệt Hải Hoa-Kỳ. Ngoài ra, còn có Thủy Thủ đoàn của hai Khinh Tốc Đỉnh đã tới Đà Nẵng. Nhiệm vụ của Toán Yểm Trợ Lưu Động là huấn luyện Thủy Thủ đoàn Việt-Nam về cách xử dụng Khinh Tốc Đỉnh cũng như việc sửa chữa và yểm trợ.
Tháng 12 ngày 19 năm 1963, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Hoa-Kỳ Tại Thái Bình Dương yêu cầu Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa-Kỳ cho phép thi hành kế hoạch OPLAN 34A trong khoảng thời gian 12 tháng để trắc nghiệm.
Cuối năm 1963, dù có tiến bộ về mặt huấn luyện, nhưng những hoạt động biệt kích vẫn không thâu thập được thành quả khả quan như ý muốn. Lý do vì tổ chức chưa được chặt chẽ và nhân viên phần lớn vẫn còn là dân sự, thiếu huấn luyện chuyên môn cũng như kỹ luật quân đội; do đó cần sự tham gia tích cực của Quân-Lực V.N.C.H. (6)
Tháng 2 ngày 12 năm 1964, Đai Tướng Westmoreland gửi công văn cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm – đương kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng – đồng thời cũng gửi cho Tướng Trần Văn Đôn, xin thêm 40 nhân viên cho các Toán công tác để vào năm 1965 có 148 nhân viên được huấn luyện thuần thục, sẵn sàng hoạt động.(7)

THÀNH LẬP M.A.C./S.O.G. VÀ NHA KỸ THUẬT

Tháng 1 ngày 21 năm 1964, kế hoạch OPLAN 34A được Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa-Kỳ đồng ý cho thi hành đợt 1. Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Logde thông báo với Quốc Trưởng Việt-Nam Dương Văn Minh về kế hoạch OPLAN 34A và cho biết chính phủ Hoa-Kỳ đã chấp thuận kế hoạch này và yêu cầu Việt-Nam hợp tác bằng cách cho quân đội tham gia.
Tháng 1 ngày 24 năm 1964, Toán Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Group - SOG) được chính thức thành lập do Đại Tá Clyde Russell chỉ huy, dưới quyền điều động của Phái Bộ Quân Sự Hoa-Kỳ tại Việt-Nam (MACV). Do đó, cơ quan đảm trách những cuộc hành quân đặc biệt này thường được gọi tắt là MACV/SOG hay MAC/SOG.
Về sau, tên Special Operation Group được đổi là Studies and Observation Group (Toán Nghiên Cứu và Quan Sát) cho có vẻ "dân sự", nhưng tên viết tắt vẫn là MAC/SOG.
Kế hoạch OPLAN 34A do MAC/SOG chịu trách nhiệm và gồm có 4 thành phần chính:

- Thả toán bằng phi cơ
- Tiếp tế bằng phi cơ
- Hoạt động đường biển
- Chiến tranh tâm lý

Trong bốn thành phần kể trên, toán "hàng không" có đông nhân viên nhất vì được thừa hưởng 169 nhân viên Việt-Nam đa số là dân sự đang được huấn luyện tại Long-Thành do CIA để lại.
Tháng 1 ngày 28 năm 1964, cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh khiến kế hoạch của MAC/SOG bị chậm lại vì Hoa-Kỳ cần phải được sự chấp thuận và hợp tác của chính phủ mới. Tướng Khánh là một người chủ trương Bắc Tiến.(8)
Tháng 2 ngày 12 năm 1964, Sở Kỹ Thuật (Strategic Technical Service – STS) thuộc Bộ Quốc Phòng V.N.C.H. được thành lập do Đại Tá Trần Văn Hổ chỉ huy. Đại Tá thuộc Cơ Quan Tình Báo Hoa-Kỳ, John K. Singlaub, là cố vấn,(9) để hoạt động song hành với MAC/SOG.
Sở Kỹ Thuật là hậu thân của Sở Khai Thác Địa Hình (Topographic Exploitation Service) trước đây do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Về sau, Sở Kỹ Thuật được đổi tên thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate - STD).(10)

SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI

Tháng 4 ngày 1 năm 1964, Sở Phòng Duyên Hải được thành lập. Nhân viên của hai Chi Cục Atlantic và Pacific được sát nhập và trở thành Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải.
Khi mới thành lập, Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải được đặt tại số 52 đường Bạch Đằng, Đà-Nẵng (còn được gọi là White Elephant Building) cùng doanh trại với cơ quan CSD (Combined Studies Division).
Một cơ quan khác cũng được thành lập cạnh Sở Phòng Vệ Duyên Hải, tên là US Naval Advisory Detachment (NAD). Đây là cơ quan đối nhiệm (Counterpart Organization) của Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Trung Tá Owens.
Về sau, Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải di chuyển về đóng chung với cơ quan Phái Bộ Cố Vấn Hải-Quân (Naval Advisory Detachment – NAD) tại Sơn-Chà. Trại này tên là Trại Fay – tên của Trung Tá Chỉ Huy Trưởng N.A.D. bị tử thương vì mìn, năm 1967. Riêng phòng 2 và phòng 3 đóng tại Lower Base ở Tiên-Sa, chung với các phòng liên hệ của Hoa-Kỳ
Song song với việc xây dựng các doanh trại cho Lực Lượng Biệt Hải và Lực Lượng Hải Tuần, sở Phòng Vệ Duyên Hải còn thiết lập hai trại khác tại Cù Lao Chàm, lấy tên là Phượng Hoàng (Phohenix) và DoDo.(11)
Về phương diện chỉ huy, chính phủ Hoa-Kỳ hoàn toàn đảm nhiệm phần kiểm soát và thiết kế hành quân, MAC/SOG và Nha Kỹ Thuật tại Việt-Nam đảm nhiệm việc thi hành.

Về phương diện tổ chức, phía Hoa-Kỳ, dưới MAC/SOG có Phái Bộ Cố Vấn Hải-Quân (Naval Advisory Detachment - NAD) hay còn được gọi là Toán Hành Quân Đường Biển (Maritime Operation Group - MAROP) chuyên lo về những cuộc hành quân biệt hải có nhiệm vụ thả biệt kích, bắn phá tầu bè, cơ sở quân sự cũng như mở các cuộc hành quân thăm dò dọc duyên hải miền Bắc.
Về phía Nam Việt-Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật có Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service - CSS) làm việc hàng ngang với NAD. Hai cơ quan này thường được gọi chung là NAD/CSS. Giới chức chỉ huy của Sở Phòng Vệ Duyên Hải phối hợp khá chặt chẽ với NAD trong việc điều động nhân viên công tác, thuyết trình trước và sau mỗi cuộc hành quân v.v... Ngoài cơ quan NAD, Sở Phòng Vệ Duyên Hải cũng làm việc rất chặt chẽ với toán Huấn Luyện và Yểm Trợ Lưu Động (MST).
Đa số nhân viên Sở Phòng Vệ Duyên Hải là quân nhân, trong số này phần lớn là Hải-Quân, đôi khi có một số rất nhỏ thuộc Bộ-Binh. Sở Phòng Vệ Duyên Hải làm việc ngang hàng với cơ quan NAD của Hoa Kỳ trong việc chỉ định các toán công tác, huấn luyện và bảo trì chiến đỉnh. Về mặt hành chánh, quân nhân Hải-Quân thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải được xem như biệt phái từ Hải-Quân. Quân số của Sở Phòng Vệ Duyên Hải tăng nhanh. Các Toán Biệt Hải thuộc Lực Lượng Biệt Hải được tuyển mộ và huấn luyện dọc theo bờ biển Mỹ-Khê. Bộ Tư Lệnh Hải-Quân cũng tăng phái một Toán Người Nhái được đặt tên là Athena, dưới quyền chỉ huy của Hải-Quân Đại Úy Lâm Nhựt Ninh. Năm mươi quân nhân Thủy Quân Lục Chiến, được đặt dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu Úy Phan Tấn Hưng và Thiếu Úy Ngộ, lấy tên là Romulus. Ngoài ra, Lực Lượng Biệt Hải cũng có những Toán khác, như Nimbus, Cumulua, Cancer, Vega và Mercury, đã được tuyển mộ và huấn luyện từ những năm trước.(13)

Từ đầu năm 1965 Sở Phòng Vệ Duyên Hải đã có những hoạt động mạnh mẽ ở Bắc vĩ
tuyến 17, gây nhiều thiệt hại cho cộng sản Bắc Việt.
Trước tháng 8 năm 1967 những công tác của Sở Phòng Vệ Duyên Hải chỉ đến vỹ tuyến 19 độ 30 – ngoại trừ những cống tác hết sức đặc biệt.
Sau tháng 8 năm 1967, Sở Phòng Vệ Duyên Hải được phép hoạt động đến vỹ tuyến 20.
Không một nhân sự Hoa-Kỳ nào được có mặt trên Kinh Tốc Đỉnh khi công tác phía Bắc vỹ tuyến 17. (14)

Những cuộc hành quân lấy tên là LOKI:

Những cuộc hành quân Loki có mục đích bắt tù binh, cả ngư dân lẩn cán bộ Cộng Sản, đưa về tại trại Phoenix để khai thác tin tức.
Sau khi đem tù binh về trại Phoenix để khai thác tin tức, cán bộ Sở Phòng Vệ Duyên Hải tuyển chọn trong số này những người thù ghét chế độ Cộng Sản, huấn luyện họ làm mật báo viên dài hạn (Sleeping Agents) chờ ngày giải phóng miền Bắc. Sau khi hoàn tất việc huấn luyện cách thu thập tin tức, cách viết bí mật thư, v.v... những người này được chuyển sang trại DoDo để nơi đây huấn luyện (Indoctrination) về chủ trương và đường lối của Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc do cán bộ của Sở Tâm Lý Chiến thuộc Nha Kỹ Thuật hướng dẫn dưới danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Bắc. Ngoài ra các cán bộ Sở Tâm Lý Chiến cũng khai thác thêm những tin tức liên quan đến chính trị, xã hội và tôn giáo tại miền Bắc để hoạch định các công tác Tâm Lý Chiến cho đài Tiếng Nói Tự Do và đài Gươm Thiêng Ái Quốc thuộc Sở Tâm Lý Chiến, Nha Kỹ Thuật.
Sau thời gian huấn luyện, những người bị bắt đều được trả về miền Bắc và mỗi người được tặng một gói quà gồm Radio, mùng, mền, lưới cá, v.v... do Sở Tâm Lý Chiến/Nha Kỹ Thuật thực hiện. Mỗi lần thả, họ đều được PTF chở ra vùng họ ở, cho xuống một chiếc ghe để họ chèo vào bờ.
Tin tình báo cho biết, hầu hết những người được thả khi về đến địa phương đều bị Cộng sản Bắc Việt tịch thu tất cả quà tặng. Có người sau một thời gian lại cố ý ra biển để được bị bắt lại; đời sống của người dân miền Bắc, đặc biệt là ngư dân, quá cực khổ và đói kém, trong khi vào trại của Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc thì được ăn uống no đủ, áo quần mới, đối xử tử tế nên họ rất có cảm tình với phong trào và cung cấp nhiều tin tức quân sự có gía trị cao. (15)
Tháng 6, tối 16 rạng ngày 17 năm 1966, 3 PTF do Hải-Quân Đại Úy Lưu Chuyên chỉ huy, thực hiện công tác tại ranh giới hải phận Nghệ-An và Hà-Tĩnh, giữa hai đảo Hòn-Mê (Thanh-Hóa, Nghệ-An) và Hòn-Mật (Vinh, Hà-Tĩnh), khoảng vỹ tuyến 18 độ 30, tức là trên vỹ tuyến 17B khoảng 100 hải lý, cách bờ 12 hải lý.
Vùng biển này rất nhiều ghe và mảng đánh cá. Trong số ghe đánh cá, địch gài thêm ghe đặc công, trang bị B-40 và cả hỏa tiễn AT-3 Sagger của Nga. Địch cũng đặt đại bác 130 ly – có tầm bắn xa khoảng 20 hải lý – trên đảo Hòn-Mê để yểm trợ ghe đặc công.
Đêm đó thời tiết xấu, mưa, cho nên tầm nhìn rất giới hạn.
Hải-Quân Đại Úy Lê Chuyên gia nhập Lực Lượng Hải Tuần từ cuối năm 1964 hoặc đầu năm 1965. Đại Úy Lê Chuyên là một sĩ quan can cường, liều lĩnh, nhiều kinh nghiệm và đầy mưu lược. Trong chuyến công tác này có người bạn cùng khóa – khóa 8 Hải-Quân Nha-Trang – với Đại Úy Lê Chuyên là Hải-Quân Đại Úy Liên Phong tháp tùng để thực tập làm Hạm Trưởng PTF. Đại Úy Lưu Chuyên dùng PTF-2 làm Khinh Tốc Đỉnh Chỉ Huy.(16)
Trong khi các PTF đang thi hành công tác thám sát gần bờ thì bị trọng pháo phòng duyên của địch bắn ra xối xả. Lúc được lệnh xét ghe, một PTF đã nhìn nhầm PTF-2 là ghe địch và ra lệnh tác xạ! Loạt đạn đầu trúng ngay đài chỉ huy. Đại Úy Lưu Chuyên và Đại Úy Liên Phong tử thương. Một Trung Úy khóa 10 Hải-Quân Nha-Trang bị thương. Số phận các Đoàn Viên chưa được kiểm chứng.

Những cuộc hành quân lấy tên là CADO:
Do các toán Biệt Hải đổ bộ vào bờ để đột kích hoặc bắn phá những đồn Công An biên phòng tại các cửa biển hoặc các cơ sở trên đất liền. Năm 1964, một toán Biệt Hải đổ bộ và bắn phá nhà máy nước Bầu Tró (Ðồng Hới) gây nhiều thiệt hại cho nhà máy nàỵ Nhiều lần các toán Biệt Hải đổ bộ và bắt cóc cán bộ Bắc Việt trong các làng ven biển tại Ðồng Hới và Quảng Bình.

Những cuộc hành quân lấy tên là MINT:
Trong suốt thời gian Hoa-Kỳ thả mìn ở cửa biển Hải-Phòng để phong tỏa hải phận Bắc Việt, Sở Phòng Vệ Duyên Hải liên tục hành quân từ vĩ tuyến 17 đến Thanh Hóa. Trong thời gian này, Sở Phòng Vệ Duyên Hải đã chận đánh các đoàn ghe máy Bắc Việt tiếp tế cho các hải đảo ngoài khơi duyên hải. Ðặc biệt các chiến đỉnh của Sở Phòng Vệ Duyên Hải đã đánh tan một đoàn tiếp tế của Bắc Việt cho đảo hòn Cọp, tịch thu rất nhiều vũ khí và quân dụng, trong đó có một khẩu đại bát 82 ly không giật, của Nga – loại vũ khí đầu tiên tịch thu được trên chiến trường Việt Nam.


Những cuộc hành quân Tâm Lý Chiến:
Sở Tâm Lý Chiến (Nha Kỹ Thuật) thực hiện các loại truyền đơn và các gói quà tặng dưới danh nghĩa Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc. Số truyền đơn và quà tặng được Sở Tâm Lý Chiến chuyển đến Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Sở Phòng Vệ Duyên Hải dùng PTF để thả các gói quà trên biển Bắc vĩ tuyến 17 hoặc dùng súng cối 81 ly trên PTF bắn vào bờ.

Hành Quân Ðặc Biệt tên là LURE:
Trên những truyền đơn thả theo các gói quà trên biển, Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc kêu gọi các tàu của Bắc Việt trốn vào miền Nam Việt Nam. Sở Phòng Vệ Duyên Hải dùng ghe NAUTILUS thả neo túc trực tại phía Nam Vĩ Tuyến 17. Trường hợp tàu của Hải-Quân Bắc Việt vượt tuyến vào Nam hồi chánh, sẽ được cán bộ và thủy thủ đoàn của chiếc Nautilus đón tiếp. Ngoài phần thưởng đặc biệt dành cho Thuyền Trưởng và Thuyền Phó, mỗi thủy thủ đều được Chính Phủ Việt-Nam Cộng Hoà lo chỗ ăn, chỗ ở và mỗi người đều được thưởng 100 lượng vàng để sinh sống. Cuộc hành quân này kéo dài gần ba tháng mới chấm dứt. (18)

Những sĩ quan sau đây từng đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải:

  • Thiếu Tá Ngô Thế Linh , 1964-1966
  • Hải-Quân Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Thoại, 1966-1970
  • Hải-Quân Trung Tá Nguyễn Viết Tân, 1970-1975 (**)

Ngoài Đại Đội Dân Sự Chiến Đấu – để phụ trách việc canh gác hậu cứ – và một số cơ cấu hành chánh, Sở Phòng Vệ Duyên Hải có hai đơn vị trực thuộc chính; đó là Lực Lượng Hải Tuần và Lực Lượng Biệt Hải.

*Điệp-Mỹ-Linh tóm lược và tổng hợp từ 3 bài viết về Sở Phòng Vệ Duyên Hải của 3 tác giả: Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, ông Trần Đỗ Cẩm và ông Nguyễn Thanh Hoài.
(**)Được sự xác nhận của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại về cấp bậc của 3 vị Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải khi 3 vị này mới nhậm chức. Sau đó cả 3 vị đều được thăng cấp.
1-3-5-6-8-10-12-16 Ông Trần Đỗ Cẩm
2-4-11-13-15-17-18 Ông Nguyễn Thanh Hoài
7-9-14-19 Can Trường Trong Chiến Bại của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại


LỰC LƯỢNG BIỆT-HẢI *
Thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải

hai quan ra khoi-chuong 3b

Tổ Chức
Sau cuộc đảo chánh của các Tướng lãnh ngày 1. 11. 1963, nền Đệ Nhất Cộng Hòa không còn nữa. Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống trở thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và Sở Bắc được cải danh thành Sở Kỹ Thuật rồi Nha Kỹ Thuật. Tất cả quân nhân thuộc Nha Kỹ Thuật đều do Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt quản trị về mặt hành chánh. Phần công tác đều nhận lệnh trực tiếp từ Bộ Tổng Tham Mưu Q.L./V.N.C.H. Ngoài ra, Chi Cục Pacific cũng còn tuyển mộ một số nhân viên dân chính theo hợp đồng như: "Thủy Thủ Đoàn các thuyền máy" và các nhân viên hành động khác, để chuẩn bị thành lập các toán hoạt động ngắn hạn sau này.
Từ năm 1961 đến đầu năm 1964, trước khi Sở Phòng Vệ Duyên Hải được chính thức thành lập, Chi Cục Pacific – về sau đổi thành Trại Mỹ-Khê – có khoảng 40 nhân viên, vừa quân đội vừa dân chính, lấy tên là Lực Lượng Hải Kích, đồn trú trong những lều vải lớn tại Trại Orion, cạnh Bộ Tư Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên Hải; do Thiếu Úy Nguyễn Duy Vân (Charlie) làm trại trưởng.
Đầu năm 1962 đến cuối năm 1963, trại Huấn Luyện Mỹ Khê được tiếp tục xây cất gồm trại Mỹ Khê và 9 trại khác, đồn trú rải rác và cách nhau từ 200-300 thước, từ phía Nam cạnh chân núi Ngũ Hoành Sơn (Non-Nước) đến chân núi Sơn-Chà phía Bắc.
Từ năm 1961 đến đầu năm 1964 – trước ngày Sở Phòng Vệ Duyên Hải được chính thức thành lập – Chi Cục Pacific (sau này đổi thành Trại Mỹ Khê) có khoảng 40 nhân viên vừa quân đội vừa dân chính lấy tên là Lực Lượng Hải Kích, đồn trú trong các lều vải lớn tại Trại Orion, cạnh Bộ Tư Lệnh Hải-Quân vùng I Duyên Hải, do Thiếu Úy Nguyễn Duy Vân (Charlie) làm trại trưởng.
Trong giai đoạn này có những thay đổi về nhân sự:

*.- Trung úy Nông An Pang trở về Trung Ương
*.- Đại úy Hà Ngọc Oánh được bổ nhiệm làm Trưởng Trại Mỹ Khê. Sau một thời gian, Đại Úy Hà Ngọc Oánh được bổ nhiệm một chức vụ khác ở Trung Ương.
*.- Trung úy Nguyễn Nghiêm được thăng Đại Úy và nhận chức Trưởng Trại Mỹ Khê.
*.- Trung úy Trương Duy Tài tạm thời được đề cử vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Tuần, còn gọi là "Upper Base".

Sau khi Sở Phòng Duyên Hải được chính thức thành lập – tháng 4 ngày 1 năm 1964 – và Cơ quan CSD bàn giao lại cho Cơ quan NAD (Naval Advisory Detachment) thì Sở được tổ chức như sau:

  • Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải.
  • Lực Lượng Hải Tuần, gồm: Thành phần yểm trợ và 16 thủy thủ đoàn. Mỗi thủy thủ đoàn PTF gồm 16 nhân viên, gồm sĩ quan, hạ sĩ quan Hải-Quân.
  • Trung úy Trương Duy Tài thăng Đại Úy và được chính thức bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Biệt Hải (Đại Úy Trương Duy Tài còn có tên là Đoàn Hùng).

Lực Lượng Biệt Hải có quân số trên 200 người và được phân phối như sau:

THÀNH PHẦN HÀNH ĐỘNG (Action Elements)

Trại 1: Toán ROMULUS gồm 50 sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến tăng phái, do Thiếu Úy Dương Văn Hưng và Thiếu Úy Ngộ chỉ huy.

Trại 2: Toán ATHENA gồm 45 toán viên Người Nhái của Hải-Quân Việt-Nam do Đại Úy Lâm Nhựt Ninh chỉ huy. Toán này do Bộ Tư Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. tăng phái.

Trại 3: Toán NIMBUS gồm 40 toán viên, thuộc thành phần quân đội, do một Thượng Sĩ (sau vinh thăng Chuẩn úy, không nhớ tên) chỉ huy. Sau này do Thiếu Úy Nguyễn Công Thanh làm Trưởng toán.

Trại 4: Toán CUMULUS gồm 40 toán viên cũng thuộc thành phần quân đội do Thiếu Úy Nguyễn Hữu Hà (Hoàng) Chỉ huy. Sau này do Thượng Sĩ Hòa làm trưởng toán.

Trại 5: Toán Mercury, chừng 35 toán viên. Toán này toàn nhân viên dân chính tình nguyện phục vụ theo hợp đồng dưới danh nghĩa Biệt Kích Quân. Toán này do Thiếu Úy Nguyễn Bá Lộc (Ninh) chỉ huy. Sau này không rõ ai làm Trưởng Toán khi Thiếu Úy Lộc được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Phòng 5 Sở Phòng Vệ Duyên Hải.

Trại 6: Toán VEGA. Toán này có chừng 30 toán viên gồm toàn nhân viên của Lực Lượng Hải Thuyền do Bộ Tư Lệnh Hải-Quân tăng phái. Toán này do Hải-Quân Đại Úy Trịnh Hòa Hiệp ( Người Nhái của Hải Quân Việt-Nam) chỉ huy.
Trại 7 (Mỹ Thị): Bộ Chỉ Huy Đại Đội An Ninh gồm 120 Dân Sự Chiến Đấu do Thiếu Úy Nguyễn Văn Nghĩa (Nhơn) làm Đại Đội Trưởng và là bãi thực tập phá hoại của Lực Lượng Biệt Hải.


Trại 8: Toán Cancer có 6 toán viên gồm quân đội lẫn dân chính; có 2 nhân viên Nùng. Toán này do Thiếu Úy Nguyễn Thanh Hoài kiêm Trưởng công tác (case office).

Trại 9: Dùng làm khu cấm (Isolation Camp).

THÀNH PHẦN YỂM TRỢ (SUPPORT ELEMENTS)

Trại Mỹ Khê:

*.- Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Biệt Hải
*.- Nơi ở của Toán Cố Vấn và Huấn Luyện Viên Hoa Kỳ.
*.- Trại Sĩ Quan Độc Thân.
*.- Thông Dịch Viên
*.- Trung Đội An Ninh Phòng Thủ
*.- Trại 7 và Trại 9
*.- Câu Lạc Bộ v.v… (1)


Mỗi trại đều có Dân Sự Chiến Đấu lo canh gác và vấn đề ẩm thực. Biệt-Hải chỉ lo tập và thi hành công tác cho đến khi giải nhiệm hoặc tự ý xin rút lui.

Tuyển Mộ
Muốn trở thành một Biệt-Hải, học viên phải hội đủ những điều kiện: Thể chất khỏe mạnh, cường tráng; tinh thần can đảm, tự tin, kín đáo; phản ứng bén nhạy để xoay trở khi lâm nạn và có sức chịu đựng phi thường.

Huấn Luyện

  • Khóa I Biệt-Hải

Tháng 10 năm 1962, khóa Biệt-Hải đầu tiên tại Việt-Nam do Người Nhái Mỹ (U.S. Navy SEALs) và một số Biệt-Hải Việt-Nam tốt nghiệp tại Đài-Loan huấn luyện. Khóa này có một sĩ-quan duy nhất – Hải-Quân Trung-Úy Trịnh Hòa Hiệp, xuất thân khóa 7 Hải-Quân Nha-Trang – và một số hạ sĩ quan Hải-Quân, còn hầu hết là nhân viên Hải-Thuyền.
Khóa I Biệt Hải ra trường vào tháng 1 năm 1963. Sau khi Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải được thành lập, khóa I Biệt Hải xin chuyển qua Sở Phòng Vệ Duyên Hải, chuyên thi hành công tác xâm nhập miền Bắc, từ bắc vỹ tuyến 17.

  • Khóa II Biệt-Hải

Cũng được tổ chức tương tự như khóa I. Hải-Quân Thiếu-Úy Phan Tấn Hưng, xuất thân khóa 9 Hải-Quân Nha-Trang, là sĩ-quan thứ hai theo thụ huấn.
Khóa I và khóa II Biệt-Hải được huấn luyện tại Đà-Nẵng. Những khóa kế tiếp được huấn luyện tại các địa điểm khác nhau như: Nha-Trang, Cam-Ranh, Vũng-Tàu, v.v…
Biệt-Hải được huấn luyện như một điệp viên chiến tranh thuần túy để thích nghi với mọi môi trường như lặn, đổ bộ và nhảy trực thăng từ một cao độ khá nguy hiểm mà không cần dù. Biệt-Hải biết xử dụng tất cả mọi loại vũ khí – của ta cũng như của địch – và có khả năng xâm nhập, trốn thoát và sống còn.
Thời gian huấn luyện là 24 tuần lễ, kể cả “Tuần lễ địa ngục”. Muốn vượt qua “Tuần lễ địa ngục”, học viên phải qua nhiều thử thách như: Chèo ghe 115 dặm, chạy bộ 75 dặm, mang tàu đi 21 dặm, bơi 10 dặm, bơi trong khi tay và chân bị trói để lấy tài liệu dưới đáy nước – bằng miệng. Biệt-Hải phải chịu đựng được những khắc nghiệt của độ nóng, độ lạnh, độ sâu và độ cao. Biệt Hải cũng phải học về nhảy dù.
Vì những điều kiện huấn luyện để trở thành một Biệt-Hải rất khắc khe cho nên Biệt-Hải Hoa-Kỳ có câu: The only easy day was yesterday!

Nhiệm Vụ
Mỗi nhóm hoạt động trong một lãnh vực khác nhau.

  • Nhóm Vega được huấn luyện để đổ bộ, đột kích, phá cầu bằng chất nổ và bắt người ngoài Bắc về lấy tin tình báo. Nhóm này xử dụng Bazooca và 75 ly không giật.
  • Nhóm Romulus chuyên lặn bình hơi và đổ bộ bằng cách nhảy dù xuống biển, mang theo bình hơi và xuồng cao su.
  • Nhóm Lucky thi hành công tác phá hoại kinh tế, tuyên truyền, gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ địch. Nhóm này thường bắt ngư phủ trong hợp tác xã Việt-Cộng đem về làng kiểu mẫu Thế-Giới Tự-Do – được thành lập tại Cù Lao Chàm – nuôi nấng, cho ăn uống sung sướng, học về đời sống tự do; sau đó những người này được thả về Bắc lại để tuyên truyền. Nhiều người trong số này xin ở lại miền Nam, nhưng không được chấp thuận.

Trước khi Biệt-Hải thực hiện một công tác nào thì nhân viên phải được huấn luyện và thực tập dựa theo địa hình, địa vật – do không ảnh U2 cung cấp – của những địa điểm mà công tác sẽ được thi hành.
Trong khi thi hành nhiệm vụ Biệt-Hải thường bơi từng cặp để tương trợ lẫn nhau. Phương thức này được gọi là Buddy System.
Khi Lực-Lượng Hải-Tuần chưa thành lập, Việt-Cộng bố trí nhiều vị trí đóng quân dọc theo duyên hải kể từ phía Bắc vỹ tuyến 17. Về sau, những đơn vị Việt-Cộng này bị Biệt-Hải tấn công và bắn phá liên miên, Việt-Cộng dời quân vào sâu trong nội địa.
Sau khi Việt-Nam hóa chiến tranh, Đại-Đội Hải-Kích được biệt phái cho các Giang-Đoàn, Duyên-Đoàn hay những Căn-Cứ Hải-Quân trên khắp lãnh thổ miền Nam.
Nhiệm vụ của Hải-Kích cũng tương tự như Biệt-Kích, nghĩa là đột nhập vào những mục tiêu ven biển hoặc sông rạch.
Một toán Hải-Kích được biệt phái thường trực cho Căn-Cứ Hải-Quân Năm-Căn. Đại đội vớt tàu trang bị dụng cụ lặn và trục vớt, lưu động các nơi, nhất là Vùng IV Sông-Ngòi. Đại đội tháo gỡ đạn dược cũng biệt phái nhân viên đến những Bộ-Chỉ-Huy Vùng. (2)
Tháng 7 sáng sớm ngày 31 năm 1964, Khu Trục Hạm Madox của Hải-Quân Hoa-Kỳ đến vùng biển Việt-Nam, ngang vỹ tuyến 17, để bắt đầu tuần tiễu dọc bờ biển Bắc Việt, có tên là Desoto.
Tháng 8 ngày 2 năm 1964, chiến hạm Madox đang ở vị trí cách bờ khoảng 18 hải lý và cách Hòn-Mê khoảng 10 hải lý thì bị 3 Ngư Lôi Đỉnh Bắc Việt mang số T-333, T-336 và T-339 tấn công bằng ngư lôi. Chiến hạm Madox phản công. T-333, T-336 và T-339 đều bị hư hại nặng. Madox không bị thiệt hại.
Tháng 8 ngày 3 năm 1964, Đô Đốc Johnson – Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội – ra lệnh Khu Trục Hạm Madox tiếp tục cuộc tuần tiễu Desoto; đồng thời Khu Trục Hạm Turner Joy cũng được chỉ thị đến tăng cường cho chiến hạm Madox. (3)

Sau biến cố giữa Khu Trục Hạm Madox và Ngư Lôi Đỉnh Bắc Việt, Hoa-Kỳ yêu cầu Nam Việt-Nam ngưng những hoạt động ngoài khơi bên kia vỹ tuyến 17. Các công tác chỉ được giới hạn vào việc bắn phá những cơ sở quân sự của địch dọc bờ biển mà thôi.
Tháng 6 năm 1965, những công tác đổ bộ của Biệt Hải mới được thi hành trở lại.

Luật bất thành văn: Khi đồng đội bị tử trận, bằng mọi phương tiện và mọi giá, chiến sĩ thuộc Lực Lượng Hải Tuần và Biệt Hải cũng phải đem thi hài của đồng đội đó về với gia đình. (4)

Tầm hoạt động xa nhất của Biệt-Hải là Hải-Phòng.

*Điệp-Mỹ-Linh tổng hợp 4 bài biết về Lực Lượng Biệt Hải của 4 tác giả:
1.- Ông Nguyễn Thanh Hoài
2.- Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
3.- Ông Trần Đổ Cẩm
4.- Can Trường Trong Chiến Bại của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại


LỰC-LƯỢNG HẢI-TUẦN*

hai quan ra khoi-chuong 3b

Tổ Chức
Lực-Lượng Hải-Tuần thuộc Sở Phòng-Vệ Duyên-Hải, đóng tại Tiên-Sa, Đà-Nẵng. Bộ-Chỉ-Huy gồm Chỉ-Huy-Trưởng và Chỉ-Huy-Phó.
Hải-Quân Thiếu Tá Diệp Quang Thủy được bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Hải-Tuần.
Tất cả nhân viên thuộc Lực-Lượng Hải-Tuần, cả sĩ quan và lính, đều là những quân nhân tình nguyện và được biệt phái hẳn cho Lực-Lượng Đặc-Biệt (Special Operations Group). Lực-Lượng Đặc-Biệt này gồm nhiều binh chủng khác nhau như Thủy-Quân Lục-Chiến, Không-Quân, Nhảy-Dù, Biệt-Kích, v. v…và Hải-Quân là một thành phần trong cơ cấu này.

Trang Bị

  • Ghe Nautilus.- Khi mới thành lập, phương tiện hoạt động duy nhất là ghe Nautilus. Vũ khí trang bị gồm có đại liên giấu trong khoang ghe và vũ khí cá nhân của Thủy Thủ Đoàn.
  • Duyên Tốc Đỉnh PCF “Swift”.- Vũ khi gồm có một đại liên 50 gắn trên nóc phòng lái; sân sau có một súng cối 81 ly bắn trực xạ, bên trên gắn đại liên 50. Thủy Thủ Đoàn gồm 5 người.
  • Khinh Tốc Đỉnh PTF.- Có 3 loại PTF được dùng ở Việt Nam:

- PTF cũ thời đệ nhị thế chiến.- Được trang bị: Ống phóng ngư lôi, 2 đại bác 40 ly, một ở trước mũi và một ở sân sau; 2 đại bác 20 ly, 2 đại liên 50 bên hông. Khi đến Việt-Nam, khẩu đại bác 40 ly trước mũi được cắt bỏ và thay bằng súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50.
- PTF loại "Nasty" do Na Uy và Tây Đức chế tạo. PTF “Nasty” được trang bị 1 súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50 trưới mũi; sân sau đặt khẩu đại bác 40 ly; hai bên hông, ngang đài chỉ huy gắn đại bác 20 ly. Dụng cụ hải hành gồm: La bàn điện, máy dò chiếu sâu và radar loại Decca có tầm hữu dụng 50 hải lý với màn ảnh chính đặt tại Trung Tâm Chiến Báo và “repeater” trên đài chỉ huy.
- PTF "Osprey" do Hoa Kỳ đóng. PTF “Osprey” được trang bị như PTF “Nasty”. (1)
Điểm đặc biệt là tất cả ống phóng ngư lôi đều được tháo gỡ vì đối thủ Bắc Việt chỉ có các loại tầu nhỏ, không phải là mục tiêu của loại vũ khí này. Súng ống trang bị trên các PTF cũng được biến cải để phù hợp với nhiệm vụ.
Ngoài những vũ khí trang bị trên chiến đĩnh, toán đổ bộ lúc đầu còn xử dụng hỏa tiễn thời chỉnh để bắn phá các mục tiêu; nhưng vì hỏa tiễn không được chính xác cho nên sau này họ xử dụng súng 57 ly không giật để tăng cường hỏa lực. Các ổ súng không giật thường được đặt ở sân trước ngay dưới chân khẩu súng cối 81 ly trên chiến đĩnh mỗi khi bắn phá mục tiêu trên bờ. Toán đổ bộ cũng thực tập bắn súng 57 ly bằng cách mang trên vai để có thể xử dụng vũ khí này trên xuồng cao su. Ngoài súng 57 ly, còn có các loại 90 ly hay 106 ly nhưng không được xử dụng thường xuyên. Nhiều loại mìn nổ chậm cũng được Biệt Hải dùng trong công tác phá hoại. Về vũ khí cá nhân, các nhân viên đổ bộ dùng loại súng AK của khối Cộng Sản hay tiểu liên (K-gun) do Thụy Điển chế tạo.(2)
Mỗi PTF có một hạm trưởng – cấp bậc Đại-Úy Hải-Quân – một hạm phó, một cơ khí viên và một số nhân viên. Mỗi lần hành quân thường đi chung 2 hoặc 3 PTF để yểm trợ lẫn nhau.

Nhiệm Vụ
Nhiệm vụ của Lực-Lượng Hải-Tuần là dùng PTF đưa Biệt-Hải hoặc những người có nhiệm vụ liên hệ, vượt vỹ tuyến 17, xâm nhập Bắc Việt. Công tác thường được thực hiện ban đêm và chỉ với mục đích thu thập tin tức tình báo.

Phạm Vi Hoạt Động
Từ vỹ tuyến 17 cho đến Hải-Phòng
Sau khi thi hành công tác từ Bắc về, PTF Hải-Quân V.N.C.H. thường bị PT Việt-Cộng chận đánh, khoảng Hòn-Cọp. PTF Hải-Quân V.N.C.H. cũng thường bị Mig Bắc-Việt – bay từng cặp – phát giác bằng radar và dùng hỏa tiễn tầm nhiệt tấn công.
Hải-Quân Việt-Cộng được trang bị 12 P4.
Việt-Cộng thường dùng loại tàu Kronstaff, vận tốc khoảng 35 hải lý một giờ và loại P4 vận tốc 65 hải lý một giờ và được trang bị 6 giàn đại liên 50 đôi để tấn công PT Nam Việt-Nam. PT Nam Việt-Nam vừa phản công vừa lui về dưới vỹ tuyến 17 để khỏi bị lộ.
Lực-Lượng Hải-Tuần đưa Biệt-Kích xâm nhập Bắc Việt lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1964.
Cuối năm 1970, theo tinh thần Hòa Đàm Paris, Việt-Cộng yêu cầu Mỹ hủy bỏ những công tác tình báo ngoài Bắc. Mỹ nhượng bộ.
Lực-Lượng Hải-Tuần ngưng hoạt động và giải tán.

* 1 và 2: Ông Trần Đỗ Cẩm


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


 CHƯƠNG IV

CUỘC ĐÀM THOẠI BẤT NGỜ

 Vào cuối tháng 2 năm 1975, một phái đoàn lưỡng đảng, gồm nhiều nghị sĩ và dân biểu Hoa-Kỳ đến Saigon với mục đích tìm hiểu thực trạng và thành quả của vấn đề Việt-Nam-Hóa chiến tranh, để duyệt xét thỉnh cầu của Tổng-Thống Ford về việc xin chuẩn chi ngân khoảng 300 triệu Mỹ-Kim viện trợ bổ túc cho Việt-Nam Cộng-Hòa.

Trong phái đoàn lưỡng đảng Hoa-Kỳ có nhiều nghị sĩ và dân biểu phản chiến. Nhưng đáng kể nhất là dân biểu phản chiến Bella Abzug, thuộc Dân-Chủ, New York.

Phái đoàn viếng thăm Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng để tìm hiểu về những nỗ lực tự túc tự cường qua chương trình đóng tàu Ferro Ciment của Hải-Quân Việt-Nam.

Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ định Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, hướng dẫn phái đoàn.

Xuất thân khóa 3 Brest, Đại-tá Đỗ Kiểm là một trong những sĩ quan Hải-Quân rất uyển chuyển trên mọi vấn đề và có kiến thức sâu rộng về cả quân dự, văn hóa và chính trị. Đại-Tá Đỗ Kiểm được đặt vào một vị thế thiết yếu cho sự ngoại giao vốn đã khó khăn giữa phái đoàn Hoa-Kỳ và Hải-Quân V.N.C.H.

Dù đã được chỉ thị của cấp trên là phải hết sức mềm mỏng, khéo léo khi tiếp xúc với phái đoàn Hoa-Kỳ, các sĩ quan cao cấp Hải-Quân V.N.C.H. được chỉ định tiếp đón phái đoàn hôm đó cũng không thể không khỏi bất mãn khi thấy thái độ thờ ơ, thiếu lễ độ, kém thân thiện của phái đoàn. Nữ dân biểu Bella Abzug tỏ cử chỉ xem thường thuyết trình viên và cử tọa bằng cách hích mặt nhìn ngắm trần nhà trong khi miệng nhai kẹo cao-su chóp chép!

Trong khi phái đoàn lưỡng đảng đang lơ là nghe Đại-Tá Đoàn Ngọc Bích, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Công-Xưởng, thuyết trình thì Dân Biểu Murtha kéo Đại-Tá Đỗ Kiểm ra ngoài, hỏi nhỏ:

- Nếu phải chuyển binh sĩ từ Đà-Nẵng về đây, Hạm-Đội Hải-Quân Việt-Nam có thể chở tối đa bao nhiêu Sư Đoàn?

Với phản ứng của một sĩ quan hành quân, Đại-Tá Đỗ Kiểm nghĩ đến sự chuyển vận hành quân, cho nên Ông đáp:
- Một Sư Đoàn là tối đa, vì Hạm-Đội chuyển vận của Hải-Quân Việt-Nam không được trang bị để chuyên chở cơ giới và vũ khí nặng.

Dân Biểu Murtha gạt ngang:
- Không! Tôi không muốn nói đến hành quân. Nếu phải rút binh khẩn cấp, bằng tất cả chiến hạm của Hạm-Đội Hải-Quân Việt-Nam, Đại-Tá nghĩ có thể chở tối đa bao nhiêu binh sĩ – chỉ người thôi?

Vẫn chưa hiểu dụng ý của Dân Biểu Murtha, Đại-Tá Đỗ Kiểm hỏi gằn:
- Kể cả những chiến hạm tuần dương?

- Vâng! Kể cả những chiến hạm tuần dương. Và, nếu cần, bỏ lại cơ giới.

Không ai nghĩ rằng cuộc đàm thoại ngắn ngủi đó ngầm báo trước những tai biến sắp phủ chụp xuống Quân-Khu I.


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG V

NHỮNG BIẾN CHUYỂN QUÂN SỰ

VÀ CÁC CUỘC RÚT QUÂN

 

VÙNG I DUYÊN-HẢI

Kể từ sau khi Ban-Mê-Thuột thất thủ, ngày 11 tháng 3 năm 1975, sự tuần tiễu của Hải-Quân V.N.C.H. được thay đổi như sau: Các trục tuần dương được rút lại tối thiểu. Các trục ngang từ bờ ra đến 150 hải lý được hủy bỏ; chỉ còn trục dọc theo duyên hải vẫn hoạt động bình thường.
Khi Việt-Nam Cộng-Hòa rút khỏi Pleiku, ngày 16 tháng 3 năm 1975, Hải-Quân được lệnh chuẩn bị tất cả chiến hạm. Hầu hết chiến hạm dồn về miền Trung, ưu tiên là Đà-Nẵng, đặt dưới sự xử dụng của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải: Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Hải-Quân cũng dồn nhiều nỗ lực để bảo vệ những đơn vị Hải-Quân tại Thuận-An.

Tư-Lệnh Hạm-Đội Hải-Quân lập Bộ-Chỉ-Huy nhẹ ra miền Trung. Bộ-Chỉ-Huy Tiền-Phương Hải-Quân gồm:
Tư-Lệnh Hạm-Đội – Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn.
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận – Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong.
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương – Hải-Quân Trung-Tá Phạm Ứng Luật. Chức vụ này về sau được Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển thay thế.
Trưởng phòng hành quân Hạm-Đội – Hải-Quân Thiếu-Tá Ninh Đức Thuận.
Một số hạ sĩ quan phòng hành quân
Một số hạ sĩ quan kỹ thuật
Khi Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương Hải-Quân lên đường ra Trung thì Đại-Tá Đỗ Kiểm cũng tháp tùng Tư-Lệnh Hải-Quân bay ra Thuận-An, đến Duyên-Đoàn 12, bàn định kế hoạch di tản Thủy-Quân Lục-Chiến từ cửa Thuận-An, nếu tình thế bắt buộc.
Cho đến lúc đó cũng vẫn chưa có một Tướng lãnh nào đề nghị hoặc nghĩ tới một kế hoạch di tản bất cứ một binh chủng nào khác, trong trường hợp V.N.C.H. không giữ được miền Trung!

Lúc này vùng Trị Thiên, từ đèo Hải-Vân trở ra Bến-Hải, được thành lập Bộ-Tư-Lệnh đặc biệt, gọi là Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương Quân-Đoàn I, do Trung-Tướng Lâm Quang Thi làm Tư-Lệnh; hậu cứ đặt tại Mang-Cá, Huế. Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương vẫn trực thuộc sự chỉ huy của Bộ-Tư-Lệnh Quân-Đoàn I, Quân Khu I, do Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư-Lệnh. Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương gồm có:
Sư-Đoàn I Bộ-Binh
Sư-Đoàn I Nhảy-Dù
Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến
Liên-Đoàn Biệt-Động-Quân
Thiết Giáp
Pháo Binh
Tiểu-Khu Quảng-Trị
Tiểu-Khu Thừa-Thiên
Không-Quân
Hải-Quân

Hải-Quân thành lập 3 Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm.
- Liên-Đoàn I: Đặc Nhiệm đóng tại Thuận An, do Hải-Quân Trung Tá Võ Trạng Lưu chỉ huy; về sau, Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy thay thế Trung Tá Lưu ở chức vụ này. Bộ-Chỉ-Huy Liên-Đoàn I Đặc-Nhiệm gồm những đơn vị cơ hữu của Vùng I Duyên-Hải:
Giang-Đoàn 32 Xung-Phong, đóng tại Huế, do Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy chỉ huy.
Giang-Đoàn 92 Trục-Lôi, đóng tại Thuận-An; do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Hữu Sử chỉ huy.
Giang-Đoàn 60 Tuần-Thám, đóng tại Thuận-An; do Hải Quân Thiếu Tá Trần Văn Căn chỉ huy.
Duyên-Đoàn 12, đóng tại Thuận-An, dưới sự chỉ huy của Đại Úy Nguyễn Văn Sinh.
Duyên-Đoàn 13, đóng tại cửa Tư-Hiền, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu Tá Trương Văn Phương.
Tiền-Doanh Yểm-Trợ Thuận-An, Thiếu Tá Lê Đơn chỉ huy.
Căn-Cứ Hải-Quân tại Thuận-An.
Đài Kiểm Báo 103 ở An Độ
- Liên Đoàn II: Đặc Nhiệm đóng tại Cửa Đại, do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Đình Ấp chỉ huy; gồm có:
Giang Đoàn 58 Tuần Thám
Duyên Đoàn 14 do Đại Úy Nguyễn Văn Thịnh chỉ huy.
- Liên Đoàn II:I Đặc Nhiệm đóng tại Chu Lai, do Hải Quân Trung Tá Châu Văn chỉ huy; gồm các đơn vị sau đây:
Duyên Đoàn 11 do Thiếu Tá Nguyễn Văn Hào chỉ huy
Duyên Đoàn 15 do Đại Úy Nguyễn Lương Dường chỉ huy.
Duyên Đoàn 16 do Thiếu Tá Lê Tiến Diện chỉ huy
Đài Kiểm Báo 101 đóng tại La-Chữ, cách Huế khoảng 30 cây số.
Đài Kiểm Báo 104 tại Đức Phổ do Đại Úy Nguyễn Thanh Vân trách nhiệm.
Toán đặc trách an ninh, tình báo.

* Vào thời điểm này những chiến hạm sau đây đã được điều động đến Vùng I Duyên Hải:
Tuần Dương Hạm: HQ 2, HQ 3, HQ 5 HQ 17.
Hộ Tống Hạm: HQ 7, HQ 8, HQ 9, HQ 14.
Cơ Xưởng Hạm: HQ 800, HQ 801, HQ 802.
Tuần Duyên Đỉnh: HQ 609, HQ 615, HQ 713, HQ 715, HQ 718, HQ 721.
Dương Vận Hạm: HQ 501, HQ 504, HQ 505.
Bệnh viện Hạm: HQ 401.
Hải Vận Hạm: HQ 402, HQ 403, HQ 404, HQ 405.
Giang Vận Hạm: HQ 540. HQ 542, HQ 544, HQ 545, HQ 546, HQ 547.
Ngoài ra Hải-Quân còn có:
• Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Đà Nẵng do Hải Quân Đại Tá Vương Hữu Thiều chỉ huy.
• Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng do Trung Tá Lê Kim Lợi chỉ huy.
• Đài Kiểm Báo 102 tại Sơn Chà, Đà-Nẵng, do Trung Úy Đỗ Văn Chiểu chỉ huy. (1)
(1) Can Trường Trong Chiến Bại của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại


 

CUỘC RÚT QUÂN TẠI THUẬN-AN

hai quan ra khoi-chuong 5

 

Trở lại Đà-Nẵng sau phiên họp với Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, vào ngày 10 tháng 3, Tư-Lệnh Vùng I Chiến-Thuật, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng, điều động những đại đơn vị sau đây vào các vị trí chiến lược phòng thủ Đà-Nẵng:
Lữ-Đoàn 369 Thủy-Qưân Lục-Chiến đóng dọc sông Bồ.
Lữ-Đoàn 258 Thủy-Quân Lục-Chiến thay thế đơn vị Nhảy-Dù tại phía Bắc đèo Hải-Vân.
Lữ-Đoàn 147 Thủy-Quân Lục-Chiến án ngữ mạn Bắc Đà-Nẵng.
Đồng thời Tướng Ngô Quang Trưởng cũng ra lệnh di chuyển tất cả súng lớn 175 ly và xe tăng M48 từ Thuận-An về Đà-Nẵng.
Thời gian này, một phái đoàn cao cấp Hải-Quân đến thăm các đơn vị Hải-Quân tại Thuận-An. Phái đoàn gồm:
Tư-Lệnh Hải-Quân – Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh.
Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải – Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Chỉ-Huy-Trưởng Căn Cứ Yểm-Trợ Đà-Nẵng – Hải-Quân Đại-Tá Vương Hữu Thiều.
Phái đoàn chỉ thị trực tiếp cho Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy: Di chuyển những quân dụng quý giá của Tiền-Doanh Yểm-Trợ Thuận-An về Đà-Nẵng, hằng ngày rà mìn cửa Thuận-An, yểm trợ các LCU quân vận di chuyển đại bác 175 ly từ Huế về Đà-Nẵng. (Đây là loại đại bác có tầm bắn xa nhất, từ 25 đến 27 km).
Công tác đang diễn tiến tốt đẹp, bỗng nhiên Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm được lệnh “ngưng”!
Ngày 15 tháng 3, Lữ-Đoàn 369 Thủy-Quân Lục-Chiến rời Quảng-Trị.
Ngày 17 tháng 3, Lữ-Đoàn 258 Thủy-Quân Lục-Chiến rút từ Quảng-Trị về phía Bắc đèo Hải-Vân.
Trong một thời gian ngắn, hai đại đơn vị của một binh chủng tinh nhuệ rời bỏ Quảng-Trị khiến dân chúng hốt hoảng, đùm túm nhau đi theo. Vì vậy, thành phố Quảng-Trị xem như bỏ ngõ.
Ngày 18 tháng 3, tin đồn Sư-Đoàn Nhảy-Dù sẽ rút khỏi Vùng I càng khiến dân chúng hoang mang, lo lắng hơn.
Thời gian này có nhiều cuộc đụng độ tại Mỹ-Chánh. Nhưng vì Thủy-Quân Lục-Chiến đã di chuyển về Nam thay thế các đơn vị Nhảy-Dù cho nên lực lượng phòng thủ Mỹ-Chánh không cầm cự được, đành bỏ Quảng-Trị, chạy về Huế.
Ngày 19 tháng 3, Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu buộc Trung Tướng Tư-Lệnh vùng I phải giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng, đến tối 19 tháng 3, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lại nhận được công điện số 2238 từ Bộ-Tổng-Tham-Mưu, bắt phải bỏ Huế! Dường như giữ Huế hay bỏ Huế không quan trọng bằng sự an toàn cho Sư-Đoàn I Bộ-Binh; vì Sư-Đoàn I Bộ-Binh sẽ còn được xử dụng để chiến đấu, bảo vệ một nơi khác!
Theo tin tình báo, ba Sư-Đoàn Việt-Cộng đang sẵn sàng tấn công Huế và Đà-Nẵng. Sư-Đoàn thứ tư đang vượt vĩ tuyến. Xe tăng Việt-Cộng đang vượt sông Thạch-Hãn, tiến vào Quảng-Trị.
Đêm 19 tháng 3, khi Việt-Cộng pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương Quân-Đoàn I thì tại Thuận-An, những diễn tiến quân sự dồn dập xảy ra như sau:
Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy nhận chỉ thị từ Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại:
 Di chuyển gia đình binh sĩ Hải-Quân về Đà-Nẵng.
 Chuẩn bị một giang đỉnh có khả năng di chuyển cả trên sông lẫn trên biển và đặt hệ thống truyền tin, sẵn sàng để Tướng Tư-Lệnh Tiền-Phương Lâm Quang Thi xử dụng.
 Duyên-Đoàn 12 phải nhường phòng hành quân lại cho Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương thiết trí sơ đồ trận liệt để nếu cần, Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương sẽ xuống Thuận-An chỉ huy, trong trường hợp Huế bị pháo kích hoặc tấn công.
Ngày 20 tháng 3, để ngăn chận cuộc di tản chiến thuật của Sư-Đoàn I Bộ-Binh và các lực lượng phòng thủ Huế có thể xảy ra và với ý đồ cô lập Huế, Sư-Đoàn 324 và 325 Việt-Cộng chận đánh Sư-Đoàn I Bộ-Binh phía Nam Huế.
Cũng trong ngày 20 tháng 3, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải chỉ thị Duyên-Đoàn 13 đưa gia đình binh sĩ từ cửa Tư-Hiền lên Thuận-An để Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy xử dụng LCU đưa họ về Đà-Nẵng, càng sớm càng tốt.

Vào thời điểm này Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy là Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm.
Một giờ chiều cùng ngày, Trung-Tướng Lâm Quang Thi và toàn thể Bộ-Tham-Mưu của Ông dời về Thuận-An bằng xe hơi.
Đến nơi, Trung-Tướng Thi gọi Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy vào trình diện và hỏi:
- Giang đỉnh dành riêng cho tôi sẵn sàng chưa?
- Thưa Trung-Tướng, đã sẵn sàng. Đó là soái đỉnh Monitor Command của Giang-Đoàn 32 Xung-Phong.
- Chiến hạm từ Đà-Nẵng đã đến Thuận-An chưa?
- Trình Trung-Tướng, khoảng chiều nay thì đến.
- Về việc di tản dân chúng thì sao? - Trình Trung-Tướng, gia đình binh sĩ Hải-Quân và một số người thân của họ đã được đưa về Đà-Nẵng an toàn. Còn dân chúng, do đoàn LCU của Quân-Vận từ Qui-Nhơn biệt phái, đặt dưới sự điều động trực tiếp của Bộ-Chỉ-Huy Quân-Vận, tôi chỉ yểm trợ an ninh thôi, cho nên tôi không biết.

Khoảng sau 3 giờ chiều, tại căn cứ Duyên-Đoàn 12, Trung Tướng Lâm Quang Thi chủ tọa buổi họp quan trọng, gồm quý vị sau đây:
Đại-Tá Hy, Tham-Mưu-Trưởng Bộ-Tư-Lệnh Tiền- Phương.
Đại-Tá Trí, Tư-Lệnh-Phó Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến.
Đại-Tá Đoàn, Tỉnh Trưởng Thừa-Thiên.
Đại-Tá phụ tá hành quân của Quân-Đoàn I do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đề cử.
Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy.
Một Trung-Tá Không-Quân.
Một số trưởng phòng Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương.

Từ sau khi Phước-Long thất thủ, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn I Bộ-Binh, e ngại Huế sẽ bị cô lập, cho nên Ông cho dự trữ thực phẩm. Bây giờ Quảng-Trị bỏ ngõ, Tướng Nguyễn Văn Điềm phải bay về Đà-Nẵng, trình Tướng Ngô Quang Trưởng kế hoạch di chuyển Sư-Đoàn I Bộ-Binh về Đà-Nẵng – bằng cách vượt qua cửa Tư-Hiền và núi Vinh-Phong. Vì vậy Tướng Nguyễn Văn Điềm không thể có mặt trong cuộc họp này.
Buổi họp diễn ra rất ngắn. Không-Quân xác định và chuẩn bị số trực thăng khiển dụng. Hải-Quân trách nhiệm phối trí tàu bè để yểm trợ hoặc di chuyển Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến cùng Bộ-Chỉ-Huy Tiểu-Khu Thừa-Thiên và theo dõi tình trạng những chiến hạm từ Đà-Nẵng ra.
Trong buổi họp cuối cùng này – cũng như những cuộc họp trước đó – Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương chỉ đề cập đến kế hoạch di tản Thủy-Quân Lục-Chiến và Sư-Đoàn I Bộ-Binh về Đà-Nẵng chứ chưa bao giờ đề cập đến phương cách di tản 25 Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân của Tiểu-Khu Thừa-Thiên, Tiểu-Khu Quảng-Trị, Liên-Đoàn Biệt-Động-Quân, Thiết Giáp hay Pháo Binh! Khoảng 6 giờ 30 chiều, Việt-Cộng bắn hai hỏa tiễn 130 ly vào bên kia sông, nơi cửa Thuận-An.

Mười lăm phút sau, Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng vài sĩ quan tham mưu đi thẳng xuống cầu tàu, cho người tìm Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy và ra lệnh Thiếu Tá Hy đưa tất cả ra tàu! Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy dùng LCM8 đưa Trung Tướng Lâm Quang Thi và đoàn tùy tùng ra Tuần-Dương-Hạm Trần-Bình-Trọng, HQ 5, nơi đặt Bộ-Chỉ-Huy của Hạm-Đội Hải-Quân tại cửa Thuận-An.

Tin Tướng Lâm Quang Thi rời căn cứ Hải-Quân Thuận-An “bay” ra rất nhanh khiến một số sĩ quan trong Bộ-Tham-Mưu của Bộ-Tư-Lệnh Tiền-Phương bị bỏ lại hoảng hốt. Trong số sĩ quan này có Trung Tá Thanh chánh văn phòng của Tướng Lâm Quang Thi!
Khoảng 9 giờ tối, Đại-Tá Thục, Tư-Lệnh-Phó Sư-Đoàn I Bộ-Binh cùng Bộ-Tham-Mưu của Ông vào căn cứ Hải-Quân xin gặp Tướng Lâm Quang Thi. Sau khi được biết Tướng Lâm Quang Thi đã ra chiến hạm, nhóm người này và Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng Thiết-Giáp M48 – người có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Hải-Quân Thuận-An – cũng bỏ nhiệm sở, xin phương tiện ra tàu.

Đến 10 giờ tối, Trung Tướng Lâm Quang Thi chỉ thị Hạm-Trưởng HQ 5, Hải-Quân Trung-Tá Phạm Trọng Q. ra lệnh cho Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy di chuyển tất cả đơn vị khỏi căn cứ Hải-Quân Thuận-An. Trung-Tá Q. trình bày: “Thưa Trung Tướng, quyền hạn của tôi chỉ vỏn vẹn trong phạm vi HQ 5 này. Tôi không có thẩm quyền để ra lệnh cho Thiếu-Tá Hy.”
Từ đài chỉ huy của HQ 5, Trung Tướng Lâm Quang Thi ra lệnh trực tiếp, bằng bạch văn, cho Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy: “Đây Quốc-Bảo (mật hiệu truyền tin của Trung Tướng Lâm Quang Thi), chỉ thị cho Thiếu-Tá Hy điều động mọi đơn vị Hải-Quân rời căn cứ Hải-Quân tức khắc và phá hủy tất cả quân dụng.”
Được lệnh, Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy liên lạc với Giang-Đoàn 32 Xung-Phong, bảo họ rời Huế; gọi Thiếu Tá Phương, Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 13, bảo trực chỉ Đà-Nẵng, nhưng không gặp; gọi Thiếu-Tá Căn, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 60 Tuần-Thám, bảo đưa đơn vị rời căn cứ. Thiếu-Tá Căn cho Thiếu-Tá Hy hay rằng Thiếu-Tá Phương nhận được chỉ thị đặc biệt cho nên không thể rời căn cứ được. Thiếu Tá Hy cũng gọi Đại Úy Sinh, Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 12; và gọi Tiền-Doanh Yểm-Trợ, v. v… bảo trực chỉ Đà-Nẵng.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy ở trên một LCM của Giang-Đoàn 92 Truc-Lôi. Bộ-Chỉ-Huy chỉ có 2 Trung Sĩ truyền tin và 3 Thiếu Úy.
Lúc này 2 GMC đi tháo đài radar vừa về tới, Thiếu Tá Hy chỉ thị cả 2 GMC xuống LCM8 của Tiền-Doanh Yểm-Trợ để về Đà-Nẵng.
Tất cả đơn vị Hải-Quân trực chỉ Đà-Nẵng an toàn, chỉ bỏ lại căn cứ Thuận-An một Monitor bị mắc cạn.

Trong khi những sự kiện kể trên xảy ra dọc bờ biển Thuận-An thì, ngoài khơi, Hạm-Đội Hải-Quân chỉ định PCE HQ 7, hạm trưởng là Hải-Quân Thiếu-Tá Trần Nam Hưng, tuần tiễu từ cửa Tư-Hiền đến ngang vĩ tuyến 17.
Là chiến hạm được phu nhân của Tướng Dương Văn Minh làm Mẹ đỡ đầu, HQ 7 được trang bị: 1 khẩu 76 ly, 2 giàn “bô-pho” 40 ly đôi, 6 giàn 20 ly đôi. Tất cả được bắn bằng điện. Ngày cũng như đêm, HQ 7 bắn vào những địa điểm quanh quận Phong-Điền, theo yêu cầu của Thủy-Quân Lục-Chiến đóng tại đó. Sau, HQ 13 và HQ 8 được tăng phái để cùng HQ 7 lập thành đội hình “bán kim cương”, mục đích chống phi cơ của Việt-Cộng.
Để bảo vệ cửa Thuận-An, Hạm-Đội Hải-Quân điều động 5 PCE trang bị súng 76 ly 2, giàn hình cánh cung phía Bắc cửa Thuận-An. Mỗi chiến hạm cách nhau 50 cây số. Khoảng cách đó radar có thể kiểm soát tất cả để yểm trợ lẫn nhau trong trường hợp PT Việt-Cộng xuất hiện, tấn công.
Phía sau 5 PCE là một số Destroyers và 2 WHEC HQ 16 và HQ 17.
WHEC có khả năng hoạt động suốt 3 tháng liền, không cần tiếp tế. Mỗi chiếc WHEC được trang bị đại bác 128 ly và đại liên 40 ly.
Một sáng mù sương, Hạm-Đội Hải-Quân đang theo dõi từng biến động chung quanh, bỗng một toán phản lực cơ F5 từ Đà-Nẵng bay ra. Một trong mấy phi cơ đó bắn một hỏa tiễn trúng HQ 14 làm cho 14 nhân viên bị thương! Cả Hạm-Đội náo loạn. Sau khi kiểm chứng, Hải-Quân mới biết Không-Quân bắn nhầm!

Sau cuộc rút quân đẫm máu từ Cao Nguyên, bây giờ tình hình chung quanh Đà-Nẵng trở nên nguy ngập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lo ngại một cuộc đảo chánh có thể xảy ra. Nhưng Tổng Thống Thiệu lại đưa lý do Việt-Cộng sẽ thực hiện một cuộc tấn công quy mô vào Saigon, và Tổng Thống Thiệu ra lệnh rút Sư-Đoàn Nhảy-Dù và Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến từ Vùng I về phòng thủ Thủ-Đô.
Ngày 23 tháng 3, để cô lập Huế, Việt-Cộng đặt nhiều “chốt” trên những trục lộ dẫn vào Huế, rồi pháo kích Huế và pháo kích ngay vào làn sóng người đang “trườn” lên đèo Hải-Vân để rời Huế.
Tình trạng của Sư-Đoàn I Bộ-Binh vô cùng bi đát, vì bị các “chốt” Việt-Cộng chận đánh, nhưng vì kẹt thân nhân và đồng bào cho nên quân của Sư-Đoàn I không thể chống trả được! Ngày 24 tháng 3, vòng đai phòng thủ Huế bị pháo kích nặng nề. Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh Sư-Đoàn I Bộ-Binh yểm trợ để Thủy-Quân Lục-Chiến và những lực lượng khác của Quân-Lực V.N.C.H. tiến về Thuận-An, chiến hạm Hải-Quân sẽ vào đón. Ngay sau đó, Tướng Trưởng chỉ thị Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại điều động lực lượng Hải-Quân để di tản khoảng 50 ngàn quân và dân.

* Trích từ "Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975" , tác giả: Điệp-Mỹ-Linh

Cùng ngày, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, ký lệnh hành quân thành lập Liên Đoàn Đặc Nhiệm 11.4 dưới quyền chỉ huy tổng quát của chính Phó Đề Đốc và Hải-Quân Trung Tá Lê Thành Uyển làm Chỉ Huy Trưởng chiến thuật (OTC), gồm những chiến hạm và chiến đỉnh sau đây:
- Tuần Dương Hạm: HQ 17; HQ 5 dùng làm Soái Hạm
- Hộ Tống Hạm: HQ 7, HQ 8, HQ 14
- Cơ Xưởng Hạm: HQ 801
- Tuần Duyên Hạm: HQ 609, HQ 615
- Tuần Duyên Đỉnh: HQ 713, HQ 715, HQ 718, HQ 721
- 2 PCF (1)
Chiều 24 tháng 3, những đại đơn vị của V.N.C.H. – kể cả Thủy-Quân Lục-Chiến – rút về xã Dương-Đông (giữa đầm Cầu-Hai và biển), kéo theo một số đông đồng bào. Việt-Cộng rượt theo, bắn sập cầu khiến đoàn người không có đường tới mà cũng nghẽn đường lui! Liền đó, Việt-Cộng pháo kích ngay vào làn sóng người, bất kể quân hay dân!
Chiều 25 tháng 3, lúc 6 giờ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh bỏ Huế!
Ngày 26 tháng 3, để bao vây Đà-Nẵng, Việt-Cộng đưa Sư-Đoàn 324 và 325 từ hướng Đông cùng Sư-Đoàn 711 và Sư-Đoàn 304 từ phía Nam ra. Cả bốn đại đơn vị này đều có trọng pháo và xe tăng yểm trợ.
Chiều 26 tháng 3, trong khi Sư-Đoàn 312 Việt-Cộng với nhiều xe chở nông dân cầm cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam tiến vào cố đô Huế thì Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến và vài đơn vị Bộ-Binh về đến Thuận-An.
Hạm-Đội Hải-Quân bắt đầu thực hiện cuộc triệt thoái Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến và Bộ-Binh. Lúc này mấy đơn vị Thiết-Giáp của Lữ-Đoàn I Thiết-Kỵ và một số đơn vị Biệt-Động-Quân cũng về đến cửa Thuận-An, từ Phá Tam-Giang.
Đăc lệnh truyền tin bị Việt-Cộng bắt được. Tất cả hệ thống truyền tin PC25 của Bộ-Binh đều bị Việt-Cộng xâm nhập, khuấy phá; chỉ có Thủy-Quân Lục-Chiến liên lạc được với Hải-Quân bằng tần số riêng.
Vì hệ thống truyền tin của Bộ-Binh không liên lạc được cho nên cuộc đón quân của Sư-Đoàn I Bộ-Binh rất gay go.
Để tránh lộ mục tiêu, ngại Việt-Cộng pháo kích, hầu hết các cuộc đón quân được thực hiện ban đêm. Cũng với mục đích này, Hải-Quân yêu cầu Thủy-Quân Lục-Chiến phối hợp với Hạm-Đội, đưa Bộ-Binh xuống phía Nam, cách cửa Thuận-An khoảng 5 cây số để tàu vào đón.
Tuy đã nghi binh nhưng Việt-Cộng vẫn biết. Việt-Cộng dùng đại bác 105 ly và 81 ly của V.N.C.H. bắn xối xả ra bờ biển.
Tối 26 tháng 3, HQ 801 và HQ 502 được lệnh ủi bãi, đón Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến. Nhưng chiến hạm lớn quá, mực nước không đủ sâu, cả hai chiến hạm đều không vào được. Khoảng cách từ bờ ra tàu quá xa, Thủy-Quân Lục-Chiến không lội ra được. Trong khi lềnh bềnh, HQ 801 bị sóng đánh tạt ngang, gần bê lái tàu cho nên Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, cố giữ thăng bằng rồi vội lui ra, lềnh bềnh ngoài xa.
Ba Tiểu-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến 3, 4 và 5 tách rời quân bạn, âm thầm di chuyển về phía Nam.
Khuya 26 tháng 3, Tiểu-Đoàn 7 Thủy-Quân Lục-Chiến về đến Thuận-An. Cũng thời điểm này, Việt-Cộng nã đại bác vào nơi tập trung Thủy-Quân Lục-Chiến, gây tử thương cho một vị Tiểu-Đoàn-Phó.
Hải-Quân Trung-Tá Trần Đình Hòa và Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy được lệnh điều động toán LCU (10 LCU trong toán này được biệt phái từ Saigon) và một số LCM của Giang-Đoàn 32 Xung-Phong, ủi vào bờ, đón Thủy-Quân Lục-Chiến, đưa ra chiến hạm.
Kế hoạch này thực hiện an toàn được đợt đầu. Phần lớn quân nhân trong đợt này là thương binh. Đặc biệt trong chuyến tản thương này có một vị Tiểu-Đoàn-Trưởng bị thương, nhưng, không những Ông nhất quyết không chịu lên tàu mà Ông còn điều động binh sĩ còn vũ khí chống trả, tiêu diệt các “chốt” của Việt-Cộng. Và cũng chính Ông liên lạc trực tiếp với Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, yêu cầu Hải-Quân vớt hết lính của Ông thì Ông mới lên tàu!
Đến đợt đón quân thứ hai, Việt-Cộng dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn thẳng vào các LCU. Bốn LCU bị trúng đạn, một số nhân viên bị thương. Một LCU do Chuẩn-Úy T. làm thuyền trưởng bị sóng đánh dạt vào bờ.
Chuẩn-Úy T. là một đoàn viên thâm niên, giàu kinh nghiệm. Ông không phải là nhân viên cơ hữu của Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân vùng I. Ông được biệt phái từ Saigon khi tình hình Đà-Nẵng trở nên nghiêm trọng. Chuẩn-Úy T. là người rất nặng tinh thần kỹ luật, không bao giờ từ nan bất cứ công tác nào; đôi khi công tác vượt khỏi khả năng của Ông, nhưng Ông vẫn xoay sở và chu toàn một cách tốt đẹp.
Khi biết tàu bị mắc cạn, Chuẩn-Úy T. báo cáo lên thẩm quyền và xin tàu vào kéo. Nhưng hỏa tiễn tầm nhiệt của Việt-Cộng bắn rát quá, chiến hạm không thể vào.
Trong bờ, không ai biết chiếc LCU của Chuẩn-Úy T. đang lâm nguy. Mọi người ùa ra, tràn lên tàu, bao quanh tàu. Thiết giáp M113 cán bừa lên mọi người để lên tàu, tạo nên một đường máu khổng lồ, dài ngoằn! Trong khi thủy-thủ-đoàn cố vận dụng tất cả khả năng và mọi phương cách để đem chiếc LCU ra thì chân vịt xoắn tít vào đám người lố nhố phía sau tàu và thân tàu rướn trên biển người, tạo nên một vùng nước đỏ tươi những máu ngổn ngang xác người! Vì thủy triều đang rút nhanh và vì số người trên tàu vượt khá năng trọng tải, cho nên, sau nhiều lần xoay trở, chiếc LCU nằm im!
Trong khi những LCU khác sợ mắc cạn, không dám vào nữa, chỉ ủi vào những cồn cát phía ngoài, chờ quân bạn bơi ra thì Trung-Tá Trần Đình Hòa điều khiển một LCU, cố cập vào chiếc LCU mắc cạn để cứu thủy thủ đoàn. Nhưng cả 3 lần cố gắng, Trung Tá Hòa cũng vẫn không thể cập sát vào chiếc LCU của Chuẩn-Úy T. được; vì bị sóng đẩy dạt ra và cũng vì AT3 của Việt-Cộng từ bờ bắn ra liên tục!
Một LCU khác vào, với ý định dùng giây cáp để kéo chiếc LCU của Chuẩn-Úy T.; nhưng LCU đó vào chưa đến nơi thì LCU của Chuẩn-Úy T. bị Việt-Cộng bắn ngay đài chỉ huy, cắt đứt niềm hy vọng của mọi người!
Sáng 27 tháng 3, khoảng 6 giờ, biển động dữ dội, không tàu nào có thể vào được nữa. Trên bờ còn M113 lội nước, rất nhiều Thủy-Quân Lục-Chiến, một số quân nhân thuộc những đơn vị khác và đồng bào.
Hải-Quân tận dụng tất cả PCF, chạy dọc theo bãi biển từ đèo Hải-Vân đến cửa Thuận-An, thả rất nhiều phao nổi, với hy vọng quân bạn có thể dùng phao bơi ra tàu.
Khi đoàn LCU lui ra dần, Việt-Cộng lại pháo kích ngay vào chỗ lính tập trung! Bắt được mấy tên Việt-Cộng mặc quân phục Bộ-Binh và Biệt-Động-Quân đang dùng máy truyền tin cho tọa độ để Việt-Cộng pháo kích vào toán quân, Thủy-Quân Lục-Chiến bắn hết. Rồi cứ thấy ai mặc quân phục không phải là quân phục lính Mũ Xanh, Thủy-Quân Lục-Chiến cũng bắn luôn! Do đó, Bộ-Binh và các binh chủng khác hoảng sợ, lấy ghe dân, ào ra biển hoặc là liều, chạy bộ về cửa Tư-Hiền, chỉ còn Thủy-Quân Lục-Chiến ở lại trên bãi!
Số Thủy-Quân Lục-Chiến ở lại lập tuyến phòng thủ. Việt-Cộng tấn công, Thủy-Quân Lục-Chiến chống trả cầm chừng, vì không còn đạn!

* * *

Vì tình hình đột biến quá nhanh, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chỉ thị HQ 13 tách rời đội “bán kim cương”, tăng phái về Thuận-An tuần tiễu, giữ an ninh cho HQ 5; vì Tướng Lâm Quang Thi đang xử dụng HQ 5 làm Bộ-Chỉ-Huy lưu động.
Chiều 23 tháng 3, khoảng 4 giờ, HQ 13 chạy ra khơi, cách bờ khoảng 25 cây số.
Gần 5 giờ, Hạm-Trưởng HQ 13, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Trọng Th. hét lên trong máy liên lạc với Hạm-Trưởng HQ 7:
- Trình thẩm quyền, máy bay ta dội bom tàu tôi.
Hạm-Trưởng HQ 7, sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh:
- Nó dội bom bạn thì bạn bắn nó.
- Máy bay A37 của ta đó, thẩm quyền.
- Có thể địch cướp máy bay A37 của ta. Bạn bắn nó không thôi bạn chết.
Thấy súng từ chiến hạm bắn lên, A37 không dám xuống thấp thả bom mà ở trên cao dội rockets xuống. Một rocket lọt vào hầm tạm trú khiến 20 thủy thủ chết và bị thương. HQ 13 được lệnh tức tốc rời vùng hành quân.
Trong khi HQ 13 về Đà-Nẵng sửa chữa tạm rồi về Saigon đại kỳ, HQ 7 vẫn tiếp tục tuần tiễu nhưng phải im lặng vô tuyến và không được nã trọng pháo vào những điểm nghi ngờ có Việt-Cộng nữa.
Tối 27 tháng 3, Tư-Lệnh Hạm-Đội chỉ thị HQ 7 yểm trợ Trung-Tá Trần Đình Hòa và Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy đưa đoàn LCU trở lại phía Nam Thuận-An, tiếp tục đón Thủy-Quân Lục-Chiến; đồng thời Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận, cũng được lệnh xử dụng HQ 801, vài LCM8 và một số Người Nhái, trở lại Thuận-An với mục đích cứu vớt thủy thủ đoàn trên chiếc LCU của Chuẩn-Úy T.
Biển vẫn còn động mạnh. Quá nửa khuya, toán cứu vớt đến Thuận-An, nhưng HQ 801 không thể vào được. Trung-Tá Lê Thuần Phong xử dụng vài LCM8 và Người Nhái tiến vào.
Mờ sáng 28 tháng 3, lúc đến gần LCU mắc cạn, mọi người thấy phần mũi của LCU chìm xuống, phần lái nhô lên. Người Nhái lặn xuống lục soát: Không một bóng người! Trên mặt nước, ngoài sự cuồn nộ của biển cả, không ai thấy được dấu vết của sự sống!
Riêng toán LCU do Trung-Tá Trần Đình Hòa gặp trở ngại, vì lúc ủi bãi một LCU trúng B40, bốc cháy. Một LCU khác vớt được Đại-Tá Trí cùng Bộ-Chỉ-Huy nhẹ; số Thủy-Quân Lục-Chiến còn lại nhất định không đi, trừ phi Hải-Quân vớt tất cả. Những sĩ quan trẻ nhất quyết không bỏ Tiểu-Đoàn hay Đại-Đội của họ. Binh lính cũng cương quyết không bỏ cấp chỉ huy. Tất cả Thủy-Quân Lục-Chiến đồng lòng ở lại, cố thủ, chờ và hy vọng tàu lớn sẽ ủi vào, vớt họ!
Gần sáng, Hải-Quân Trung-Tá Trần Đình Hòa và Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy được lệnh đưa đoàn LCU về lại Đà-Nẵng.

* * *

Trong khi những kinh hoàng đang xảy ra tại bãi cát phía ngoài đầm Cầu-Hai thì tại cửa Tư-Hiền, Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 13, Hải-Quân Thiếu-Tá Trương Văn Phương, nhận lệnh trực tiếp từ Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Phải ở lại căn cứ để đưa Sư-Đoàn I Bộ-Binh qua sông. Thiếu-Tá Phương được chỉ thị cho nhân viên cột những chiếc ghe của Duyên-Đoàn 13 từ bên này sông qua bên kia sông; đồng thời kéo ponton, đánh chìm ngay tại cửa Tư-Hiền để làm đầu cầu cho Sư-Đoàn I Bộ-Binh băng qua sông, lên đèo Hải-Vân, về Đà-Nẵng bằng đường bộ.
Thì ra đây là kế hoạch rút Sư-Đoàn I Bộ-Binh mà Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm đã vào Đà-Nẵng trình lên Tướng Ngô Quang Trưởng trong vài ngày trước. Và đây cũng là lý do đơn vị trưởng Duyên-Đoàn 13 không thể đưa đơn vị rời căn cứ lúc Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy gọi!
Cửa Tư-Hiền tuy hẹp nhưng nước chảy xiết, không thể nối ghe làm cầu được. Hơn nữa, các giàn đại liên 50 của Việt-Cộng từ mé núi bắn xuống xối xả. Không một đoàn quân nào không có khí giới tự vệ, không được yểm trợ, không được bảo vệ mà có thể vượt qua đoạn cầu tử thần này cả! Còn chiếc ponton được tàu kéo, kéo từ Đà-Nẵng ra, dự trù đánh chìm ngay cửa Tư-Hiền, thì lại không đưa vào được, vì lạch nước quá nhỏ và cạn!
Mặc dù địa thế quá khó khăn, Thiếu-Tá Phương vẫn đôn đốc nhân viên thực hiện kế hoạch đã được giao phó. Nhưng, bất ngờ, một Thiếu-Tá thuộc Trung-Đoàn 54 Bộ-Binh chụp cổ áo Thiếu-Tá Phương (Thiếu-Tá Phương không mang cấp bậc) gằn giọng: “Đơn vị trưởng của mày đâu? Tìm tới đây, lẹ lên để đưa Trung-Đoàn của tao qua sông”. Thiếu-Tá Phương “dạ, dạ” rồi xuống ghe, ra HQ 7!
Được báo cáo đầy đủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ thị Hải-Quân đón Sư-Đoàn I Bộ-Binh; nhưng Sư-Đoàn I Bộ-Binh đang tự túc rút về Đà-Nẵng bằng đường bộ. Dọc đường, binh sĩ bỏ đơn vị đi tìm gia đình, vũ khí vất đầy hai bên quốc lộ. Sư-Đoàn I Bộ-Binh, một trong những đại đơn vị ưu tú của Quân-Lực V.N.C.H. tan rã từ đây!
Thành phố Huế không còn quân trú đóng. Nhưng số binh sĩ và đồng bào không vào Đà-Nẵng được, đành phải đi ngược ra Thuận-An, chờ tại Phá Tam-Giang.
Ngoài biển, chiến hạm Hải-Quân vẫn giàn từ cửa Thuận-An đến Cấp Chân-Mây, cố vớt Thủy-Quân Lục-Chiến. Nhiều Thủy-Quân Lũc-Chiến liều lĩnh, nhào xuống biển, bơi ra tàu.
HQ 7 vẫn tuần tiễu từ cửa Tư-Hiền đến cửa Thuận-An. Trong khi tuần tiễu, HQ 7 thấy một ghe nhỏ nhấp nhô, sắp chìm. Hạm Trưởng HQ 7 đặt ống dòm và thấy rõ trên ghe là một toán Bộ-Binh. Thiếu Tá Hưng điều động chiến hạm đến vớt thì mới biết trong toán quân nhân trên ghe có Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn I Bộ-Binh, cùng Đại-Tá Lợi và một số sĩ quan khác.
Sau khi gọi một WHEC đến đưa Tướng Nguyễn Văn Điềm về Đà-Nẵng, HQ 7 tiếp tục tuần tiễu trong vùng đã được ấn định.
Chiều 25 tháng 3, lúc 5 giờ, trong khi bay điều động cuộc rút quân, trực thăng chở Tướng Nguyễn Văn Điềm và Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn bị trục trặc kỹ thuật, phải đáp khẩn cấp phía Bắc đèo Hải-Vân.
Lúc đó, Đại-Tá Lê Đình Quế, Tham-Mưu-Trưởng Thủy-Quân Lục-Chiến, đang bay thám sát cuộc triệt thoái Thủy-Quân Lục-Chiến tại bãi cát bên kia đầm Cầu-Hai. Đang thả cơm sấy và thịt hộp tiếp tế quân nhân Thủy-Quân Lục-Chiến dưới đất, Đại-Tá Lê Đình Quế nghe tiếng kêu cứu trên máy truyền tin, vội rời vùng Cầu-Hai, đến cứu Tướng Nguyễn Văn Điềm, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn và những nhân sự tháp tùng.
Thời gian này HQ 17 đang tuần tiễu và yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bạn tại Vùng II Duyên-Hải thì được lệnh ra Vùng I Duyên-Hải.
Ngày 26 tháng 3, HQ 17 đến Vùng I Duyên-Hải, nhận lệnh trực chỉ ra phía Nam vĩ tuyến 17. Sau khi vớt rất nhiều đồng bào và quân bạn, HQ 17 lềnh bềnh từ cửa Thuận-An đến Cấp Cân Mây, cố vớt hết Thủy-Quân Lục-Chiến, đưa về Đà-Nẵng.
Ngày 27 tháng 3, HQ 7 vớt được 10 Thủy-Quân Lục-Chiến trên một ghe chài. Nhóm quân nhân này cho Hạm-Trưởng HQ 7 biết rằng: Số Thủy-Quân Lục-Chiến kẹt lại trên bờ, đa số đã tự tử tập thể vì không còn đạn để chống trả với Việt-Cộng; phần còn lại bị Việt-Cộng bắt khi họ chạy theo đoàn người di tản về phía cửa Tư-Hiền! Sở dĩ 10 quân nhân này không tự tử là vì họ được lệnh phải sống để đem tin tức về cho gia đình và vợ con của những người đã chết!
Sau khi được ủy thác sứ mệnh đó, những quân nhân này vào nhà dân, lấy một ghe máy, uy hiếp chủ ghe, buộc chủ ghe đưa họ về Đà-Nẵng. Vì suốt thời gian qua, những quân nhân này chiến đấu trong tuyệt vọng và đói khát, cho nên, sau khi lên ghe, tất cả đều lã đi vì kiệt sức. Người chủ ghe tàn nhẫn đã lợi dụng cơ hội này, đưa toán quân nhân này ra hướng Bắc – thay vì hướng Nam, về Đà-Nẵng – rồi phá hư máy ghe. Khi tỉnh lại, biết mình bị lừa, nhóm Thủy-Quân Lục-Chiến này lấy một ghe khác và chèo về hướng Nam, gặp HQ 7.
Tối 28 tháng 3, HQ 17 đến Đà-Nẵng, nhận thêm Thủy-Quân Lục-Chiến và đồng bào. Sau đó HQ 17 được chỉ thị yểm trợ HQ 405 đưa Tiểu-Đoàn Dù về Vùng II Duyên-Hải.
Tối 30 tháng 3, HQ 17 rời Tiên-Sa trong khi Đà-Nẵng bị pháo kích nặng nề. Đoàn thương thuyền của Mỹ cũng rời Đà-Nẵng.

(1)Can Trường Trong Chiến bại của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.

 


 

CUỘC RÚT QUÂN TẠI CHU-LAI

hai quan ra khoi-chuong 5

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm Hải Quân 11.3, dưới sự chỉ huy của Hải Quân Trung Tá Châu Văn, tại Chu-Lai gồm có:

  • Duyên-Đoàn 11 đóng tại Chu-Lai.
  • Duyên-Đoàn 15 đóng tại Chu-Lai, Cạnh Sư-Đoàn II Bộ-Binh.
  • Duyên-Đoàn 16 đóng tại Cổ-Lũy, Quảng-Ngãi.
  • 2 Coast Guards.
  • 4 PCF được Hải-Đội I Duyên-Phòng tăng phái.
  • Đài Kiểm Báo 103 tại Cù Lao Ré.
  • Đài Kiểm Báo 104 tại Đức Phổ.

Nhiệm Vụ
Tuần tiễu, bảo vệ, phối hợp hành quân với các đơn vị bạn
Phạm Vi Hoạt Động
Vùng Duyên-Hải thuộc hai tỉnh Quảng-Tín và Quảng-Ngãi, từ phía Nam Hội-An đến ranh giới vùng II Duyên-Hải.
Ngày 14 tháng 3, Chuẩn Tướng Trần-Văn-Nhựt, Tư-Lệnh Sư-Đoàn II Bộ-Binh, về Đà-Nẵng dự cuộc họp quan trọng do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chủ tọa. Phiên họp này gồm những vị Tư-Lệnh Sư-Đoàn và các Tiểu-Khu-Trưởng. Trung Tướng Tư-Lệnh Quân-Đoàn I chỉ thị các đơn vị trưởng phải cố giữ lấy đơn vị của mình và bảo toàn chủ lực. Khi áp lực địch quá nặng, hãy rút về cố thủ những yếu điểm.
Ngày 21 tháng 3, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, chỉ thị Duyên Đoàn 16 đưa gia đình binh sĩ rời căn cứ, đến HQ 609 để được đưa về Đà Nẵng. Duyên Đoàn 16 di tản được 19 gia đình binh sĩ Hải Quân.
Ngày 23 tháng 3, Duyên Đoàn 16 xử dụng hai ghe, di tản 7 gia đình đến Chu Lai.
Chiều 24 tháng 3, Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn 16 báo cáo áp lực địch chung quanh hậu cứ rất nặng nề; vì bị hai tiểu đoàn Việt Cộng tấn công từ cửa Cổ Lũy, với mục đích không cho Duyên Đoàn 16 rút ra biển.
Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải ra lệnh Duyên Đoàn 16 và vài ghe của Duyên Đoàn 15 đang hành quân tại mũi Trăm Nam di tản về Chu Lai.
Khuya 24 tháng 3, Duyên Đoàn 16 và vài thành phần của Duyên Đoàn 15 – sau khi đụng độ nặng với địch tại cửa sông – đã ra đến biển.
Thời gian này với quyết tâm muốn chiếm những tỉnh chung quanh để cô lập Đà-Nẵng, Việt-Cộng mở nhiều đợt tấn công vào Quảng-Tín và Quảng-Ngãi, hai thị trấn phía Nam Đà-Nẵng
Ngày 24 tháng 3, Quảng-Tín thất thủ; vì Trung-Đoàn 4 và Trung-Đoàn 5 của Sư-Đoàn II Bộ-Binh bị các đơn vị của Nông-Trường II Bắc-Việt dùng đại bác và xe tăng tấn công rất ác liệt! Trên đường rút về Chu-Lai, một số lớn quân nhân bỏ khí giới, đi tìm thân nhân. Hàng ngũ rối loạn, cho nên khi bị Việt-Cộng chận đánh nữa, quân V.N.C.H. bị thảm bại!
Khi được tin quân V.N.C.H. không giữ được Quảng-Tín, Đại-Tá Tỉnh Trưởng Quảng-Ngãi đưa Bộ-Chỉ-Huy Tiểu-Khu cùng Trung Đoàn 6 Bộ-Binh của Sư-Đoàn II, Liên-Đoàn Biệt-Động-Quân, Thiết-Vận-Xa, Địa-Phương-Quân, v. v… rút về Đà-Nẵng và Chu-Lai. Trên đường lui binh, quân lính cũng vất vũ khí, đi tìm gia đình; vì vậy quân miền Nam không thể chống trả được những đợt tấn công liên tục của Bắc quân. Tổn thất về phía V.N.C.H. rất cao!
Cùng ngày, Quảng-Ngãi bị Việt-Cộng pháo kích liên tục. Áp lực địch dồn vào Duyên-Đoàn 16 rất nặng. Đài kiểm báo 104 bị tấn công.
Chỉ-Huy-Trưởng đài kiểm báo 104 tại Sa-Huỳnh, Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn Thanh Vân bị Bộ-Binh bắt đi theo; vì Bộ-Binh nghĩ rằng thế nào Hải-Quân cũng đưa tàu vào đón Đại-Úy Nguyễn Thanh Vân và Bộ-Binh sẽ được đón luôn.
Khi hay tin Quảng-Tín và Quảng-Ngãi thất thủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ thị Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt rút Sư-Đoàn II Bộ-Binh ra đảo Lý-Sơn (Cù Lao Ré) làm trừ bị.
Sáng 25 tháng 3, căn cứ Sư-Đoàn II Bộ-Binh tại Chu-Lai bị dân chúng tràn ngập; vì họ nghe tin tàu Hải-Quân sẽ đón quân của Sư-Đoàn II Bộ-Binh.

* * *

Cơ-Xưởng-Hạm Vĩnh-Long, HQ 802, đang công tác tại Phú-Quốc, với nhiệm vụ tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đỉnh thuộc Hải-Đội 4 Duyên-Phòng; và HQ 802 cũng là Tổng-Hành-Dinh lưu động của Bộ-Chỉ-Huy chiến dịch.
Sáng 23 tháng 3, lúc 6 giờ 30, HQ 802 được lệnh trả Bộ-Chỉ-Huy chiến dịch về An-Thới, khởi hành hỏa tốc đi Đà-Nẵng.
Là LST loại lớn, HQ 802 đã được biến cải thành Cơ-Xưởng-Hạm. Cửa đổ bộ đã được hàn kín. Vì máy móc trang bị và vật liệu sửa chữa tồn kho đã tăng trọng tải HQ 802 lên đến 6 ngàn tấn, cho nên, Cơ-Xưởng-Hạm HQ 802 không còn khả năng ủi bãi để Bộ-Binh lên tàu nhanh chóng được.
Ngày 25 tháng 3, lúc 5 giờ chiều, Tướng Trần Văn Nhựt gọi Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm Chu-Lai sang Sư-Đoàn II và cho biết Sư-Đoàn II chuyển quân ra Cù Lao Ré. Ngay sau đó, Trung Tá Ch. V. chỉ thị Duyên-Đoàn 16 đưa gia đình binh sĩ ra Cù Lao Ré; và chính Trung Tá Ch. V. đưa Duyên Đoàn 11 và Duyên Đoàn 15 ra Đà-Nẵng.
6 giờ 30 chiều, HQ 802 nhập Vùng I Duyên Hải và được lệnh chỉ huy Phân-Bộ-Nam Hải-Quân vào Chu-Lai đón và chuyển vận Sư-Đoàn II Bộ-Binh ra đảo Lý-Sơn, cách bờ khoảng 50 cây số.
Phân-Bộ-Nam Hải-Quân gồm có:

  • HQ 802
  • HQ 404
  • Một MSF
  • HQ 505

Trong khi các chiến hạm tiến về Chu-Lai, Hải-Quân Trung-Tá Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm Chu-Lai không hề biết gì về kế hoạch di tản này.
Vào thời điểm này HQ 505 đang có mặt tại vịnh Chu-Lai để chuẩn bị đón quân của Trung-Đoàn 4 và Trung-Đoàn 5 thuộc Sư-Đoàn II Bộ-Binh.
Khi HQ 505 đang lềnh bềnh trong vịnh Chu-Lai, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt đáp trực thăng ngay boong chính của chiến hạm. Sĩ quan trực hướng dẫn Tướng Nhựt lên đài chỉ huy gặp Hạm-Trưởng. Tại đây, Tướng Nhựt và Hạm-Trưởng HQ 505, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Văn Nhượng, bàn định kế hoạch đón quân. Cả hai vị đều đồng ý sẽ rút quân vào ban đêm và sẽ cố vận chuyển tối đa quân cụ.
Khoảng 9 giờ tối, HQ 505 ủi bãi phía ngoài bờ biển chứ không vào vịnh Chu-Lai. Nhưng vì bờ biển không đều, có nhiều chỗ quá sâu, lính Bộ-Binh không thể đem quân cụ lên tàu được. Hạm Trưởng cho lệnh chiến hạm lui ra, vào ủi bãi trong vịnh Chu-Lai.
Tại bãi biển Chu-Lai, khi HQ 505 vừa ủi bãi xong, cả một rừng người ào xuống nước, vây quanh chiến hạm! Lúc cửa đổ bộ (ramp) hạ xuống, không ai có thể biết được bao nhiêu người bị đè xuống nước! Trong lúc người đạp lên người để tràn vào lòng chiến hạm thì vài tiếng lựu đạn nổ ngay mũi tàu và mấy chiếc thiết giáp lừ lừ tiến đến, cán bừa lên mọi người trên bãi cát và lớp người lúc nhúc quanh cửa đổ bộ, để đưa người của Thiết Giáp lên!
Trước tình cảnh này, ngại nguy hiểm cho chiến hạm và cho mọi người trên tàu, Hạm-Trưởng HQ 505 ra lệnh kéo cửa đổ bộ lên, chuẩn bị lui ra. Khi cửa đổ bộ được kéo lên, nhiều người vẫn cố bám theo, bị kẹt vào giữa cửa và thân tàu, chết! Khi chiến hạm lui ra, tạo nên một sức hút dữ dội, khiến những người bơi quanh tàu bị nước hút, va vào thân tàu, chết! Những người bơi phía sau chiến hạm bị “chân vịt” nghiền nát! Không biết bao nhiêu xác người bập bềnh theo triền sóng!
12 giờ khuya, HQ 505 cập vào cầu tàu Chu-Lai để tiếp tục đón quân và gia đình binh sĩ của Sư-Đoàn II Bộ-Binh. Cảnh hỗn loạn lại tái diễn. Mọi người xô đẩy nhau, rớt xuống biển. Một số quân nhân không lên tàu được, uất, thảy lựu đạn vào lòng tàu, làm bị thương và chết nhiều người!
Từ đây, HQ 505 mang biệt danh “Con Tàu Máu”!
Sáng sớm ngày 26 tháng 3, lúc 5 giờ, HQ 404 và HQ 802 đến Chu-Lai; nhưng HQ 802 không vào được, vì cửa Chu-Lai quá nhỏ, dễ mắc cạn. Sương mù dày đặc, HQ 802 phải bắn trái sáng để HQ 404 tìm lối vào. Chỉ sau vài trái hỏa châu, lúc HQ 404 tìm được một hải đạo tốt để vào cũng là lúc Việt-Cộng nhận ra xự xuất hiện của cả hai chiến hạm. Ngay tức thì, địch từ bờ bắn ra xối xả. Biết bị lộ, HQ 802 ngưng bắn hỏa châu. Khó khăn lắm Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đại Nhơn mới đưa được HQ 404 vào cửa Chu-Lai.
Một số LCU của Quân-Vận từ Qui-Nhơn biệt phái ra Đà-Nẵng, lúc di chuyển ngang Đức-Phổ, đã bị trưng dụng vào Chu-Lai đón quân của Sư Đoàn II đưa ra đảo Lý-Sơn.
Lúc này, nơi cầu tàu Chu-Lai, ngoài HQ 505 còn có HQ 404, một MSF và mấy xà-lan, tàu dòng của hãng thầu Phi-Luật-Tân, cũng đang đón người lên.
Không có cảnh hãi hùng xẩy ra ở HQ 404, vì Hạm-Trưởng cặp tàu cách cầu tàu khoảng hai thước. Nhờ khoảng cách này, mọi người phải tuần tự lên chiến hạm bằng một cầu thang duy nhất.
Đầy người, HQ 505 lui ra. HQ 404, chiếc MSF và mấy xà-lan, chặt giây, tách bến, bỏ lại một xà-lan không tàu dòng.
Ba chiến hạm và đoàn xà-lan vừa ra đến eo cửa Chu-Lai thì Việt-Cộng nã hằng loạt đại bác xuống cầu tàu Chu-Lai. Một xà-lan bị trúng đạn, nhiều thương vong!
Hai tiểu đoàn thuộc Sư-Đoàn II rút về Chu-Lai trễ, thấy chiếc xà-lan bỏ trống, vội leo lên, chặt giây. Nhưng vì không có tàu dòng và vì thủy triểu dâng, chiếc xà-lan xấu số bị nước đẩy dạt về hướng Tam-Kỳ, thuộc tỉnh Quảng-Tín, nơi đã thuộc quyền kiểm soát của Việt-Cộng!
Bộ-Chỉ-Huy Quân-Đoàn I tăng phái tám LCM8 vào Chu-Lai, cũng với mục đích chuyển Sư-Đoàn II ra đảo Lý-Sơn.
Tối 26 tháng 3, lúc 11 giờ, tám LCM8 được mấy PCF của Hải-Đội I Duyên-Phòng hộ tống đến cửa Chu-Lai, bị Việt-Cộng bắn, cháy một chiếc. Không ai dám vào nữa!
Đến Cù Lao Ré, sau khi “đổ” Trung-Đoàn 4 và Trung-Đoàn 5 cùng gia đình binh sĩ, HQ 505 đươc lệnh trực chỉ Đà-Nẵng, mang theo số thương binh bị thương đêm 25 tháng 3.
Sau khi “đỗ” quân xong, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt ra lệnh Đại-Tá Liêm, Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Đoàn 4, Đại-Tá Huân, Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Đoàn 5 và Trung-Tá Hồ, Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Đoàn 6, kiểm điểm quân số. Kết quả là một nửa quân số – sáu ngàn binh sĩ – vắng mặt
Riêng HQ 404, sau khi đến Cù Lao Ré, Hạm-Trưởng cho neo, chờ lệnh. Lúc đó, một số quân nhân dùng vũ khí uy hiếp Hạm-Trưởng, buộc Hạm-Trưởng phải đưa họ về Đà-Nẵng, vì họ không muốn xuống Cù Lao Ré. Trước yêu sách của nhóm quân nhân này, thẩm quyền cao cấp tại Đà-Nẵng chỉ thị HQ 404 khởi hành về Đà-Nẵng.
HQ 404 đến cửa Đà-Nẵng lúc trời tối và sương mù dày đặc mà các phao đèn hai bên lại bị bất khiển dụng. Hạm-Trưởng phải cho nhân viên dùng đèn pha của chiến hạm, lần dò tìm lối vào. Cuối cùng HQ 404 “đổ” quân và gia đình binh sĩ xuống bãi Trịnh Minh Thế.
Phân-Bộ-Nam Hải-Quân không còn nữa.
Chiều 27 tháng 3, HQ 802 và chiếc NSF nhận lệnh về Đà-Nẵng, trực thuộc Bộ-Chỉ-Huy hành quân tiền phương Hải-Quân.
Ngày 28 tháng 3, tại Đà-Nẵng, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt họp với các vị Tư-Lệnh Sư-Đoàn, dưới sự chủ tọa của Tướng Ngô Quang Trưởng. Tướng Trưởng chỉ thị Tướng Nhựt đem quân về Bình-Tuy, chỉnh đốn hàng ngũ, chờ lệnh.
Tối 28 tháng 3, HQ 505 được lệnh đón một số quân, dân của Quân-Đoàn I từ Đà-Nẵng về Cam-Ranh.
Ngày 29 tháng 3, trên đường ra Đà-Nẵng, HQ 501 được lệnh đổi cấp, đến đảo Lý-Sơn đưa quân của Sư-Đoàn II Bộ-Binh cùng tướng Trần Văn Nhựt về Bình-Tuy.

 


CUỘC RÚT QUÂN TẠI ĐÀ-NẴNG

hai quan ra khoi-chuong 5

Vào tháng 3 năm 1975, những đại đơn vị cơ hữu của Quân-Lực V.N.C.H. tại Đà-Nẵng gồm:

  • Sư-Đoàn III Bộ-Binh – Tư Lệnh là Tướng Nguyễn Duy Hinh.
  • Sư-Đoàn I Không-Quân – Sư-Đoàn-Trưởng là Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh.
  • Lực-Lượng Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải – Tư Lệnh là Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
  • Trung Tâm Huấn-Luyện Bộ-Binh Hòa-Cầm.
  • Nhiều đơn vị Địa-Phương-Quân và Cảnh-Sát.

Sau khi Quảng-Trị và Huế bị bỏ ngõ, Quảng-Tín và Quảng-Ngãi thất thủ, Đà-Nẵng đang bị những gọng kềm sau đây siết chặt:

  • Sư-Đoàn 304 Việt-Cộng.
  • Sư-Đoàn 324 và Sư-Đoàn 325 cùng với vài thành phần của Sư-Đoàn 34 Việt-Cộng từ Quảng-Trị và Huế kéo quân về Nam.
  • Sư-Đoàn 2 và Lữ-Đoàn 52 Việt-Cộng từ Quảng-Tín và Quảng-Ngãi xua quân ra hướng Bắc.

Trong khi Đà-Nẵng đang bị địch cô lập dần dần thì hai đại đơn vị Thủy-Quân Lục-Chiến và Nhảy-Dù đang ở trên các chiến hạm, sẵn sàng rời Đà-Nẵng theo lệnh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Không hiểu sự dằn co giữa Tướng Ngô Quang Trưởng và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu diễn ra như thế nào, nhưng Sư-Đoàn Nhảy-Dù và Thủy-Quân Lục-Chiến đã lên HQ 504, HQ 505 và HQ 500 hai ngày rồi mà ba chiến hạm này vẫn chưa được lệnh tách bến.
Quá khuya 20 tháng 3, một Đại-Tá từ Quân-Đoàn I đích thân xuống chiến hạm, truyền lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho Hạm-Trưởng HQ 500, Hải-Quân Trung-Tá Lê Quang Lập, rời bến. Tiếp theo, HQ 504 và HQ 505 cũng được lệnh rời bãi Quân-Vận Đà-Nẵng.
Tin tình báo cho hay, khoảng 35 ngàn quân Việt-Cộng đang có mặt chung quanh Đà-Nẵng. Mặc dù có sự hiện diện của Lữ-Đoàn 258 Thủy-Quân Lục-Chiến tại phía Bắc đèo Hải-Vân, nhưng sự triệt thoái Sư-Đoàn Nhảy-Dù và Thủy-Quân Lục-Chiến trong thời điểm đó khiến mọi giới tại Đà-Nẵng xôn xao, lo ngại!
Riêng về Hải-Quân, mối quan ngại lớn là: Nếu tình thế bắt buộc phải rút khỏi Đà-Nẵng, làm thế nào Hải-Quân có thể đón tất cả quân bạn và gia đình binh sĩ mà vẫn bảo toàn được Lực Lượng Hạm-Đội!
Ngoài một số ít MSF biệt phái cho các vùng và một số chiến hạm đại kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng Saigon, tất cả chiến hạm khác được lệnh trực chỉ Đà-Nẵng.
Vào thời điểm rút quân tại Đà-Nẵng, thành phần chiến hạm tại Vùng I Duyên-Hải gồm:

  • Hải-Đội I Tuần-Duyên – Hầu hết MSF, PGM và một số PCF.
  • Hải-Đội II Chuyển-Vận – HQ 802; HQ 801, HQ 502, HQ 503, HQ 504, HQ 505, HQ 402, HQ 403, HQ 404 và một số LCU.
  • Hải-Đội III Tuần-Dương – HQ 2, HQ 3, HQ 5, HQ 7, HQ 12, HQ 17.

Ngoài ra còn có Lực Lượng Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải với ghe Hải-Thuyền và PCF.
Tại vịnh Đà-Nẵng, khi áp lực địch đè nặng lên mạn Bắc đèo Hải-Vân, các đơn vị trưởng của Bộ-Chỉ-Huy Hạm-Đội được phân phối như sau:

  • Tư-Lệnh Hạm-Đội ở trên HQ 5.
  • Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội I Duyên-Phòng có mặt tại Trung-Tâm Chiến-Báo (ICC – Intelligence Control Center) Vùng I Duyên Hải, với nhiệm vụ phối hợp và điều động quân bạn và Hải-Quân.
  • Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận từ HQ 801 chuyển qua HQ 802 tại sông Hàn.
  • Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương ở trên HQ 5.

Khi điều động HQ 802 từ Cù Lao Ré về Đà-Nẵng, Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân có dụng ý muốn xử dụng chiến hạm này làm Trung-Tâm Hành-Quân lưu động cho Quân-Đoàn I. Nhưng dự định đó đã không thực hiện được vì HQ 802 không có bãi đáp cho trực thăng. Nếu phải tháo gỡ những cần trục thì phương tiện không có, lại rất nguy hiểm vì dân chúng và binh sĩ đầy tàu.
Vì lẽ đó, HQ 801 được chỉ định chuẩn bị làm căn cứ cho Bộ-Chỉ-Huy chiến thuật Quân-Đoàn I rút xuống, trong trường hợp Đà-Nẵng bị tấn công.
Sau hai cuộc rút quân từ Thuận-An và Chu-Lai, hầu hết Lực Lượng Hạm-Đội đều tập trung trong vịnh Đà-Nẵng, nhưng án binh bất động.
Rút kinh nghiệm ở Huế và Thuận-An, khi thấy tàu Hải-Quân neo đầy vịnh và nghe tiếng súng nhỏ nổ lác đác trong thành phố Đà-Nẵng, mọi người ùa đến các cầu tàu và bãi cát.
Lúc này, hầu hết Tướng lãnh của Quân-Đoàn I đều tập trung tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải. Hải-Quân đặt kế hoạch là, nếu phải rút quân, bãi Mỹ-Khê, phía Nam vịnh Tiên-Sa, sẽ là bãi đón quân. Vì vậy, HQ 7 được lệnh tuần tiễu vùng này.
Trong khi tuần tiễu, HQ 7 vớt được một số Thủy-Quân Lục-Chiến.
Ngày 25 tháng 3, Việt-Cộng pháo nhiều hỏa tiễn 122 ly vào thị xã Đà-Nẵng.
Dân chúng từ Quảng-Trị và Huế kéo vào, choáng đường, gây trở ngại rất lớn cho công cuộc phòng thủ Đà-Nẵng. Cướp bóc bắt đầu hoành hành. Tất cả mọi nẻo đường, nhất là con đường độc nhất từ thị xã Đà-Nẵng sang Tiên-Sa, nghẹt cứng người, xe không thể di chuyển được. Ví lý do này, những đại đơn vị của V.N.C.H. không thể bố trí quân để chống trả với mấy Sư-Đoàn Việt-Cộng!
Trưa 25 tháng 3, tin tình báo cho biết Việt-Cộng sẽ tấn công Đà-Nẵng vào tối 25. Bộ Tổng-Tham-Mưu chỉ thị Trung Tướng Tư-Lệnh Vùng I cho di chuyển tất cả phi cơ về những phi trường phía Nam, thuộc sự kiểm soát của V.N.C.H. Cũng thời điểm này, Tổng Lãnh-Sự Mỹ tại Đà-Nẵng, Albert A. Francis, ra lệnh tất cả phóng viên ngoại quốc và nhân viên Hoa-Kỳ rời Đà-Nẵng ngay sáng 26 tháng 3.
Sau khi được Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương cho biết điểm khởi hành sẽ là bãi Mỹ-Khê, Tướng Nguyễn Văn Điềm băng mình trong rừng người, về Sơn-Chà tìm gia đình. Tướng Nguyễn Văn Điềm hứa sẽ trở lại đi với Hải-Quân, nhưng sau đó không thấy Ông trở lại.
Chiều 27 tháng 3, Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Đà-Nẵng, Albert A. Francis, ra lệnh những người Mỹ cuối cùng phải rời Đà-Nẵng.
Chuyến bay cuối cùng vừa cất cánh, phi trường Đà-Nẵng đóng cửa; vì dân, quân tràn ra phi đạo, không một phi cơ nào có thể đáp hoặc cất cánh được nữa! Thời gian này, cũng tại phi trường Đà-Nẵng, Tổng-Lãnh-Sự Albert A. Francis, bị dân quân Việt-Nam hành hung; nhưng nhờ hai người Anh can thiệp kịp thời, đưa Ông về Bộ-Chỉ-Huy Quân-Đoàn I, gặp Tướng Ngô Quang Trưởng. Vì phải sang Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến bên Non Nước hội, Tướng Trưởng đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh theo, bảo họ chờ ở phòng ngoài.
Trên biển, hầu hết PGM thuộc Hải-Đội I Tuần-Duyên được huy động để bảo vệ an ninh cho vịnh Đà-Nẵng. Những PGM này tạo một vòng đai phía ngoài, cách bờ từ 15 đến 20 dặm, để nghênh chiến trong trường hợp phi cơ hoặc tàu địch tấn công.
HQ 505 ủi bãi Sơn-Chà với nhiệm vụ đón thành phần di chuyển của Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến. HQ 404, “nằm yên” tại bãi Trịnh Minh Thế chờ lệnh. Những chiến hạm thuộc Hải-Đội III Tuần-Dương và Hải-Đội II Chuyển-Vận neo, chờ lệnh. HQ 230 và vài MSF tuần tiễu trên sông Hàn. Ngoài ra còn có ba thương thuyền của Mỹ, nhiều xà-lan và tàu dòng do Tướng Homer Smith – thuộc cơ quan D.A.O – từ Saigon gửi ra và vô số LCU, LCM, PCF và ghe Hải-Thuyền.
Ngày 28 tháng 3, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng liên lạc vô tuyến với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, xin chỉ thị rút khỏi Đà-Nẵng để bảo vệ Lực Lượng Quân-Đoàn I. Trong khi Tổng Thống Thiệu chưa có một quyết định dứt khoát thì hệ thống truyền tin trúng đạn pháo kích. Cuộc điện đàm giữa Trung Tướng Tư-Lệnh Vùng I, Ngô Quang Trưởng, và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị đứt đoạn.
Tướng Ngô Quang Trưởng gọi Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại sang Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến bên Non Nước họp để bàn kế hoạch di tản. Phiên họp gồm:

  • Tướng Ngô Quang Trưởng – Tư Lệnh Vùng I chiến thuật
  • Tướng Nguyễn Duy Hinh – Tư Lệnh Sư-Đoàn III Bộ-Binh
  • Tướng Bùi Thế Lân – Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến
  • Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại – Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải

Tướng Trưởng chỉ thị Phó-Đề-Đốc Thoại: Nếu phải rút khỏi Đà-Nẵng, Hải-Quân phải tận dụng mọi phương cách để chuyên chở binh sĩ và gia đình của họ. Tướng Trưởng cũng chỉ thị Tướng Hinh đưa Sư-Đoàn III ra bãi Hội-An để tàu Hải-Quân đón. Tướng Hinh xin 24 giờ nữa mới có thể điều động các đơn vị của Sư-Đoàn III được. Tướng Trưởng không chấp thuận. Phó-Đề-Đốc Thoại đưa ý kiến là Tướng Hinh bay ra bãi Bắc Hội-An điều động binh sĩ, 4 giờ sáng sẽ có tàu vào đón.
Sau khi phiên họp kết thúc, vừa ra khỏi phòng họp, Phó-Đề-Đốc Thoại thấy Tổng-Lãnh-Sự Albert A. Francis và hai người Anh đang chờ phía ngoài. Cả ba người ngoại quốc này đều xin Phó-Đề-Đốc Thoại phương tiện rời khỏi Đà-Nẵng.
Trên trực thăng riêng của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, ngoài Phó-Đề-Đốc Thoại còn có Tướng Trưởng, Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh.
Tại Tiên-Sa, Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Thi, Tướng Hinh, Phó-Đề-Đốc Thoại và Đại-Tá Nguyễn Thế L. Thủy-Quân Lục-Chiến (Đại-Tá L. bị thương, phải nằm trên bàn), họp ngay hầm chống pháo kích trong lòng núi Tiên-Sa. Hầm này do Công-Binh đào từ năm 1972, bên dưới tư dinh của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải. Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh ở một hầm khác.
Nội dung cuộc họp cũng chỉ bàn về kế hoạch rút quân bằng cách nào mà sự tổn thất có thể giảm đến mức tối thiểu. Trung Tướng Trưởng chỉ thị Tướng Lâm-Quang-Thi lên HQ 5 ra phía Bắc Hải-Vân điều động cuộc triệt thoái Thủy-Quân Lục-Chiến. Từ đây, HQ 5 được xem như Soái-Hạm.
Họp xong, Phó-Đề-Đốc Thoại chỉ thị Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê xử dụng Soái-Đỉnh của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh ra Soái-Hạm HQ 5, lập Bộ-Chỉ-Huy nổi. Thi hành công tác xong, Đại-Tá Khuê phải gửi Soái-Đỉnh vào ngay, để sau khi lo xong những việc khẩn cấp, Phó-Đề-Đốc Thoại sẽ dùng để ra HQ 5.
Trung tâm hành quân Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải gọi HQ 5 và thông báo cho HQ 5 biết Soái-Đỉnh của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải đang trên đường tìm đến HQ 5.
Trong khi đó, mặc dù người đông nghẹt trên bãi, tất cả chiến hạm vẫn chưa được lệnh ủi bãi.
Trưa 28 tháng 3, tất cả chiến hạm và tàu nhỏ nhận lệnh tiếp nhận quân bạn và đồng bào.
Khi HQ 402 và HQ 403 đang ủi bãi, thi hành nhiệm vụ chuyển tiếp quân và đồng bào từ bãi Tiên-Sa ra tàu lớn thì nhiều thiết vận xa tiến đến, giây xích sắt nghiến bừa lên vô số người, không cho Thủy-Quân Lục-Chiến và Bộ-Binh lên tàu!
Sau khi nghe Hải-Quân bắt loa kêu gọi và hứa sẽ đón hết, xe thiết giáp mới dừng lại, tạo thành một dọc dài trên bờ biển!
HQ 403 vừa ủi bãi, cửa đổ bộ chưa kịp hạ xuống, không biết bao nhiêu người từ bờ đã ùa ra, vây quanh thân tàu, leo vào lòng tàu. Hạm trưởng cho thả thang giây và giây thừng loại lớn hai bên tả và hữu hạm cũng như sau lái để đồng bào bám vào, leo lên tàu.
Cửa đổ bộ từ từ hạ xuống. Hải-Quân Trung-Úy Nguyễn Hữu Từ và một Trung-Úy nữa, cũng tên Từ, được phái xuống cửa đổ bộ để kéo hoặc giúp đỡ quân bạn lên tàu. Không ngờ, tại cửa đổ bộ, cả hai Trung-Úy đều bị người ta kéo ngược xuống nước, không thể nào lên tàu lại được! Trên bờ, thiết giáp và GMC lại cán bừa lên mọi người để tiến đến chiến hạm!
Hạm trưởng HQ 403 bắt loa kêu gọi đồng bào đừng bơi gần tàu và nhất là đừng đến gần sau lái, nguy hiểm. Hạm trưởng hứa sẽ trở vào đón thêm nhiều chuyến nữa. Nhưng, người người vẫn cứ từ bờ ào ra, chờn vờn quanh thân tàu, súng đạn vất đầy bãi cát.
Không xa HQ 403 lắm là HQ 402. Tình trạng chiến hạm này cũng không khá gì so với HQ 403. Nhìn một tàu đầy nghẹt người, nghe nhiều tiếng súng lớn phát ra và nhiều cột nước bắn lên từ phía HQ 402, Hạm-Trưởng HQ 403 lo ngại, muốn cho chiến hạm lui ra. Nhưng thấy đầu người lúc nhúc quanh tàu, Hạm-Trưởng không nỡ.
HQ 402 đang từ từ lui ra và nhiều tiếng súng bắn theo!
Thấy HQ 402 lui ra, và sau nhiều phút do dự, Hạm-Trưởng HQ 403 ra lệnh: “Tay lái hết bên phải. Tả lùi. Hữu tiến.” Chân vịt khuấy lên. Nước cuồn cuộn đỏ nhưng con tàu vẫn không nhúc nhích!
Hạm-Trưởng HQ 403 gọi Tư-Lệnh Hạm-Đội, xin cho tàu lớn vào kéo.
Đợi khoảng nửa giờ không thấy ai vào kéo mà chỉ thấy thêm người trèo vào tàu, Hạm-Trưởng ra lệnh nhiệm sở tác chiến và tất cả quân nhân đơn vị bạn phải xuống lòng tàu.
Một lúc lâu, nhờ sự bình tĩnh của chính mình và cũng nhờ vào khả năng của sĩ quan cơ khí giàu kinh nghiệm, HQ 403 đã lùi được và quay thật nhanh. Vòng quay này thân tàu đã lướt trên nhiều thân người. Khi chiến hạm lui ra, một số người bị sức hút của nước kéo theo, đập vào thành tàu, chết!
Sau khi chuyển người sang tàu lớn, HQ 403, lại được lệnh trở vào bãi biển Tiên-Sa đón thêm quân bạn và đồng bào. Vì ngại chiến hạm bị mắc cạn và sợ phải thấy những sự việc thương tâm như chuyến vừa rồi, Hạm-Trưởng HQ 403 đề nghị cấp chỉ huy xét lại lệnh này.
Chiều 28 tháng 3, tất cả hệ thống truyền tin của mọi binh chủng thuộc Quân-Lực V.N.C.H. bị Việt-Cộng xâm nhập, khuấy phá, khiến sự liên lạc trở nên vô cùng khó khăn.
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon liên tục gọi 27 chiến hạm trong vịnh Đà-Nẵng, bảo tìm phương vị của Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Soái-đỉnh chở Tổng-Lãnh-Sự Francis cặp một Coast Guard và Coast Guard đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis lên HQ 5. Lúc này, không thấy Phó-Đề-Đốc Thoại trên Coast Guard cùng với Tổng-Lãnh-Sự Francis, mọi người trên HQ 5 hoảng lên; vì nghĩ rằng Phó-Đề-Đốc Thoại có thể đã mất tích hoặc chết rồi!
Khi Tổng-Lãnh-Sự Francis vừa lên tàu, luồng phẫn nộ bộc phát dữ dội trong số quân, dân di tản; vì họ hận Mỹ bỏ rơi miền Nam Việt-Nam! Hạm-Trưởng HQ 5 đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis lên phòng riêng và cho nhân viên bảo vệ Ông.
Trong khi Tổng-Lãnh-Sự Francis được an toàn trên HQ 5 thì tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Thoại ra lệnh Tư-Lệnh-Phó, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Công Hội, kiểm soát tất cả các phòng rồi đưa Bộ-Tham-Mưu đi ra bãi Bắc. Phó-Đề-Đốc Thoại ở lại.
Hải-Quân Trung-Úy Đoàn Như Ngọc, tùy viên của Phó-Đề-Đốc Thoại, tỏ ý muốn xin theo Đại-Tá Hội. Nhưng, khi Phó-Đề-Đốc Thoại thuận thì Trung-Úy Ngọc lại đổi ý, xin ở lại. Biết Trung-Úy Ngọc mới cưới vợ, Phó-Đề-Đốc Thoại bảo Trung-Úy Ngọc hãy đi trước khi quá trễ. Quyết định này của Phó-Đề-Đốc Thoại đã gây trở ngại rất nhiều cho chính Ông, khiến Ông bị kẹt lại trên đảo; vì Trung-Úy Ngọc mang theo tất cả mật mã truyền tin!
Soái đỉnh của Tư-Lệnh Vùng I Duyên-Hải trở lại Tiên-Sa với mục đích đón Ông. Nhưng đủ loại súng từ bờ bắn ra chiến hạm và chiến đỉnh cho nên không tàu nào dám vào!

Nhờ biết được tần số liên lạc, Việt-Cộng gọi đích danh danh hiệu nhiều đơn vị trưởng để chiêu dụ. Đặc công Việt-Cộng giả kẻ tu hành, gây náo loạn trên vài chiến hạm. Trên bờ, Việt-Cộng mặc quân phục Thủy-Quân Lục-Chiến, lấy súng giết người, cướp của, hãm hiếp, cố tạo tiếng xấu cho binh chủng này, đồng thời gây kinh hoàng cho đồng bào.
Khoảng 8 giờ tối 28 tháng 3, Tướng Ngô Quang Trưởng gọi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng không gặp. Mười giờ, Tổng Thống Thiệu gọi lại. Tướng Trưởng xin Tổng Thống Thiệu cho di tản bằng đường biển.
Cuộc điện đàm vừa đến ngang đây, hỏa tiễn 122 ly của Việt-Cộng từ hướng Nam-Ô nã thẳng vào Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, làm hư hại nặng trực thăng của Tướng Ngô Quang Trưởng và trực thăng của Tướng Bùi Thế Lân, Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến.
Tướng Trưởng xử dụng một trực thăng khác, bảo bay về Quân-Đoàn. Đến nơi, không thấy ai cả, Tướng Trưởng ra lệnh bay sang Bộ-Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến tại Non Nước. Tướng Trưởng ở lại đây với Thủy-Quân Lục-Chiến. Lúc này Bộ-Tham-Mưu và lực lượng Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến còn nguyên vẹn, dưới sự chỉ huy của Tư-Lệnh-Phó Thủy-Quân Lục-Chiến, Đại-Tá Nguyễn Thành Trí.
12 giờ đêm 28 tháng 3, Trung Tướng Lâm Quang Thi và Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn dùng trực thăng của Tướng Thi bay ra và đáp trên một LST. Sau đó phi công mới biết là hai cánh quạt trên trực thăng của Tướng Thi bị bắn lủng hai chỗ. Từ LST, Tướng Thi và Đại-Tá Sơn được một PCF đưa đến Soái-Hạm Trần-Bình-Trọng HQ 5.
Phó-Đề-Đốc Thoại, Tướng Lân và Đại-Tá Nguyễn Thế L. kẹt lại. Sau khi thiêu hủy tất cả hồ sơ mật, Phó-Đề-Đốc Thoại, Tướng Lân cùng nhiều sĩ quan các cấp đưa Đại-Tá L. và cận vệ của Phó-Đề-Đốc Thoại – người này bị thương vì Việt-Cộng pháo kích – đi bộ ngược lên núi Sơn-Chà, đến một bãi cát nhỏ phía Bắc Sơn-Chà. Tại đây, Phó-Đề-Đốc Thoại liên lạc truyền tin kêu cứu, không một đơn vị nào đáp lại!
4 giờ sáng 28 tháng 3, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy, Thiếu-Tá Căn và Đại-Úy Sinh tìm cách đưa đoàn ghe của Duyên-Đoàn 12, chở đầy người, ra biển, tập trung tại vùng China Beach. Khi đoàn ghe vừa ra khỏi cửa Đà-Nẵng, hướng về điểm hẹn thì Việt-Cộng lại pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải. Một Trung-Úy Việt-Cộng bị bắt tại chỗ trong khi anh ta đang liên lạc vô tuyến, cho tọa độ.
Thiếu-Tá Hy mở máy liên lạc, các tần số Hải-Quân đều yên lặng. Khi mở sang tần số đặc biệt, Thiếu-Tá Hy nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Thoại kêu cứu! Thiếu-Tá Hy trả lời. Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải cho Thiếu-Tá Hy biết địa điểm của Ông rồi chớp đèn, hướng dẫn để Thiếu-Tá Hy cho ghe vào sát các mỏm đá.
Thiếu-Tá Hy lần lượt kéo Phó-Đề-Đốc Thoại, Tướng Lân, mấy bác sĩ Quân-Y và hai sĩ quan hoa tiêu trực thăng lên ghe. Vì ghe nhỏ, không chở được nhiều, Thiếu-Tá Hy cho ghe lui ra, đưa quý vị trên ghe lên một Coast Guard rồi trở vào nhiều lần nữa để đón những sĩ quan cao cấp Hải-Quân khác.
Lần trở vào thứ tư Thiếu-Tá Hy cứu được Hải-Quân Thiếu-Tá Trần-Bích-Thùy, Hải-Quân Thiếu-Tá Vũ Bá Trạch và một Trung Úy Hải-Quân.
Cũng thời điểm này, HQ 403 được lệnh vào vịnh nhỏ bên trái cửa biển – gần Observatory Light Point – để đón một Đại-Tá cùng binh sĩ và gia đình. Vịnh rất hẹp, sóng lớn. Tuy chiến hạm bị sóng nhồi, suýt đập vào vách đá nhiều lần, nhưng HQ 403 vẫn cố vào sát những mỏm đá, chiếu đèn pha và bắt loa gọi. Không ai trả lời.
Sáng sớm 29 tháng 3, sau khi báo cáo lên Tư-Lệnh Hạm-Đội về việc không tìm được vị Đại-Tá và binh sĩ vào tối hôm trước, HQ 403 được lệnh lẩn quẩn trong sông Hàn, đón ghe chở quân nhân và đồng bào ra. Công tác này không thể thực hiện được, vì sóng lớn quá. Nếu ghe cập gần chiến hạm thì bị sóng đánh ập vô thành tàu rồi văng ra xa. Nhân viên HQ 403 tìm mọi phương cách nhưng vẫn không cứu vớt được ai – kể cả vợ của Hải-Quân Trung-Úy T., một sĩ quan của HQ 403!
HQ 403 lại được lệnh ủi bãi trong vịnh Liên-Chiêu để đón những đơn vị Biệt-Động-Quân. HQ 403 chờ mãi vẫn không thấy đơn vị bạn xuất hiện.
Trong vịnh Đà-Nẵng và bãi Tiên-Sa, chiến hạm Hải-Quân vẫn thực hiện công tác đón nhận binh sĩ và đồng bào một cách rất khó khăn và nguy hiểm. Trong lòng các chiến hạm, máy truyền tin của Bộ-Binh vất đầy. Nhiều nhân viên của chiến hạm bắt được tần số của Việt-Cộng, hai bên đấu khẩu.
Tại mũi Tiên-Sa, HQ 802 vào gần sát bờ để đón Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội I Duyên-Phòng. Xong, HQ 802 đến gần mũi Isabel (bờ Bắc vịnh Đà-Nẵng), len vào thật sát các mỏm đá để đón Lữ-Đoàn 258 và Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến. Cuộc đón quân này tương đối ít tổn thất vì tinh thần kỷ luật của Thủy-Quân Lục-Chiến rất cao.
Vì hệ thống truyền tin bị khuấy phá, Hạm-Trưởng HQ 802, Hải-Quân Trung-Tá Vũ Quốc Công, buộc phải nhập vào hệ thống truyền tin của Bộ-Chỉ-Huy Hạm-Đội Tiền-Phương. Trung-Tá Công được lệnh đưa Thủy-Quân Lục-Chiến về vùng tập trung chiến hạm tại Cù Lao Chàm.
Trong khi đó, một trực thăng lượn qua lượn lại quanh HQ 404. Ngại bị trực thăng bắn, Hạm-Trưởng ra lệnh kéo cờ nhiệm sở tác chiến. Sau vài vòng bay lượn, thấy chiến hạm báo động, nhóm người trên trực thăng ra dấu chào hỏi và liệng xuống một chiếc giày trận rồi bay vào bờ. Rời trực thăng, nhóm người ấy bơi ra HQ 404.
Sau khi vớt nhóm người từ bờ bơi ra, mọi người trên chiến hạm mới biết nhóm người đó là:

  • Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh – Sư-Đoàn-Trưởng Sư-Đoàn I Không-Quân
  • Đại-Tá Phước – Không-Đoàn-Trưởng Không-Đoàn 63
  • Đại-Tá Vượng – Không-Đoàn-Trưởng Không-Đoàn Khu-Trục
  • Nhiều sĩ quan khác

Chiều 29 tháng 3, HQ 404, được lệnh rời bãi Trịnh-Minh-Thế, đến cập cầu Căn-Cứ Yểm-Trợ tiếp vận Đà-Nẵng bên Tiên-Sa. Một số quân nhân và đồng bào đã leo được vào chiến hạm. Sau đó, HQ 404 lại được lệnh lui ra, neo tại sông Hàn, chờ lệnh.
Khuya 29 tháng 3, khoảng 12 giờ 30, Hạm-Trưởng HQ 404, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đại Nhơn, nhận được mật lệnh từ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân: “Chỉ thị HQ 404 đúng 04 giờ 30 sáng 30 tháng 03 năm 1975, vào cách bờ 05 hải lý để đón Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh Quân-Đoàn I!”
30 tháng 3, đúng 4 giờ sáng, Trung-Tá Nhơn báo cáo đã đến điểm hẹn. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ thị HQ 404 thả trôi lềnh bềnh, chờ lệnh trực tiếp từ Tổng-Tham-Mưu.
Đến 8 giờ sáng, không thấy lệnh mới, Trung-Tá Nhơn liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân xin chỉ thị. Được trả lời: “Cứ lềnh bềnh ở đó, chờ lệnh.”
10 giờ sáng, Hạm-Trưởng HQ 404 sốt ruột, dùng máy truyền tin PRC25 liên lạc bằng bạch văn với Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn trả lời: “Tôi không có thẩm quyền gì về chiến hạm của anh cả. Anh hãy chờ lệnh từ Tổng-Tham-Mưu. Tuy nhiên, cho anh hay là Trung Tướng Trưởng đang ở trên bờ, ngay trước mặt anh đó.”
Mặc dù không có lệnh nào cho phép ngưng thả trôi lềnh bềnh, Hạm-Trưởng HQ 404 cũng vẫn cho chiến hạm vào gần bờ, với mục đích tìm vớt Tướng Ngô Quang Trưởng.
Khoảng 2 giờ trưa cùng ngày, từ Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến ở căn cứ Non Nước, nhân viên canh phòng thấy HQ 404 vào, liền trình lên thượng cấp.
Biết chiến hạm vào đón, Thủy-Quân Lục-Chiến tận dụng phao, poncho và tất cả vật nổi để làm bè. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng bơi ra chiến hạm HQ 404 với những người lính đã từng sống chết với Ông qua nhiều chặng đường binh nghiệp hay go!
Trên HQ 404, cũng như tại căn cứ Thủy-Quân Lục-Chiến ở Non Nước, Bộ-Tham-Mưu Thủy-Quân Lục-Chiến thảo công điện theo chỉ thị của Tướng Trưởng để gửi về Saigon.
5 giờ chiều, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quânchỉ thị HQ 5 đón Tướng Trưởng từ HQ 404 sang Soái-Hạm, vì HQ 5 đầy đủ tiện nghi.
Tuy cuộc rút quân thê thảm trong vịnh Đà-Nẵng chưa chấm dứt, nhưng HQ 404 và HQ 5 vẫn chuẩn bị nghi lễ đúng truyền thống Hải-Quân để đưa và đón Tư-Lệnh Quân-Đoàn I – Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Hạm Phó HQ 5, Hải-Quân Thiếu-Tá Hồ Văn Kỳ Tường, mang sang HQ 404 mật điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu-Tá Tường được Hạm-Phó HQ 404 hướng dẫn gặp Tướng Trưởng. Trong bộ quân phục Hải-Quân màu xám tím, không mang cấp bậc, áo bỏ ngoài, Tướng Trưởng rời giường ngủ của đoàn viên, cầm mật điện, xé ra đọc. Đọc xong, Tướng Trưởng ra lệnh cho Thiếu-Tá Tường: “Báo cáo với Saigon là tôi xin được ở đây với anh em Thủy-Quân Lục-Chiến chứ không đi đâu cả.”
Yêu cầu của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Tổng Thống Thiệu chấp thuận.
Những chiến hạm chở đầy người được lệnh rời vùng, di chuyển chậm để có thể đón thêm người từ ghe ra biển. Những thương thuyền của Mỹ, tàu nhỏ và xà-lan cũng rời Đà-Nẵng.
HQ 17, sau khi nhận thêm một số Thủy-Quân Lục-Chiến và đồng bào, được chỉ thị yểm trợ HQ 404, đưa Tướng Ngô Quang Trưởng và Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến về Vùng II.
Trên hải trình xuôi Nam, khi qua mũi Sơn-Chà, HQ 802 tình cờ bắt được liên lạc truyền tin với một thành phần của Bộ-Chỉ-Huy hành quân Quân-Đoàn I trên tần số giải tỏa. Nhóm này yêu cầu Hải-Quân cứu giới chức thẩm quyền.
Ngại Việt-Cộng xâm nhập, khai thác hệ thống truyền tin, Hạm-Trưởng HQ 802 trình lên Bộ-Chỉ-Huy Hạm-Đội tiền phương. Giới chức này không giải quyết được và cho phép Hạm Trưởng HQ 802 tùy nghi.
Lời kêu cứu của nhóm Quân-Đoàn I lại vang lên. Bây giờ lại thêm tiếng kêu cứu của nhóm khác: “Hải-Quân ơi! Cứu Không-Quân với!” Nhóm thứ hai cho biết họ đang kẹt tại phía Nam bán đảo Sơn-Chà. Họ phóng hỏa châu để HQ 802 dễ nhận ra vị trí của họ.
HQ 802 đổi hướng, quay lại đón nhóm Không-Quân. Khi tiến vào bán đảo Sơn-Chà, Hạm-Trưởng cho phóng đèn pha lên trời để nhóm Không-Quân nhận biết sự hiện diện của HQ 802. Vừa khi đó, trên sườn đồi sát mặt biển, đèn trực thăng bỗng lóe lên và tiếng kêu cứu của Bộ-Chỉ-Huy hành quân Quân-Đoàn I cũng vang lên.
Hải-Quân Trung-Tá Vũ Quốc Thông, Hạm-Trưởng HQ 802, ra lệnh nhiệm sở tác chiến, đồng thời cho hạ xuồng đổ bộ vào cứu cả hai nhóm. Nhóm Bộ-Chỉ-Huy hành quân Quân-Đoàn I có Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư-Lệnh Sư-Đoàn III Bộ-Binh. Quân của Sư-Đoàn III Bộ-Binh về đến Nam-Ô thì tan rã, chỉ còn khoảng một Lữ-Đoàn!
Công tác cứu người hoàn tất, HQ 802 trực chỉ về Nam. Trên hải trình, HQ 802 gặp lại đoàn tàu của Hải-Đội I Duyên-Phòng và một trong những tiểu đỉnh đó chở Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. HQ 802 đón Phó-Đề-Đốc Thoại và đoàn tùy tùng của Ông sang.
Tối 30 tháng 3, sau khi rời Đà-Nẵng, HQ 403 nhận quang hiệu từ phía sau, cho biết, họ là tàu dòng Seapac, đang kéo hai xà-lan với khoảng mười ngàn người, cầu cứu nước uống. Hạm Trưởng HQ 403 do dự suốt mấy tiếng đồng hồ. Sau cùng, biết chắc chắn không thể nào đủ nước uống cho từng ấy người, và lo ngại cho sự an toàn của HQ 403 khi chiến hạm cặp vào xà-lan, Hạm-Trưởng HQ 403 đành quyết định đi luôn.
Trên một trong hai xà-lan đó có Hải-Quân Thiếu-Tá Võ Văn Q., bạn cùng khóa với Hạm-Trưởng HQ 403. Sau này Thiếu-Tá Q. cho biết: Đồng bào và quân nhân trên hai xà-lan ấy nhờ liếm sương trên xà-lan vào mỗi sáng sớm cho nên khỏi chết khát!
Còn hai xà-lan khác đứt giây dòng trong đêm, trôi dạt phương nào, chiếc tàu dòng kiếm không ra. Về sau trực thăng Mỹ tìm thấy, nhưng mọi người trên hai xà-lan ấy đã chết khô!
Ngày 31 tháng 3, lệnh trưởng phòng 3 hành quân di chuyển, từ Soái-Hạm HQ 5, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận, sang HQ 230, ngược trở lại để yểm trợ Duyên-Đoàn 14 vừa từ Hội-An ra. Công tác này được thực hiện tốt đẹp.
Khi đoàn tàu đến gần Qui-Nhơn, vừa qua khỏi Cù Lao Chàm, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển, được báo cáo là sót một chiếc phà đầy người tại đài kiểm báo 101.
HQ 17, HQ 8 và HQ 12, được lệnh sớt người qua những chiến hạm khác rồi quay lại Đà-Nẵng. Hai trong ba chiến hạm đó được chỉ thị quan sát và yểm trợ để chiếc thứ ba vào đón chiếc phà.
Ngoài ba chiến hạm vừa trở lại, vịnh Đà-Nẵng vắng tênh!


VÙNG II DUYÊN HẢI

Sau khi quân V.N.C.H. rút khỏi Đà-Nẵng và tình hình Qui-Nhơn trở nên nguy ngập, Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị Tham-Mưu-Trưởng kiêm Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy, ra Cam-Ranh giải quyết những ứ đọng tại đó để Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, lên HQ 3 ra Qui-Nhơn, trực tiếp điều binh tại chiến trường.

CUỘC RÚT QUÂN TẠI QUI-NHƠN

HQVNCH

Trong thời gian tình hình Đà-Nẵng sôi động, HQ 400 – đã được tháo gỡ tất cả trang bị của một bệnh viện hạm – nhận lệnh chuyên chở đạn pháo binh từ Cam-Ranh ra tiếp tế Sư-Đoàn 22 phòng thủ Qui-Nhơn.
Ngày 20 tháng 3, HQ 400 ủi bãi Qui-Nhơn.
Tối 20 tháng 3, lúc 11 giờ, trong khi chờ phương tiện “bốc” số đạn pháo binh, HQ 400 bị 3 người nhái Việt-Cộng lặn đến, đặt mìn. Nhân viên canh phòng chiến hạm phát giác kịp thời, thảy lựu đạn, bắt sống được một tên – chỉ mới 16 tuổi – hai người kia lặn thoát.
Vào thời điểm này, Lực-Lượng Hải-Quân trong vịnh Qui-Nhơn có khoảng mười chiến hạm, gồm PC, PCE và WHEC với súng lớn, có tầm bắn xa, cùng với một số PGM.
Tình hình Qui-Nhơn sôi động hơn, vì tin tình báo cho hay 3 Sư-Đoàn Bắc-Việt, sau khi chiếm Đà-Nẵng, đang trên đường tiến vào Qui-Nhơn. Trên đường tiến quân, Bắc quân đã chiếm một quận nhỏ phía Bắc Qui-Nhơn.
Sau khi “đổ” quân bạn và đồng bào xuống Cam-Ranh, HQ 505 được lệnh từ Vùng II Duyên-Hải: Trở ra Sông-Cầu để yểm trợ Duyên-Đoàn 23 rút về Nha-Trang.
HQ 3 đưa Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, từ Cam-Ranh đến Qui-Nhơn. HQ 3 trở thành Soái-Hạm.
Tại Qui-Nhơn, Tướng Nguyễn Duy Hinh và Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại từ HQ 802 sang HQ 3; và hầu hết đơn vị trưởng Hải-Quân đều ở trên HQ 3. Riêng Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương ở trên HQ 8.
Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, vào chức vụ Tư-Lệnh các Lực-Lượng Hải-Quân yểm trợ chiến trường Qui-Nhơn.
Ngày 31 tháng 3, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân ra lệnh Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương bắn kho xăng Shell và kho xăng Quân-Nhu trên núi, thuộc thành phố Qui-Nhơn. Đồng thời Tổng Thống Thiệu cũng chỉ thị Hải-Quân “bốc” Sư-Đoàn 22, thuộc quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui-Nhơn.
Vịnh này rất cạn. Một hải đạo sâu nhất vịnh được ghi trên bản đồ chỉ có độ sâu từ một thước rưỡi đến một thước tám! Điểm gần nhất chiến hạm có thể vào được cách bờ đến khoảng năm trăm thước – một khoảng cách không thể nào một người bình thường có thể bơi ra được!
Trong khi HQ 7 được lệnh vào sát Ghềnh-Ráng, bắn chung quanh Tòa Tỉnh – vì được báo cáo nơi đây đang bị Việt-Cộng tấn công – thì Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận được chỉ định sang HQ 403 thực hiện cuộc đón quân của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Từ HQ 403, Trung-Tá Phong lấy ống dòm quan sát. Biển êm. Trên bờ quân lính ngồi ngay ngắn, rất có kỹ luật. HQ 403 từ từ tiến vào. Cả chiến hạm đều ngạc nhiên, tự hỏi: Tại sao thấy chiến hạm vào mà khối quân nhân trên bờ vẫn ngồi yên? Phải chăng đơn vị này đã bị Việt-Cộng chế ngự?
Tuy sợ mắc cạn và thấy tình thế bất lợi trên bờ, HQ 403 cũng vẫn chuẩn bị ủi bãi sau khi ban hành nhiệm sở tác chiến.
Trời tối dần. Biển lặng cho đến nỗi có thể nghe được tiếng mũi tàu chạm vào cát. Bỗng, ầm! Ầm! Ầm…Tiếng đạn B40 vang rền và nước bắn tung tóe trước mũi chiến hạm. Vì chỉ là một LSM, không được trang bị súng lớn, HQ 403 báo cáo ngay về HQ 3 rồi lui ra khỏi tầm đạn, chờ lệnh.
Trong khi HQ 403 chưa thể vào vịnh được thì Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh HQ 400 ủi bãi Trường Sư-Phạm Qui-Nhơn để đón vài đơn vị khác của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Từ trong bờ, Việt-Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến HQ 400 không thể nào ủi bãi được. Cuối cùng, những đơn vị của Sư-Đoàn 22 phải bơi ra tàu. Trong số những quân nhân bơi ra tàu có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Trong khi đó, từ thành phố Qui-Nhơn, Trung-Đoàn-Trưởng Trung-Đoàn 42 Bộ-Binh – thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh – Đại-Tá Nguyễn Hữu Thông, liên lạc trực tiếp với Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển và cho biết rằng trong thành phố Qui-Nhơn không có một tên Việt-Cộng nào cả. Trung-Tá Uyển hỏi về những tiếng súng thì Đại-Tá Thông trả lời, đó là của Nhân-Dân Tự-Vệ bắn vu vơ, để ông ấy cho dẹp. Vì muốn biết tình hình trên bờ, Trung-Tá Uyển yêu cầu Đại-Tá Thông ra tàu sớm để hỏi thăm. Đại-Tá Thông bảo Trung-Tá Uyển cho tàu đón lính của Ông trước đi.
Tối 31 tháng 3, sau khi được báo cáo là Thiếu Tướng Phan Đình Niệm đang ở trên HQ 400 và tinh thần của Ông hơi bất an, Tướng Phạm Văn Phú, Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, chỉ định Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, thay thế Tướng Phan Đình Niệm ở chức vụ Tư-Lệnh chiến trường Bình-Định. Tướng Phan Đình Niệm rời vùng trách nhiệm, theo HQ 400 về Vũng-Tàu.
Sáng 1 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh các chiến hạm bắn hải pháo vào phi trường Qui-Nhơn.
Lúc này, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui-Nhơn, không biết bao nhiêu quân nhân bơi lố nhố trên mặt biển. Vì độ sâu của biển không cho phép chiến hạm ủi bãi, cho nên, nhiều PCF được phái tới, vào sát bờ, cứu gần trọn vẹn một Trung-Đoàn; còn một Trung-Đoàn khác ở lại, không bơi ra tàu.
Lý do một Trung-Đoàn không bơi ra tàu là vì: Trong cuộc chạy loạn từ vùng hỏa tuyến vào, cựu Trung-Đoàn-Trưởng của một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh gặp lại đơn vị cũ của Ông. Đơn vị này cho Ông biết, họ không hiểu tại sao họ phải bỏ chạy trong khi họ đang thắng lớn tại đèo Phủ-Cũ, An-Khê. Vị Trung-Đoàn-Trưởng “nhận lại” đơn vị của Ông, rồi tất cả quay vào rừng!
Cuộc đón quân tại cầu tàu Qui-Nhơn được thực hiện tương đối không mấy khó khăn. Trung-Tá Uyển lại liên lạc với Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Thông, hỏi tại sao chưa thấy Ông trên tàu? Đại-Tá Thông đáp: “Tôi không thể ra với anh được. Lính của tôi ra hết rồi. Cảm ơn anh. Tôi đi về!” Không ai biết vị anh hùng ấy đi về đâu! (2)
Tất cả Duyên-Đoàn thuộc Vùng II Duyên-Hải ở mạn Bắc Qui-Nhơn được lệnh rút về phía Nam.
Tại Sông-Cầu, trong khi yểm trợ Duyên-Đoàn 23, HQ 505 bị hai xe tăng Việt-Cộng bắn trực xạ. Là một LST với trọng tải chuyên chở một ngàn tấn, bài-thủy-lượng bốn ngàn tấn và chỉ được trang bị ba khẩu 40 ly đơn để phòng không chứ không có “moọc-chê”, Hạm-Trưởng cho chiến hạm quay mũi, chạy ra. Vừa lúc đó, Duyên-Đoàn 23 cũng ra khỏi cửa sông. Từ đây, HQ 505 hộ tống Duyên-Đoàn 23 và đoàn ghe cùng PCF của Vùng I Duyên-Hải về Nha-Trang.
Thời gian này, nhiều MSF và PC tuần tiễu vùng Sông-Cầu báo cáo về Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân Saigon là xe tăng Việt-Cộng di chuyển khơi khơi trên quốc lộ và ban đêm từng đoàn Molotova chạy, rọi đèn sáng rực mà những chiến hạm này không thể ngăn chận; vì MSF và PC chỉ được trang bị súng 76 ly mà thôi!
Sau khi Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân xin Không-Quân yểm trợ mà bị từ chối, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang chỉ thị những chiến hạm với trọng pháo có tầm bắn xa, bắn sập tất cả cầu trên quốc lộ I từ Qui-Nhơn đến Đèo Cả.
Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, trình lên Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân: Hải-Quân có thể điều động 3 Duyên-Đoàn; mỗi Duyên-Đoàn có khoảng 150 đoàn viên, cộng với vài chiếc WHEC có đại bác và 4, 5 MSF. Lực lượng này cùng với tất cả đơn vị Bộ-Binh, Nghĩa-Quân, Biệt-Động-Quân, v. v…sẽ đặt tuyến vòng đai phòng thủ Qui-Nhơn. Nếu Bộ-Tổng-Tham-Mưu can thiệp để Không-Quân yểm trợ cho lực lượng này trong vòng một tuần lễ thì Hải-Quân sẽ tăng phái nhiều WHEC vận chuyển súng lớn đến. Và như thế, những đơn vị phía Nam Qui-Nhơn đủ thì giờ tổ chức, phối hợp, bố trí, chận ngang quốc lộ I.
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đồng ý giải pháp do Hải-Quân đề nghị và giao Hải-Quân trách nhiệm điều động và chỉ huy.
Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang đề nghị Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Nếu muốn giao nhiệm vụ đó cho Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh thì nên đặt Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh vào chức vụ Tổng-Trấn Qui-Nhơn để Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh có toàn quyền xử dụng lực lượng Bộ-Binh và những đơn vị hiện diện trong vùng.
Tối 1 tháng 4 lúc 11 giờ, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân và cho biết: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký nghị định chỉ định Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh làm Tổng-Trấn Qui-Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực lượng, đổ quân vào tái chiếm Qui-Nhơn.
Khuya 2 tháng 4 lúc 2 giờ, Đại-Tá Đỗ Kiểm liên lạc và thông báo với Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh về quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Sáng 2 tháng 4, sau khi Lực-Lượng Hải-Quân tại Qui-Nhơn dồn hết vào gần bờ, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, kiêm Tổng-Trấn Qui-Nhơn, kiêm Tư-Lệnh chiến trường Bình-Định, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cùng vài đơn vị nhỏ của Bộ-Binh và một số sĩ quan Hải-Quân đổ bộ lên Qui-Nhơn thăm dò tình hình.
Tình hình thành phố Qui-Nhơn yên lặng, ngột ngạt, nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng tên Việt-Cộng nào cả. Tại phi trường Phù-Cát, mấy mươi chiếc phi cơ còn nằm đó, nguyên vẹn. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh đích thân liên lạc vô tuyến với những đơn vị của Sư-Đoàn 22 chưa di tản; nhưng những đơn vị này đang tán loạn, không thể liên lạc được! Tiểu-Khu-Trưởng và các Chi-Khu-Trưởng đều vắng mặt. Vì lẽ đó, sự phối trí giữa Địa-Phương-Quân, Bộ-Binh và Biệt-Động-Quân tăng phái không thực hiện được.
Chiều 2 tháng 4, toán quân đổ bộ trở lại chiến hạm. Kế hoạch lập chiến tuyến ở Qui-Nhơn bị bức tử khi vừa mới tượng hình; vì những đơn vị trưởng trách nhiệm đã đào ngũ trước khi kẻ thù xuất hiện!
Kể từ sau khi rút quân khỏi Đà-Nẵng, một hiện tượng tương tự cứ xảy ra nơi những tỉnh dọc theo miền duyên hải: Nếu thấy chiến hạm – bất kể của Hải-Quân Việt-Nam hay Hải-Quân Hoa-Kỳ – lãng vãng ngoài khơi và cố vấn Mỹ chào tạm biệt Tiểu-Khu-Trưởng để ra đi thì, liền sau đó, Tiểu-Khu-Trưởng cũng đi theo, tạo nên tình trạng “rắn không đầu”! Binh sĩ tự động rời đơn vị về lo cho gia đình!
Trên hải trình trở về Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ thị HQ 7 bắn yểm trợ vùng Phú-Yên. Cũng chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh trực tiếp điều động tất cả Lực-Lượng Hải-Quân trong vùng và liên lạc với những đơn vị bạn trên bờ để thực hiện các cuộc đón quân dọc theo miền duyên hải.

(2) Theo tài liệu của Lý Trung Tín trên website Trúc-Lâm Yên-Tử thì – sau khi tất cả quân nhân dưới quyền của Ông nhập hạm – Đại Tá Nguyễn Hữu Thông đã đi ngược về phía những Ngọn Đồi Vô Danh, tức cao điểm 82-174, phía Tây Nam quận Hoài-Nhơn, Bình-Định rồi tự sát để được chết cạnh những quân nhân thuộc quyền chỉ huy của Ông đã tử trận!

 

CUỘC RÚT QUÂN TẠI NHA-TRANG

HQVNCH

Khi HQ 504 đưa Lữ-Đoàn 3 Nhảy Dù – dưới sự chỉ huy của Đại-Tá Lê Văn Phát – từ Đà-Nẵng về Nha-Trang, “đổ” tại bãi trước Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang thì đồng bào tại Nha-Trang mừng rỡ vô cùng; vì họ nghĩ rằng đổ quân Dù về đây có nghĩa là V.N.C.H. sẽ cố thủ Nha-Trang.
Đoàn lính Mũ Đỏ vừa rời chiến hạm, không hiểu từ đâu, đồng bào ùa đến, reo hò vang dội. Nhiều người nhào đến ôm đại mấy anh lính Dù rồi vừa khóc vừa cười, phát âm những lời vô nghĩa nhưng âm hưởng nôn nao, xúc động lạ thường. Có những bà cụ hom hem biếu anh Nhảy-Dù củ khoai, lóng mía. Có những ông cụ trầm tĩnh, đốt điếu thuốc, bập bập vài cái rồi gắn điếu thuốc vào môi anh lính Dù. Những em bé đi chân trần, chạy lăng xăng, rót ly trà nóng từ cái ấm đất trao cho anh lính Dù, rồi đôi mắt chớp chớp nhìn anh, đầy ngưỡng phục. Mỗi lúc đồng bào kéo đến càng đông. Họ vui mừng vì sự hiện diện của đoàn quân mà, mỗi bước tiến của đoàn quân ấy là trăm bước lùi của địch.
Thế nhưng, ngày hôm sau, Bộ-Tổng-Tham-Mưu điều động Lữ-Đoàn Dù này lên M’Drak, Khánh-Dương; vì lúc này mặt trận Khánh-Dương đang nổ dữ dội!
Mặc dù với số lượng khoảng mười ba ngàn quân, dân di tản từ miền Trung vào và từ Cao-Nguyên xuống, đang sống chui rúc tại đèo Rù-Rì, tình hình Nha-Trang chưa đến nỗi rối loạn. Nhưng khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, rời Nha-Trang và tin Hải-Quân Trung-Tá Hà Ngọc Lương – thủ khoa khóa 9 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang – giết vợ và năm con rồi tự sát vì vợ không chịu di tản thì đồng bào trở nên xôn xao, hoảng hốt. Tiếp theo là nhà tù bị phá. Cảnh cướp bóc diễn ra. Đồng bào kéo nhau ra bãi biển hoặc xuống Cầu-Đá tìm phương tiện ra đi.
Ngày 1 tháng 4, Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Nha-Trang ra lệnh cho tất cả công dân Hoa-Kỳ rời Nha-Trang ngay tức khắc. Tình trạng Nha-Trang cũng giống hệt như tình trạng tại Đà-Nẵng mấy ngày trước.
Khi HQ 401 vừa cập vào Cầu-Đá, mọi người xô đẩy nhau, rớt xuống biển. Một số người tràn vào được chiến hạm, làm nghiêng tàu. Hạm-Trưởng phải ra lệnh cho chiến hạm lui ra. Vì lý do đó, khi những LST và một số PCF thuộc Hải-Đội III Tuần-Dương từ Đà-Nẵng vào, không được phép đổ quân, dân xuống Nha-Trang – như kế hoạch đã dự trù – đành hải hành thẳng vào Cam-Ranh. HQ 505 và HQ 403 xin vào Nha-Trang đón quân và đồng bào di tản, nhưng Tư-Lệnh Hạm-Đội không thuận.
Thấy không được Hải-Quân đón, một số lính nổi loạn, bắn bừa ra chiến hạm và bắn luôn cả trực thăng. Trực thăng chở nhiếp ảnh gia David Kennerly bay vòng vòng cho Ông chụp ảnh cũng bị bắn!
Thời gian này, HQ 406 đang thực hiện công tác chuyển quân và tiếp tế tại Vùng IV Duyên-Hải, được điều động về Nha-Trang đón Liên-Đoàn sinh viên sĩ quan Hải-Quân vào Saigon.
Ngày 2 tháng 4, HQ 406 đến Nha-Trang. Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Ngọc Cảnh, Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn sinh viên sĩ quan Hải-Quân, điều động tất cả sinh viên – khoảng 400 sinh viên – chạy bộ từ Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân xuống Cầu-Đá. Nơi đây, phải vất vả lắm, HQ 406 mới hoàn tất được công tác đã được giao phó.
Sáng 3 tháng 4, khoảng 6 giờ, Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu, rời Nha-Trang bằng trực thăng.
Tại Nha-Trang, Hải-Quân có thể vớt được nhiều đồng bào và quân bạn hơn, vì phương tiện Hải-Quân đầy đủ và vì Việt-Cộng chưa xâm nhập thành phố. Nhưng cảnh hỗn loạn khiến Hải-Quân sợ chìm tàu, cho nên, Lực Lượng Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải cùng với các lực lượng về từ Đà-Nẵng kéo vào Cam-Ranh.

BỎ NGÕ CAM-RANH

HQVNCH

Trong khi Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh thực hiện kế hoạch đổ bộ Qui-Nhơn thì, tại Cam-Ranh, một số Tướng lãnh từ Đà-Nẵng rút vào, xử dụng tư dinh của Phó-Đề-Đốc Minh làm nơi tạm trú.
Trong tình cảnh hỗn loạn và không có sự hiện diện của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải tại Bộ-Chỉ-Huy, nhiều quân nhân ngang nhiên vào kho khiêng đi những dụng cụ điện tử Mỹ còn để lại.
Về đến Cam-Ranh, chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho đám quân nhân vô kỹ luật này đem tất cả dụng cụ điện tử để lại chỗ cũ; nếu không, Ông sẽ bắn ngay tại chỗ. Sau đó, Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải dùng trực thăng thị sát diễn tiến những cuộc “đổ” và “bốc” quân.
Tại vịnh Cam-Ranh, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, dùng một chiến đỉnh ra HQ 404 thăm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Tư-Lệnh Vùng I Chiến-Thuật.
Sau đó, HQ 404 được lệnh ủi bãi Tân-Cảng để tất cả Thủy-Quân Lục-Chiến xuống Cam-Ranh; chỉ đưa một mình Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về Saigon.
Trong khi Thủy-Quân Lục-Chiến rời HQ 404, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lặng lẽ rời chiến hạm, đi theo những người lính đã cùng chia xẻ những giờ phút cuối cùng trong đời binh nghiệp của Ông! Hạm-Trưởng HQ 404 trình: “Thưa Trung-Tướng, lệnh từ Saigon yêu cầu tôi đưa Trung Tướng về Saigon. Xin Trung Tướng ở lại tàu cho.” Trung Tướng Trưởng đáp: “Xin phép Saigon cho Thủy-Quân Lục-Chiến về Saigon dưỡng quân và chỉnh đốn hàng ngũ. Nếu bắt họ xuống Cam-Ranh thì tôi sẽ xuống luôn.”
Yêu cầu của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Bộ-Tổng-Tham-Mưu chấp thuận.
Riêng HQ 802, sau khi “đổ” tất cả binh sĩ của Sư-Đoàn II Bộ-Binh, Thủy-Quân Lục-Chiến và đồng bào xuống Cam-Ranh, được lệnh trở ra Qui-Nhơn. Nhưng vừa ra khỏi vịnh Cam-Ranh, Hạm-Trưởng HQ 802 nhận được phản lệnh: Hủy bỏ công tác Qui-Nhơn. Về Cam-Ranh trình diện Vùng II Duyên-Hải.
Trở lại Cam-Ranh, HQ 802 được lệnh chuyển vận toàn bộ thành phần còn lại của Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến về Vũng-Tàu.
Từ Qui-Nhơn vào Cam-Ranh, HQ 403 kéo theo nhiều LCU Quân-Vận, LCVP, LCM và vớt thêm rất nhiều người trên những ghe chạy ven biển. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, cựu Tư-Lệnh mặt trận Kontum, nhập hạm lúc nào, tại hải phận nào, không ai hay. Khi vào đến vịnh Cam-Ranh, biết có sự hiện diện của Tướng Phạm Duy Tất trên chiến hạm, Hạm-Trưởng HQ 403 cặp bên hông HQ 3, mời Tướng Phạm Duy Tất sang HQ 3.
Ngày 1 tháng 4, tại Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy hội ý với Trung Tướng Lê Nguyên Khang, phụ tá hành quân Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực V.N.C.H. và Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến. Phó-Đề-Đốc Thủy cho rằng với lực lượng cơ hữu và những đơn vị khác từ Đà-Nẵng và Qui-Nhơn rút vào, V.N.C.H. chỉ cần phá sập các cầu trên quốc lộ I thì có thể giữ được Cam-Ranh, chờ Saigon tăng phái để lập phòng tuyến Cam-Ranh. Tướng Khang và Tướng Lân đồng ý. Phó-Đề-Đốc Thủy liên lạc với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, xin hai đại đội Người Nhái để thực hiện công tác phá cầu.
Sau khi nhận được yêu cầu của Phó-Đề-Đốc Thủy, vì tình hình tại Bộ-Tổng-Tham-Mưu rối loạn, Phó Đô-Đốc Cang phải liên lạc trực tiếp với Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm.
Chiều 1 tháng 4, Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, thông báo cho Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy: Phải rút khỏi Cam-Ranh theo lệnh trên!
Vào thời điểm này, trong lúc lên Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải nhận chỉ thị, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ, Chỉ-Huy-Phó Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Cam-Ranh, gặp Trung Tướng Lâm Quang Thi. Tướng Thi hỏi:
- Anh còn bao nhiêu lính? Mình tử thủ.
- Thưa, tôi còn một ngàn sáu trăm lính; nhưng vũ khí chỉ là vũ khí để huấn luyện chứ không có súng lớn.
- Có đơn vị tiếp vận gần đây, anh ghé lấy.
- Dạ, đơn vị đó đi hết rồi.
- Nếu nó chạy thì nó chạy mình không chứ nó mang súng ống theo làm gì. Anh cứ tới phá kho. Mình tử thủ.
Trung-Tá Võ không biết phải đáp như thế nào, chỉ cười, rồi vào phòng hành quân nhận lệnh. Khi Trung-Tá Võ trở ra, trực thăng chở các vị Tướng đang lấy đà, nâng thân tàu lên!
Tối 1 tháng 4, HQ 403 được lệnh đón tân binh, quân nhân và gia đình tại cầu tàu Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Cam-Ranh.
Cầu tàu không đèn, nước lại ròng và gió từ trong bờ thổi ra rất mạnh. Ba lần HQ 403 cập vào, cả ba lần đều bị dạt ra. Hạm-Trưởng HQ 403 phải đổi lối cặp lùi. Hạm-Trưởng HQ 403 thường áp dụng lối cặp này mỗi khi về bến, hoặc mỗi khi phải trực cầu Tư-Lệnh mà bị nước xuôi dòng. Những lần đó Hạm-Trưởng HQ 403 thành công. Nhưng lần này, vì không đèn, vị sĩ quan đứng sau lái không cho dấu hiệu kịp thời, cho nên HQ 403 đụng vào cầu và bị thủng một lỗ lớn!
Trong khi Hạm-Trưởng và nhân viên HQ 403 tận dụng mọi khả năng để đưa chiến hạm vào cứu nhóm người trên cầu tàu thì, trong nhóm người ấy, một số quân nhân nổi loạn, cướp của, giết người, gây kinh khiếp một vùng. Một Trung-Đội Lôi-Hổ giúp Hải-Quân tước vũ khí đám loạn quân, tái tạo an ninh rồi mới đưa được mọi người lên HQ 403.
HQ 403, được lệnh xuôi Nam trong khi nhiều thương thuyền ngoại quốc và xà-lan đầy người vẫn còn neo trong vịnh.
Tình cảnh vịnh Cam-Ranh trong thời điểm này không khác chi Đà-Nẵng. Lính nổi loạn, bắn bừa ra chiến hạm. Người từ ghe hay tàu nhỏ hoặc xà-lan leo lên tàu lớn, hụt tay, rớt xuống biển. Trẻ em bị ném từ dưới ghe nhỏ hoặc xà-lan lên tàu lớn. Người trên tàu lớn chụp hụt, em bé rơi vào giữa hai thành tàu. Tiếng thét hãi hùng. Tiếng “bụp” khô khan. Vệt máu đỏ trên thành tàu. Một cơ thể tí ti chập chờn trên mặt nước đã loang màu hồng!
Bên Ba-Ngòi, từng suối người cuồn cuộn tuôn về Nam.
Ngày 2 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy rời Cam-Ranh bằng HQ 7. Chính chiến hạm HQ 7 này, đầu thập niên 60, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đã từng là Hạm-Trưởng.
Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, sau khi ra lệnh thiêu hủy kho dụng cụ điện tử do Mỹ để lại, lên HQ 3, vào phòng tuyến Phan-Rang.
Hai giờ chiều cùng ngày, quân của Sư-Đoàn 10 Việt-Cộng tiến vào Cam-Ranh không gặp bất cứ một sự kháng cự nào


TRÊN BIỂN PHAN-RANG

HQVNCH


Sau khi HQ 501 chuyển Sư-Đoàn II Bộ-Binh đến Bình-Tuy, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt được lệnh đưa Trung-Đoàn 6 vô Phan-Thiết, Trung-Đoàn 5 và Trung-Đoàn 4 ra Phan-Rang.
Tại tuyến Phan-Rang, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt trực thuộc sự điều động của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Lúc bấy giờ, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là phụ tá Tướng Nguyễn Văn Toàn, chỉ huy mặt trận tiền phương Phan-Rang.
Tại vịnh Phan-Rang, Lực-Lượng Hải-Quân gồm:

  • Duyên-Đoàn 27
  • HQ 2, HQ 3, HQ 403, HQ 228
  • Vài LCU
  • Nhiều PGM

Chiều 3 tháng 4, gần Duyên-Đoàn 27, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh từ HQ 3 chuyển sang HQ 2.
Là một Destroyer, HQ 2 được trang bị: Một khẩu 76 ly 2, hai giàn 40 ly đôi, mười giàn 20 ly đôi.
Sau khi tham dự các cuộc rút quân từ miền Trung, HQ 2 được lệnh án ngữ vùng biển Phan-Rang.
Ngày 4 tháng 4, HQ 403 neo trong vịnh Phan-Rang. Khoảng xế trưa, một ghe nhỏ chở 5, 6 quân nhân xin nhập hạm. Một quân nhân chỉ một người ngồi trong ghe và nói với Hạm-Trưởng: “Đó là Đại-Tá Tiểu-Khu-Trưởng Tiểu-Khu Nhinh-Thuận (Phan-Rang). Xin Hạm-Trưởng cho lên tàu.” Hạm-Trưởng đáp: “Tôi được lệnh không đón ai hết.” Sau một lúc chần chừ, chiếc ghe chạy dọc theo bờ biển, về hướng Nam.
HQ 403 nhổ neo, chạy tới chạy lui vùng biển Phan-Rang. Tối đến, từ máy truyền tin PRC25 của chiến hạm vang lên những lời bực dọc: “Việt-Cộng chưa tới mà thằng cha Tỉnh Trưởng chạy đâu mất tiêu!” và nhiều câu tương tự.
Ngày 5 tháng 4, mấy phi cơ A37 của Không-Quân V.N.C.H. ra dội bom dọc triền núi Cam-Ranh. Phi cơ do Trung-Úy phi công Lý-Tống lái bị trúng đạn phòng không của Việt-Cộng, rớt tại cầu Trà-Long!
Thời điểm này, HQ 7, sau khi đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy về Saigon, được chỉ thị ra vịnh Cà-Ná. Ban ngày, HQ 7 tuần tiễu từ đền Rạch-Trắng (Nha-Trang) đến Tuy-Hòa, mặc dù đã thuộc về Việt-Cộng. Ban đêm, HQ 7 về lại vịnh Phan-Rang, bắn vào những vị trí theo lệnh của Tư-Lệnh hành quân Lưu-Động-Biển, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí.
Vài hôm sau, HQ 7 được lệnh vào sát bờ Cam-Ranh để bắn chận xe tăng Việt-Cộng; vì xe tăng Việt-Cộng chạy ngờ ngờ trên quốc lộ I.
Ngày 12 tháng 4, HQ 403 về Saigon. HQ 406 đưa hai đại đội Cánh-Sát Dã-Chiến từ Cát-Lỡ ra tăng cường cho mặt trận Phan-Rang.
Ngày 13 tháng 4, HQ 505 được lệnh sang Thành-Tuy-Hạ nhận 800 tấn đạn 105 ly và 155 ly, chuyển ra tiếp tế Phan-Rang.
HQ 17, sau thời gian tiểu kỳ, được lệnh ra Vùng II Duyên-Hải. HQ 503 cũng được lệnh ra Phan-Thiết, Phan-Rang và nhận lệnh chỉ huy của Hạm-Trưởng thâm niên tại vùng biển này – lúc bấy giờ là Hạm-Trưởng HQ 17.
Ngày 15 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh cùng Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng – người trùng cả tên lẫn họ với Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, phụ tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành quân Lưu-Động-Sông – đáp trực thăng vào phi trường Phan-Rang hội.
Phiên họp gồm có:

  • Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
  • Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt
  • Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang – Sư-Đoàn-Trưởng Sư-Đoàn VI Không-Quân
  • Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh
  • Vài sĩ quan cấp tá

Buổi họp chưa bàn thảo được gì thì ngoài bãi đậu, nhiều phi công trực thăng lấy trực thăng bay đi, tạo nên cảnh hốt hoảng, rối loạn; vì họ nghe đồn Việt-Cộng đang vây phi trường Phan-Rang.
Các Tướng lãnh không liên lạc được với Quân-Đoàn III và cũng không điều động được ai cả, đành phân tán. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh được một trực thăng đưa ra HQ 3. Tướng Trần Văn Nhựt cũng được một trực thăng “vớt”. Và, rút kinh nghiệm từ những cuộc di tản ngoài miền Trung, Tướng Nhựt ra lệnh phi công đưa Ông ra biển. Thấy HQ 3, Tướng Nhựt từ trực thăng nhảy xuống biển và được nhân viên HQ 3 vớt lên. Từ đài chỉ huy HQ 3, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư-Lệnh Sư-Đoàn II Bộ-Binh, báo cáo trung ương: Phan-Rang thất thủ!
Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang không tìm được phương tiện rời phi trường.
Trong khi những sự việc nêu trên xảy ra, Hạm-Trưởng HQ 2 đi bộ – chứ không phải chạy bộ – từ phi trường Phan-Rang đến Duyên-Đoàn 27, đáp Yabuta ra HQ 2.
Ngày 16 tháng 4, HQ 406 đến hải phận Phan-Rang. Khi hai chiến hạm tiến vào bãi biển Phan-Rang thì được lệnh Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh không cho ủi bãi. Hạm-Trưởng báo cáo về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân rồi lềnh bềnh cách bờ khoảng hai hải lý, chờ lệnh.
Tối 16 tháng 4, tình hình Phan-Rang sôi động. HQ 3 đổi vị trí. HQ 406 được lệnh lui ra xa.
Sáng 19 tháng 4, HQ 505 đến vịnh Phan-Rang.
Mặt trận Phan-Rang bùng nổ.
Sáng 20 tháng 4, HQ 505 và HQ 406 nhận lệnh phải lềnh bềnh cách bờ khoảng 2 hải lý, chờ lệnh.
Hai chiếc T54 nằm ngay bãi biển, nòng súng chỉa thẳng ra hai chiến hạm. HQ 406 được lệnh đem Cảnh-Sát Dã-Chiến về lại Cát Lỡ.
Từ bờ biển Phan-Rang, một rừng ghe ào ạt bơi ra. Điều đặc biệt là trên ghe không có đồng bào, chỉ có lính và lính. HQ 505 được lệnh không vớt ai cả.
Sau đó, HQ 505 được lệnh rời vịnh Phan-Rang. HQ 3 đưa Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh về Saigon. HQ 2 và những chiến hạm khác vẫn lềnh bềnh ngoài khơi. HQ 503 được lệnh tiếp nhận khoảng 200 quân và dân thuộc quận Tuy-Phong, phía Nam Phan-Rang. Nhóm quân, dân này rút ra biển bằng ghe.

BÊN BỜ PHAN-THIẾT

HQVNCH

Trên đường lui binh về Nam, chiến hạm Hải-Quân, hoặc đã đầy người, hoặc đang chuyên chở vũ khí nặng, không thể giúp các đơn vị bạn tại Phan-Thiết nhiều, như đã giúp những đơn vị khác từ các tỉnh miền Trung.
Tại vịnh Cà-Ná, thuộc tỉnh Ninh-Thuận, HQ 503 đang tuần tiễu thì thấy một trực thăng bay quanh chiến hạm. Một mệnh lệnh vang lên từ máy truyền tin: “Mặt trời muốn nói chuyện”. Hạm-Trưởng HQ 503 tức tốc chụp ống liên hợp. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi từ trực thăng đích thân ra lệnh cho Hạm-Trưởng HQ 503: “Anh vào bờ vớt mấy thằng con của tôi.” Chỉ một câu đó thôi, rồi trực thăng biến dạng vào bờ.
Sau khi lấy ống dòm, nhìn vào bờ và thấy mấy toán Nhảy-Dù đang dùng kính phản chiếu cấp cứu rọi ra chiến hạm, Hạm-Trưởng HQ 503 liên lạc với Hạm-Trưởng HQ 17, xin chỉ thị. Hạm-Trưởng HQ 17 chấp thuận.
Vùng Cà-Ná núi đá ra tận biển, cho nên việc đưa một LST vào sát bờ không thể thực hiện được. Hạm-Trưởng cho hạ hai LCVP xuống ủi bãi; nhưng hai LCVP cũng không vào được. Hạm-Trưởng mạo hiểm, đưa HQ 503 vào sát bờ hơn nữa. Nhưng khoảng cách từ chiến hạm đến bờ cũng khoảng hai, ba trăm thước, không thể nào mấy toán Nhảy-Dù có thể bơi ra được!
Thấy một số ghe tam bản đánh cá gần đó, Hạm-Trưởng HQ 503 cho gọi họ đến, thương lượng. Những ngư phủ này đồng ý đưa mấy toán Nhảy-Dù ra chiến hạm để đổi lấy hai “phuy” dầu cặn.
Để làm tin, Hạm-Trưởng cất tất cả thẻ kiểm tra của nhóm ngư phủ và mỗi ghe phải để lại một người trên chiến hạm.
Vì ghe tam bản không có khả năng đi xa, Hạm-Trưởng phải giữ chiến hạm càng gần bờ càng tốt. Trong vị thế như vậy, chỉ một sơ hở hay một cơn sóng bất thần hoặc một luồng gió mạnh cũng có thể đẩy chiến hạm lên bờ; mà mắc cạn trong lúc này là chết hết!
Để phòng ngừa mọi bất trắc, Hạm-Trưởng chia nhân viên thành hai nhóm. Nhóm chỉ huy chiến hạm do Hạm-Trưởng đảm trách; nhóm chỉ huy các ghe vào đón quân Dù do Hạm-Phó phụ trách.
Chiều 16 tháng 4, khoảng 5 giờ, công tác hoàn tất. HQ 503 vớt được 20 anh lính Dù.
Sau khi vận chuyển, quay mũi ra khơi, Hạm-Trưởng HQ 503 giao chiến hạm cho sĩ quan đương phiên. Vào phòng chưa được bao lâu, Hạm-Trưởng nghe tiếng gõ cửa gấp rút: “Hạm-Trưởng! Hạm-Trưởng! Việt-Cộng pháo ra tàu.” Hạm-Trưởng chụp ngay ống liên hợp, ra lệnh cho đài chỉ huy: “Nhiệm sở tác chiến! Tăng tốc độ tối đa. Lái zigzag ra khơi. Gọi tàu bạn tới cứu!”
Ra lệnh xong, Hạm-Trưởng chạy ngay lên đài chỉ huy. Hạm-Trưởng vừa lên ngang phòng ăn, một trái đạn rớt ngay phòng vô tuyến. Sĩ quan vô tuyến bị thương. Hạm-Trưởng ra lệnh cho hạ sĩ quan vô tuyến: “Gọi tàu bạn tới cứu!” rồi Hạm-Trưởng tiếp tục chạy lên đài chỉ huy.
Vì nghĩ rằng khi chiến hạm bị trúng trọng pháo, điện sẽ bị hỏng, hệ thống điện thoại sẽ bị gián đoạn, Hạm-Trưởng chạy vòng ra phía trước, bên ngoài đài-chỉ-huy, cầm ống hơi – không cần dòng điện – để chỉ huy, chứ Ông không vào đài chỉ huy, ngồi lên ghế Hạm-Trưởng, với đầy đủ hệ thống chỉ huy toàn chiến hạm.
Hạm-Trưởng vừa cầm ống hơi, bất ngờ một quả đại bác rớt ngay đài chỉ huy. Một sĩ quan và năm nhân viên trong đài chỉ huy tử thương! Hạm-Trưởng bị sức ép, ngã xuống. Chỉ vài tích tắc, Hạm-Trưởng HQ 503 bừng tỉnh và cảm thấy vật gì nhầy nhụa trong lòng bàn tay trái và máu từ trên đầu tuôn xối xả! Hạm-Trưởng tưởng rằng Ông đã chết và vật nhầy nhụa trong bàn tay là não của Ông! Nhưng không hiểu một mãnh lực nào đó trợ giúp, Hạm-Trưởng HQ 503 gượng đứng dậy, tiếp tục ra lệnh cho phòng lái (ngay dưới đài chỉ huy): “Tiếp tục lái ra khơi. Kêu tàu bạn tới cứu. Báo cáo Hạm-Trưởng có lẽ đã chết!”
Nghe HQ 503 kêu cứu, HQ 17 phản pháo dữ dội.
Ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng, kiểm điểm lại, HQ 503 bị trúng 20 trái đại bác. Chiến hạm bị hư hại nặng, chỉ còn một máy. Hai mươi nhân viên chết và bị thương. Hạm-Trưởng thoát chết!
Trong khi những sự việc nêu trên xảy ra cho những người thừa hành lệnh của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thì, chính Trung Tướng Nghi, sau khi bay trở lại mặt trận Phan-Rang để tham dự cuộc họp hành quân tại phi trường, đã bị Việt-Cộng bắt tại một hầm chống pháo kích, cùng với Chuẩn Tướng Không-Quân Phạm Đình Sang và một nhân viên tình báo Hoa-Kỳ, Lew James!
Tối 16 tháng 4, khoảng 9 giờ, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ thị HQ 503 trực chỉ Vũng-Tàu. Vì chiến hạm chỉ còn một máy, chạy chậm và cũng vì thiếu dụng cụ y-khoa cấp cứu, một số nhân viên bị thương nặng phải chết!
Thời điểm này HQ 7 đang tuần tiễu vùng Mũi Né, được điều động vào vịnh Cà-Ná, bắn hải pháo vào những điểm tình nghi có Việt-Cộng. Sau đó, HQ 7 lại được điều động khẩn cấp từ Cà-Ná về bắn hải pháo yểm trợ phi trường Phan-Thiết. HQ 403 từ Saigon được lệnh trở ra Phan-Thiết, lềnh bềnh ngoài khơi, chờ. HQ 11 được chỉ định thay thế HQ 7 tại vịnh Cà-Ná.
HQ 11 vừa đến Cà-Ná liền bị Việt-Cộng bắn 105 ly trực xạ. Đạn rơi quanh chiến hạm. Một trái trúng chiến hạm nhưng lại không nổ, gây tử thương cho một thượng sĩ trọng pháo. Sau đó HQ 11 được lệnh về Saigon sửa chữa, rồi tuần tiễu ở vịnh cù lao Thu, trong vịnh Phan-Thiết.
Đêm 17 tháng 4, lửa đạn mịt trời trong thành phố Phan-Thiết.
Trưa 18 tháng 4, HQ 505 nghe tiếng kêu cứu của Đại-Tá Tỉnh-Trưởng Phan-Thiết trong máy truyền tin PRC25, nhưng đành chịu!
Thời gian này, Hộ-Tống-Hạm Ngọc-Hồi HQ 12 đang yểm trợ giàn khoan dầu ngoài khơi Vũng-Tàu, được điều động về vùng biển Phan-Thiết. Tại Phan-Thiết, HQ 12 cùng với HQ 7 bắn hải pháo yểm trợ vùng Hàm-Tân.
Sau khi Hàm-Tân thất thủ, lính ùa ra biển và được HQ 403 vớt.
Đêm 19 tháng 4, trong khi đoàn xe tăng Việt-Cộng trên quốc lộ I nã trọng pháo ra HQ 17 và chiến hạm này đang đáp lại bằng hải pháo trực xạ thì HQ 17 được lệnh ra đảo Trường-Sa thay thế HQ 16.
Quần đảo Trường-Sa là một vị trí chiến lược, gồm rải rác nhiều đảo xa nhau. Trong những đảo đó, Trung-Hoa Quốc-Gia chiếm một, V.N.C.H. chiếm ba đảo nhỏ và đang tranh chiếm thêm nhiều đảo nữa, nhưng không được. Ngoài ra, Phi-Luật-Tân và Mã-Lai cũng công bố chủ quyền của họ trên vài đảo.
Hải-Quân Trung-Cộng hiện diện trong vùng Trường-Sa gồm một mẫu hạm và vài chiến đỉnh. Hải-Quân V.N.C.H. chỉ có HQ 14 và HQ 16.
Hải-Quân V.N.C.H. và Hải-Quân Trung-Cộng theo dõi nhau bằng radar, mắt thường chỉ thấy lờ mờ. Đôi bên gườm nhau nhưng có vẻ né tránh một cuộc hải chiến. Hễ Hải-Quân Việt-Nam tiến vào thì Hải-Quân Trung-Cộng dạt ra; nếu Hải-Quân Việt-Nam lui ra thì Hải-Quân Trung-Cộng tiến vào. Tình trạng căng thẳng liên miên như vậy khiến Hạm-Trưởng Việt-Nam phải thức suốt đêm đấu trí với Hạm-Trưởng Trung-Cộng.
HQ 17 đến thay thế HQ 16, tình trạng vẫn không thay đổi!
Sáng 26 tháng 4, Trung-Cộng cắm cờ trên một hòn đảo không người của ba hòn đảo thuộc chủ quyền của V.N.C.H. Nhưng vì tình hình nội địa rối ren, HQ 17 chưa nhận được chỉ thị gì cả.
Ngày 28 tháng 4, qua đài phát thanh, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt-Nam trong vòng 24 giờ. Hạm-Trưởng HQ 17 tiên đoán được phần nào những biến chuyển tại thủ đô. Sau nhiều giờ suy nghĩ, Hạm-Trưởng HQ 17 xin và được Hạm-Đội Hải-Quân Saigon chấp thuận cho rút quân.
HQ 17 đón Địa-Phương-Quân của Tiểu-Khu Phước-Tuy và Tiểu-Khu Bình-Tuy trên đảo Thị-Tứ và đảo Nam-Yết. Vì đảo Nam-Yết ở phía Nam và đảo Thị-Tứ ở mạn Bắc, cách nhau khoảng bảy hoặc tám giờ hải hành, cho nên đến 6 giờ chiều 29 tháng 4, HQ 17 mới khởi hành về Vũng-Tàu.

VÙNG III DUYÊN-HẢI

HQVNCH


Tình hình Vùng III Duyên-Hải sôi động kể từ khi tuyến Phan-Rang vỡ! Sau khi Phan-Thiết thất thủ và Hàm-Tân mất thì Vũng-Tàu bị đe dọa nặng nề!
Theo tin tình báo, khoảng 18 Sư-Đoàn Bắc quân đang có mặt trên toàn lãnh thổ Nam Việt-Nam; và năm Sư-Đoàn nữa đang trên đường vào Nam!
Trong khi đó, tất cả đại đơn vị V.N.C.H. di tản từ Vùng I và Vùng II vào chỉ có Lực-Lượng Thủy-Quân Lục-Chiến là còn nguyên vẹn! Chính phủ có ý định gom tất cả quân nhân của những đơn vị rã hàng để thành lập những đơn vị tân lập. Nếu dự định ấy được thực hiện tốt đẹp thì lực lượng đôi bên vẫn chênh lệch: Một quân nhân V.N.C.H. phải chống lại bốn tên Việt-Cộng!
Lúc này thành phố Vũng-Tàu đông nghẹt đồng bào và quân nhân di tản. Để tránh gây tình trạng náo động hơn trong địa phận của mình, Tư-Lệnh Quân-Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Thị-Trưởng Vũng-Tàu không cho phép Hạm-Đội Hải-Quân “đổ” số lượng khổng lồ quân, dân tỵ nạn từ Vùng I và Vùng II Chiến Thuật vào Vũng-Tàu. Do đó, Hạm-Đội Hải-Quân được lệnh đưa số người di tản ra Phú-Quốc.
Hầu hết LST đều chuyển quân và đồng bào ra Phú-Quốc. Những chiến hạm khác được điều động về Saigon; một số vào sửa chữa tại Hải-Quân Công-Xưởng; số còn lại lẩn quẩn trong hải phận Vũng-Tàu. Chỉ có hai chiến hạm sau đây nhận trọng trách khác:

  • HQ 406, sau khi trả Cảnh-Sát Dã-Chiến lại Cát Lỡ, được lệnh đi Năm-Căn đón Địa-Phương-Quân và Hải-Quân rồi ra An-Thới “bốc” thêm quân từ những đơn vị rã hàng từ Vùng I và Vùng II, đem về tăng cường cho mặt trận Vùng III.

Lúc chuyển quân từ Năm-Căn ra biển, HQ 406 bị Việt-Cộng bắn ba hỏa tiễn. Hai trái trúng phòng lái, một trái trúng mũi chiến hạm. Năm nhân viên bị thương.

  • HQ 400 nhận chỉ thị chuyên chở binh sĩ, gia đình và dân chúng từ Bình-Tuy về Cát Lỡ.

Ngày 1 tháng 4, đài kiểm báo 301 được dời về Vũng-Tàu.
Ngày 3 tháng 4, HQ 404 đưa Tướng Ngô Quang Trưởng và Thủy-Quân Lục-Chiến từ Cam-Ranh về đến hải phận Vũng-Tàu.
Tình trạng sức khỏe của Tướng Trưởng sa sút trầm trọng. Trên HQ 404 có hai bác sĩ cũng di tản từ miền Trung vào. Hạm-Trưởng HQ 404, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đại Nhơn, nhờ hai bác sĩ chẩn bệnh cho Tướng Trưởng. Cả hai bác sĩ đều bảo Tướng Trưởng bị kiệt sức, cần chuyền “nước biển” để giúp sức khỏe của Tướng Trưởng hồi phục.
Hạm-Trưởng HQ 404 mời tất cả sĩ quan cao cấp di tản từ miền Trung vào, lập biên bản, đồng ký tên chấp thuận để hai bác sĩ chuyền “nước biển” cho Tướng Trưởng.
Khi HQ 404 đến Nhà-Bè, mọi người thấy nhiều tàu nhỏ chở đầy quân nhân Nhảy-Dù đi theo hộ tống HQ 404.
HQ 404 cặp cầu trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, bến Bạch-Đằng. Trên cầu tàu, ngoài Đô-Đốc Chung Tấn Cang trong quân phục Tiểu-Lễ, Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức và một số sĩ quan cao cấp Hải-Quân và Nhảy-Dù, còn có Bà Ngô Quang Trưởng.
Ngày 17 tháng 4, sau khi hoàn tất cuộc chuyển quân và dân về Cát lỡ, HQ 400 sang Thành Tuy-Hạ lãnh đạn để tiếp tế cho những chiếc WHEC và PCE biệt phái Vùng III Duyên-Hải.
Ngày 21 tháng 4, vừa mới đại kỳ xong, HQ 6 được biệt phái ra Vũng-Tàu và đặt dưới sự điều động của Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải.
Ngày 22 tháng 4, trong khi tấn công Long-Hải, Việt-Cộng dùng đại bác 105 ly bắn ra HQ 6, nhưng đạn chỉ rơi quanh chiến hạm.
Ngày 23 tháng 4, lúc Việt-Cộng tiến vào Long-Hải cũng là lúc cù lao Thu bị uy hiếp nặng nề. Phụ Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, chỉ thị HQ 6 và HQ 11 ra tiếp cứu cù lao Thu.
Trên hải trình tiến ra cù lao Thu, nhân viên của HQ 6 và HQ 11 thấy một phi cơ Hoa-Kỳ xuất hiện, chiếu quang hiệu – chứ không liên lạc vô tuyến – ra lệnh cho cả hai chiến hạm phải quay lui, nếu không, khu trục ấy sẽ tấn công! HQ 6 trình về Bộ- Tư-Lệnh Hải-Quân xin chỉ thị. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh HQ 6 và HQ 11 trở lại Vũng-Tàu.
Ngày 24 tháng 4, Mỹ kéo vào vùng biển Vũng-Tàu nhiều xà-lan với bao cát chất đầy hai bên. Hơn mười thương thuyền Hoa-Kỳ, tối, vào neo cách bãi Trước khoảng hai mươi dặm về phía Cần-Giờ; sáng, nhổ neo đi. Phía Việt-Nam thì, một đoàn ghe Thiên Chúa Giáo, tối, từ Bến-Đá, thắp đèn đi ra biển; sáng lại trở về.
Ngày 25 tháng 4, Sư-Đoàn 3 Sao Vàng tấn công Bà-Rịa.
Ngày 26 tháng 4, sau khi trả lại 800 tấn đạn cho Thành Tuy-Hạ, HQ 505 ra Vũng-Tàu với nhiệm vụ di chuyển nhân viên và gia đình Đài Mẹ Việt-Nam ra Phú-Quốc.
Trong thời gian này, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng được chỉ thị phải chiếm Saigon trước cuối tháng để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 5. Do đó, Văn Tiến Dũng cho mở những cuộc tấn công quy mô từ phía Bắc Saigon với các đơn vị sau đây:

  • Vài thành phần của Sư-Đoàn 341 cùng với công trường 6 và công trường 7 Việt-Cộng “cầm chân” Trung-Đoàn 43 tại Xuân-Lộc.
  • Tiểu đội 75 Pháo-Binh Việt-Cộng nã hỏa tiễn 130 ly vào phi trường Biên-Hòa.
  • Hai Sư-Đoàn 304 và 325 Việt-Cộng tràn về Long-Thành, với ý đồ cắt đứt tỉnh lộ 15, con đường huyết mạch Saigon Vũng-Tàu.

Ngày 27 tháng 4, trong khi tại Saigon đã có gần 8.000 người Việt được Mỹ “bốc” khỏi Saigon thì ngoài khơi…
…Mặc dù đã cạn nhiên liệu và đạn dược, HQ 7 vẫn bị điều động vào bắn yểm trợ quận Đất-Đỏ trong khi các Tiểu-Đoàn Nhảy-Dù đang giao tranh ác liệt với địch tại đây. Nhiên liệu và đạn tiếp tế cho HQ 7 được LCU chuyển vận từ bờ ra.
HQ 400 được lệnh cập xà-lan phía ngoài Cát Lỡ, nhận hơn 600 người.
Ngày 28 tháng 4, Lữ-Đoàn I Nhảy-Dù từ Phước-Tuy rút về Vũng-Tàu và lập phòng tuyến tại căn cứ Cát-Lỡ.
Qua hệ thống truyền tin, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư-Lệnh Quân-Đoàn III, chỉ thị Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư-Lệnh Sư-Đoàn III – từ Đà-Nẵng vào – đưa quân của Sư-Đoàn III và Thiết Giáp từ Vũng-Tàu mở tỉnh lộ 15 về Biên-Hòa. Và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn sẽ đích thân đem quân đi ngược lại. Hai bên sẽ gặp nhau tại cầu Cỏ-May. Khi cuộc điện đàm vừa dứt, Việt-Cộng pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Một trái đại bác rớt trúng đài “vi-ba” khiến mọi liên lạc viễn liên bị gián đoạn.
Sau khi Việt-Cộng ngưng pháo kích, trực thăng đưa Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt và Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào từ HQ 5 đáp xuống Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Tại đây, Phó-Đề-Đốc Đào chỉ thị Hải-Quân Thiếu-Tá Võ Duy Hội, Tham-Mưu-Phó yểm trợ tiếp vận Vùng III Duyên-Hải, đưa một toán Người Nhái lên giật sập cầu Cỏ May. Nhưng khi toán Người Nhái và Thiếu-Tá Hội đến nơi thì Thủy-Quân Lục-Chiến đã giật sập cầu Cỏ May rồi.
Cầu Cỏ May sập, Việt-Cộng cướp ghe dân ở Phước-Tỉnh, vượt qua cầu Cỏ May, cầu Cái Khế, tiến vào Vũng-Tàu.
Phó-Đề-Đốc Đào ra lệnh Thiếu-Tá Võ Duy Hội đem nhân viên đi dời đài kiểm báo 301 ở Dakoo về Vũng-Tàu. Phó-Đề-Đốc Đào cũng chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Văn Dinh, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Duyên-Phòng, đem một WPB vào bãi Dâu đón nhân viên đài kiểm báo.
Khi WPB do Trung-Tá Dinh chỉ huy đến bãi Dâu, Việt-Cộng pháo ngay vào chiến đỉnh. Một sĩ quan chết, một sĩ quan bị thương. Sau khi báo cáo lên Phó-Đề-Đốc Đào, Trung-Tá Dinh đưa vị sĩ quan bị thương ra HQ 802 với hy vọng được cứu chữa; nhưng nhân viên HQ 802 không cho nhập hạm!
Cùng lúc đó, hai nhân viên của Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lỡ bị thương vì pháo kích cũng được Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lỡ, Trung-Tá Cơ-Khí Nguyễn Minh Thơ, đưa ra HQ 802. Nhân viên HQ 802 chỉa súng, không cho lên chiến hạm. Đến khi nhân viên chiến hạm nhận ra sự hiện diện của Hải-Quân Đại-Tá Vương Hữu Thiều trong toán tải thương thì nhân viên cho mọi người nhập hạm.
Chiều 28 tháng 4, HQ 505 đang neo tại Vũng-Tàu để nhận dụng cụ Đài Mẹ Việt-Nam, bỗng Phó-Đề-Đốc Đào ra lệnh ngưng, để nhận gia đình binh sĩ.
Mờ sáng 29 tháng 4, Việt-Cộng tấn công đơn vị Nhảy-Dù phòng thủ cầu Cỏ May. Đơn vị Nhảy-Dù này không chống cự được – vì thiếu đạn!
Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, có một cuộc họp hành quân tại Vùng III Duyên-Hải.
Ngay sau khi họp xong, Hải-Quân Đại-Tá Vũ Trọng Đệ, Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải, ban hành lệnh di tản.
Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô-Sanh, Chỉ-Huy-Phó Hải-Đội 3 Duyên-Phòng, đích thân đến từng hố chiến đấu và trạm gác để thông báo về lệnh di tản.
Sau đó, khoảng 11 giờ, Thiếu-Tá Ngô-Sanh xuống PCF cuối cùng để rời nhiệm sở. Khi liên lạc được với chiếc WPB có chở vợ con của Ông, Thiếu-Tá Sanh sang WPB.
Chiếc WPB vừa ra khỏi Căn-Cứ Cát-Lở khoảng vài trăm thước liền bị nhiều loại súng nhỏ, từ phía Trung-Tâm Huấn-Luyện Cán-Bộ Xây-Dựng Nông-Thôn, bắn xối xả. Đạn trúng đài chỉ huy. Trung-Úy Tuân, Trung-Úy Phước, Trung-Úy On bị thương; Thủy-Thủ Quý thiệt mạn! (2)
Phó-Đề-Đốc Đào cùng một nhóm thân tín rời nhiệm sở lên HQ 802.
Tại Bộ Tư-Lệnh Vùng III Duyên-Hải, Đại-Tá Vũ Trọng Đệ ra lệnh HQ 16, HQ 7 và HQ 12 tác xạ trục lộ Bà-Rịa, Cát-Lỡ, Vũng-Tàu để yểm trợ Thủy-Quân Lục-Chiến; vì Thủy-Quân Lục-Chiến đang bị Việt-Cộng đánh dạt ra bãi Trước.
Từ xã Long-Sơn, Việt-Cộng dùng đại bác bắn vào Vũng-Tàu. HQ 7 phản pháo. Nhưng khi đặt ống dòm quan sát, Hạm-Trưởng HQ 7, Hải-Quân Thiếu-Tá Trần Nam Hưng, mới phát giác ra là những trái đạn do HQ 7 bắn lên đều không nổ! Thì ra số đạn mới do LCU tiếp tế là đạn lép! Thiếu-Tá Hưng ra lệnh bắn ba viên đạn mới – đạn lép – thì chèn một viên đạn cũ.
Cả ba chiến hạm HQ 16, HQ 7 và HQ 12 đều bị trọng pháo Việt-Cộng bắn ra dữ dội. Nhờ hải pháo có tầm bắn xa, ba chiến hạm đều ở ngoài tầm đạn của địch, làm point rất chính xác, bắn trả. Tuy vậy, đạn đại bác Việt-Cộng vẫn rơi quanh ba chiến hạm, tạo nên những khối nước phun khổng lồ.
Tình trạng kỹ thuật của HQ 12 không được tốt, chỉ còn chạy được một máy. Khi bị Việt-Cộng bắn rát quá, HQ 12 chạy ra khơi.
Khoảng 12 giờ 30 cùng ngày, chiếc WPB chở Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô-Sanh cùng gia đình binh sĩ và những người bị thương đến bãi Trước. Thiếu-Tá Sanh gọi cấp cứu trên máy truyền tin nhưng không đơn vị nào đáp lại.
Sau khi làm lễ thủy táng đúng nghi lễ Hải-Quân cho Thủy-Thủ Quý, Thiếu-Tá Ngô-Sanh gọi một PCF, chỉ thị PCF này đưa ba sĩ quan bị thương vào bờ để tìm phương tiện cứu chữa.
Xế trưa 29 tháng 4, xe tăng Việt-Cộng xuất hiện tại bãi biển Vũng-Tàu và hạ nòng bắn ra HQ 505. HQ 505 vội nhổ neo, lui ra. Sau đó, nhiều trực thăng của Không-Quân V.N.C.H. bay ra và hai chiếc đáp xuống HQ 505.
3 giờ chiều, HQ 400 đang neo tại bãi Trước, bị Việt-Cộng pháo kích xối xả. Chiến hạm nhổ neo khẩn cấp, tránh tầm đạn.
5 giờ chiều, từ Long-Khánh, các lực lượng Nhảy-Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ-Binh, Địa-Phương-Quân, v. v… rút về Vũng-Tàu. Tại đây, không còn một lực lượng nào “tiếp hơi”, những lực lượng tinh nhuệ đó tan hàng!
6 giờ chiều, lệnh từ Vùng III Duyên-Hải: Tất cả chiến hạm “tự do vận chuyển”!
Tối 29 tháng 4, một người Mỹ mặc thường phục, nói tiếng Việt rất lưu loát, tìm đến chiến hạm Hải-Quân Việt-Nam xin di tản. Khi gặp Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển, người Mỹ này cho hay rằng ông ta có tần số liên lạc với Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ. Nhiệm vụ của người Mỹ này là đón học sinh Trường Thiếu-Sinh-Quân tại Vũng-Tàu; nhưng Ông không thi hành được vì học viên tản mác hết, tìm không ra.
HQ 16 cùng HQ 7 và HQ 12 vẫn tiếp tục phản pháo cho đến khi bất ngờ nhận ra rằng Cơ-Xưởng-Hạm Vĩnh-Long HQ 802 không còn neo tại bãi Trước nữa. Cả ba vị Hạm-Trưởng cố liên lạc với giới chức thẩm quyền Vùng III Duyên-Hải, nhưng không gặp được ai cả.
Hạm-Trưởng HQ 12, Hải-Quân Trung-Tá Lê Xuân Thu, yêu cầu HQ 7 yểm trợ về Saigon. Hạm-Trưởng HQ 16 cũng muốn về Saigon. Nhưng ngay lúc đó, Hạm-Trưởng HQ 505 liên lạc với cả ba vị Hạm-Trưởng và cho biết Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải đã cho lệnh “tự do vận chuyển”! Cả ba vị Hạm-Trưởng đều bỏ ý định trở về Saigon.
Biết được lệnh “tự do vận chuyển” và ý định không trở về Saigon của Hạm-Trưởng HQ 7, Trung-Úy T. và một số nhân viên phá tàu và dùng vũ khí uy hiếp Hạm-Trưởng, buộc Hạm-Trưởng phải đưa HQ 7 về Saigon.
Tuy vợ con còn kẹt lại Sài-Gòn, nhưng Hạm-Trưởng HQ 7 biết không thể nào sống được với Việt-Cộng, Ông khéo léo giàn xếp nội bộ. Hạm-Trưởng lấy hết tiền trong quỹ dự trữ tặng cho những người muốn trở về, rồi cho chiến hạm chạy sát vào cửa Đại, thả Wizard và bè xuống cho họ vào bờ. Một số Thủy-Quân Lục-Chiến được HQ 7 vớt quanh Vũng-Tàu cũng muốn về. Hạm-Trưởng HQ 7 cho thả bè, cung cấp nước ngọt và lương thực cho nhóm này về luôn.
Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên HQ 7 thì trên HQ 16, Hạm-Trưởng cũng bị một nhóm thủy thủ uy hiếp bằng vũ lực; vì Hạm-Trưởng muốn đưa chiến hạm đến đảo Tamassu đón vợ con của Ông, nhưng nhóm nhân viên này lại chỉ muốn đi thẳng ra Côn-Sơn.
Lúc này, HQ 17 từ Trường-Sa đang trên đường trở về. Khi còn cách bờ khoảng ba mươi hải lý, Hạm-Trưởng liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải, hỏi địa điểm “đổ” quân; nhưng không được giải đáp thỏa đáng. Hạm-Trưởng HQ 17 yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào, từ HQ 802, “lên” máy và đáp: “Tùy anh.”
Đến gần bờ, thấy ghe thuyền ồ ạt ra khơi, HQ 17 vẫn ngược dòng, cố trở về Saigon. Nhưng, từ mỏm đá phía Nam Vũng-Tàu, Việt-Cộng dùng đại bác 150 ly bắn xối xả ra chiến hạm. HQ 17 thừa sức phản pháo, nhưng vì thấy ghe thuyền đen nghịt trên mặt sông, Hạm-Trưởng HQ 17 ngại, nếu hai bên “đối đáp” bằng đại bác, dân sẽ chết oan. Và, nếu chiến hạm chìm, cửa sông sẽ bị nghẽn. Vì hai lý do đó, Hạm-Trưởng HQ 17 cho chiến hạm quay mũi ra khơi.
Vừa đưa chiến hạm khỏi tầm đạn của Việt-Cộng, Hạm-Trưởng HQ 17 lại phải đương đầu với sự rối loạn nội bộ! Vợ con và gia đình của nhân viên chiến hạm đều bị kẹt, cho nên, một số nhân viên muốn đón ghe về Saigon, một số muốn ra khơi – dù chưa ai biết để làm gì và sẽ đi đâu! Số Địa-Phương-Quân mà HQ 17 “bốc” từ Trường-Sa về, đã xa gia đình chín, mười tháng, nay, trong cơn nguy biến, tất cả đòi về. Hạm-Trưởng phải khéo léo dàn xếp, kiếm ghe cho những ai muốn về thì về.
Thời điểm này, HQ 400 chở đầy đạn và đầy người. Hạm-Trưởng xin chỉ thị từ Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, để vất đạn xuống biển. Trung-Tá Uyển không quyết định được. Cuối cùng, Trung-Tá Uyển thông báo với các Hạm-Trưởng là Ông từ chối trách nhiệm!
(2) Tư liệu của ông Ngô Sanh

 

VÙNG IV DUYÊN-HẢI

HQVNCH

Đặc-Khu Phú-Quốc, ngoài lực lượng Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải, còn có hai Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân và một Đại-Đội Trinh-Sát.
Lực lượng Việt-Cộng trên một Tiểu-Đoàn, Bộ-Chỉ-Huy đặt tại Bắc Đảo. Khoảng hai Trung-Đội Việt-Cộng hoạt động phía Nam Dương-Đông. Áp lực địch nặng nhất là vùng Bắc Đảo, Cửa Cạn. Việt-Cộng thường pháo kích vào phi trường Dương-Đông và cố ý cô lập đồn Cửa Cạn.
Lực lượng hai bên không chênh lệch. Nhưng áp lực địch rất nặng, vì Lực-Lượng Địa-Phương-Quân của V.N.C.H. chỉ ở thế thủ hoặc đi kích, hành quân lẻ tẻ, thiếu những cuộc hành quân quy mô.
Từ ngày nhậm chức Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải kiêm Đặc-Khu-Trưởng Đặc-Khu Phú-Quốc, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện giải tán các đồn, cho quân hành quân lục soát phía ngoài, mở rộng vòng đai phòng thủ. Đại-Tá Thiện xử dụng những đơn vị Địa-Phương-Quân để hành quân trên bộ, giữ an ninh phi trường và làng xã.
Khi cuộc rút quân từ miền Trung bắt đầu, Thiếu-Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-Lệnh Quân-Đoàn IV, chỉ định Đại-Tá Thiện đặc trách lo về vấn đề đồng bào tị nạn.
Về quân sự, Đại-Tá Thiện trực tiếp chỉ huy và báo cáo về Bộ-Tư-Lệnh Quân-Đoàn. Về hành chánh, Quốc-Vụ-Khanh Phan Quang Đán bổ nhiệm một nhân viên hành chánh cao cấp ra Phú-Quốc, giúp Đại-Tá Thiện điều hành. Đại-Tá Thiện phúc trình tình trạng dân, quân tị nạn và nhận lệnh từ bác sĩ Phan Quang Đán và Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, phụ tá Quốc-Vụ-Khanh đặc trách đón tiếp đồng bào di cư.
Phía Nam đảo Phú-Quốc, vùng Đất Đỏ, V.N.C.H. đã xây một trại tù để giam giữ tù chính trị. Sau hiệp định Ba-Lê, số tù Cộng-Sản được chuyển đi, trại tù bỏ trống. Đại-Tá Thiện xử dụng những dãy nhà này với hệ thống nước ngọt từ một giếng sâu, do hãng thầu RMK (Raymond – Morrisson – Knudsen) của Mỹ đào từ lâu, với dụng cụ y-tế và giường ngủ sẵn có, để tiếp người tị nạn.
Vấn đề tiếp tế để lo cho khối người tị nạn một phần do Hải-Quân đài thọ; phần lớn do chính phủ trung ương và cơ quan USAID Hoa-Kỳ đảm nhận.
Mỗi ngày có khoảng ba mươi chuyến bay của Air America, C123 hoặc C130 đáp xuống phi trường Dương-Đông với đầy đủ dụng cụ và thực phẩm.
Với khoảng 60.000 người tị nạn trên một diện tích nhỏ hẹp, an ninh là vấn đề phức tạp và thiết yếu. Tuy vậy, tình trạng các trại rất tốt đẹp nhờ hệ thống kiểm soát chặt chẽ và nhiều biện pháp mạnh được áp dụng. Để giải tỏa bớt tình trạng ứ đọng, Đại-Tá Thiện cấp giấy phép rời Phú-Quốc cho bất cứ ai có thân nhân trong đất liền.
Hải-Quân biệt phái một số sĩ quan do Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn T., Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Saigon, điều động ra Phú-Quốc giúp điều hành và giải quyết những khó khăn tại các trại tỵ nạn.
Trong những chiến hạm chuyển quân và dân ra Phú-Quốc, có một chuyện rất thương tâm xảy ra trên HQ 500.
Từ Qui-Nhơn HQ 500 đón quân và dân về Cam-Ranh. Tại Cam-Ranh HQ 500 được lệnh nhận thêm lính và dân rồi đưa ra Phú-Quốc.
Trong số dân và quân HQ 500 đưa ra Phú-Quốc có Thiếu-Úy Lê Quang Lệ Lan, trưởng nữ của Cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Lê Quang Mỹ và một em bé được sinh ra trên chiến hạm.
Em bé này được Thiếu-Úy Lệ Lan đón vào đời và được Hạm-Trưởng LST Cam-Ranh, Hải-Quân Trung-Tá Lê Quang Lập, đặt tên là Nguyễn-Thị-Cam-Ranh.
Vào đến Phú-Quốc, HQ 500 cặp cầu dầu. Từ cầu này muốn vào bờ phải dùng xuồng hay tàu nhỏ.
Thời gian này, đồng bào trên chiến hạm quá đông và thiếu thốn mọi thứ. Thiếu-Úy Lệ Lan tình nguyện vào gặp Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải xin tiếp tế.
Suốt thời gian nhận và chuyển thực phẩm, vật dụng, thuốc men từ Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải ra chiến hạm, Thiếu-Úy Lệ Lan đã tận tụy với đồng bào, nhiều khi quên ăn, quên uống.
Lần cuối cùng, sau khi chất đầy thực phẩm, hai mươi mốt nhân viên chiến hạm và Thiếu-Úy Lệ Lan từ bờ trở lại HQ 500 bằng LCVP. Khi kéo LCVP lên, giây đứt, hai mươi mốt nhân viên bị hất xuống biển; riêng Thiếu-Úy Lệ Lan bị kẹt, chết giữa những thùng thực phẩm!
Sau đó HQ 500 về Saigon sửa chữa. Công tác sửa chữa chưa hoàn tất, HQ 500 lại được lệnh đưa khoảng vài trăm tội phạm ra Côn-Sơn.
Trên những chuyến xà-lan từ miền Trung vào Phú-Quốc, nhiều tên bất lương lấy quân phục của vài binh chủng thiện chiến V.N.C.H. mặc vào rồi cướp của, giết người, xô người xuống biển, v. v… Khi những chuyến xa-lan này đến Phú-Quốc, đơn vị an ninh ở các trại tị nạn được báo cáo.
Sau khi điều tra cặn kẽ, nếu hội đủ bằng chứng, tội phạm được giải giao cho Quân-Cảnh Tư-Pháp điều tra thêm. Tin này loan ra nhanh. Một số lớn đồng bọn đi những chuyến xà-lan sau đón ghe đánh cá vào Rạch-Giá khi xà-lan còn neo ngoài khơi Phú-Quốc.
Trong số những tên thảo khấu bị bắt, có mấy tên được đồng bào nhận diện. Một Đức Cha, khi thuật lại những hành động dã man của hai tên bất lương đối với gia đình của một Đại-Tá Bộ-Binh đã không nén được phẫn nộ, hỏi Đại-Tá Thiện: “Theo sấm truyền cũ, những hành động như vậy giữa con người đối với con người, phải bị tội lăng trì. Đại-Tá biết không?” Là một con chiên ngoan đạo, Đại-Tá Thiện lặng thinh, suy nghĩ.
Trong thời gian đa số đồng bào bất bình về thái độ trì hoản xử tội mấy tên cướp thì, ngày 19 tháng 4, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện nhận được công điện từ Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., bổ nhiệm Đai-Tá Thiện vào chức vụ Tổng-Trấn Phú-Quốc.
Với quyền hạn của một Tổng-Trấn trong thời chiến, Đại-Tá Thiện có quyền kêu án tử hình tội phạm, không cần chờ lệnh tòa án. Nhưng Đại-Tá Thiện lại liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân xin ý kiến. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân không hạn chế quyền hạn của Đại-Tá Thiện.
Vì áp lực của đồng bào và của Đức Cha, Đại-Tá Thiện cử ủy ban điều tra lại vụ hai tên côn đồ và mấy tên thảo khấu trên những chuyến xà-lan khác nhau. Sau khi ủy ban an ninh phúc trình bản điều tra cuối cùng, Đai-Tá Thiện ra lệnh Địa-Phương-Quân thành lập một bán tiểu đội hành quyết, xử tử những tội phạm đó.
Thời gian này, tình hình quân sự trong Vùng tương đối yên tĩnh. Chỉ có đồn Cửa Cạn bị Việt-Cộng vây khốn suốt mấy hôm, với mục đích khuấy phá chứ không dám chiếm; vì sợ hải pháo và phi cơ oanh tạc.
Trọng trách giải tỏa đồn Cửa Cạn được giao cho Đặc-Khu-Phó (Quận-Trưởng quận An-Thới). Đại-Tá Thiện tăng phái HQ 230 bắn hải pháo yểm trợ, đồng thời biệt phái PCF chạy gần bờ để kiểm soát và yểm trợ bằng đại liên, trung liên và súng cối 81 ly. Nhiều LCM của Căn Cứ Yểm-Trợ An-Thới cũng được tăng cường để, nếu cần, sẽ đổ bộ Địa-Phương-Quân lên.
Không hiểu vì lý do gì, Đặc-Khu-Phó không thực hiện được công tác đã được hoạch định và giao phó. Đại-Tá Thiện thay đổi kế hoạch bằng cách không xử dụng chiến đỉnh mà trưng dụng mười ghe đánh cá loại lớn, tập trung ngoài khơi. Khi được lệnh của Đại-Tá Thiện, quân sẽ được chuyển xuống mười ghe đó, đưa lên các ghềnh đá phía Bắc Đảo, cách đồn Cửa Cạn khoảng hai, ba cây số, đánh thốc xuống.
Nhờ yếu tố bất ngờ, chỉ không tới một Đại-Đội Địa-Phương-Quân, với sự yểm trở hữu hiệu của hải pháo, đã đẩy lui trên một Tiểu-Đoàn địch về những hang hóc phía Đông Bắc. Địch để lại trên một trăm xác và thương binh.
Ngoài chiến thắng tại đồn Cửa Cạn, tưởng cũng nên đề cập đến cuộc đụng độ giữa Duyên-Đoàn 44 và Khmer Đỏ, trên hòn đảo phía Bắc, trong quần đảo Poulo Dama.
Vào khoảng cuối tháng Tư, Duyên-Đoàn 44 được lệnh chiếm hai đảo Kiến-Vàng và Keo-Ngựa, trong hải phận Việt-Nam. Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 44 chỉ huy một đơn vị Hải-Kích thi hành công tác này. Toán quân được chia làm hai cánh.
Cánh A thực hiện kế hoạch và chiếm đảo Keo-Ngựa một cách dễ dàng.
Cánh B đổ bộ nhầm một đảo khác, không thuộc hải phận Việt-Nam. Cánh quân B này “đụng” với lực lượng Khmer Đỏ trấn thủ đảo. Trong cuộc chạm súng, Hải-Quân Thiếu-Úy T. bị kẹt trên đảo.
Nghe báo cáo, cánh A, một mặt xin chiến hạm yểm trợ, một mặt kéo toàn lực lượng đến đảo Kiến-Vàng, tìm cách cứu vị sĩ quan.
Lực Lượng Hải-Kích đến đảo Kiến-Vàng khoảng 5 giờ sáng. Nhưng Khmer Đỏ dùng trọng pháo 150 ly pháo kích nặng nề xuống bãi, khiến quân V.N.C.H. đến sáng vẫn không đổ bộ được.
HQ 330 đang tuần tiễu quanh vùng, được chỉ thị đến đảo Kiến-Vàng trợ chiến; nhưng HQ 330 không được phản pháo, vì hải phận đó không thuộc chủ quyền của V.N.C.H.
Trưa, Khmer đỏ ngưng pháo kích. Thiếu-Úy T. từ bờ bơi ra chiến hạm.
Tối 27 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện gọi tất cả chiến hạm biệt phái cho Vùng IV Duyên-Hải về An-Thới.
Sáng 28 tháng 4, chiến hạm USS Dubuque thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ đột ngột xuất hiện và neo gần An-Thới. Ít ai biết được rằng chính Erich Von Marbod có mặt trên USS Dubuque. Erich Von Marbod xử dụng USS Dubuque như một trạm viễn liên để hướng dẫn Không-Quân V.N.C.H. bay sang Thái-Lan!
Đêm 28 tháng 4, Căn-Cứ Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải hỗn loạn vì tin Đại-Tá Thiện lấy PCF ra chiến hạm Mỹ. Tất cả chiến hạm V.N.C.H. rời bến sau khi thông báo cho phòng hành quân.
Sáng 29 tháng 4, Đại-Tá Thiện cho tất cả chiến hạm biết rằng Ông đã đi tuần trong đêm qua.
10 giờ sáng cùng ngày, Đại-Tá Thiện liên lạc với Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy, Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân, để hỏi tình hình chiến sự. Phó-Đề-Đốc Thủy bảo Đại-Tá Thiện túc trực trên máy vô tuyến, có biến chuyển nào Ông sẽ cho hay.
11 giờ sáng, Đại-Tá Thiện mất liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon!
Ngày 30 tháng 4, lúc 10 giờ sáng, sau khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thổng Dương Văn Minh, Đại-Tá Thiện họp tất cả sĩ quan và Hạm-Trưởng tại phòng ăn sĩ quan và cho biết ý định của Ông là sẽ ra đi. Điểm hẹn là Poulo-Panjang.
Sau cuộc họp ngắn ngủi đó, tất cả chiến hạm tách bến; chiến đỉnh cũng vội vàng ra đi. Đại-Tá Thiện và gia đình không còn phương tiện nào để rời Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải. Đại-Tá Thiện liên lạc vô tuyến với người bạn cùng khóa, Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới, nhờ giúp đỡ.
Chiếc LCM8 đưa gia đình Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới ghé đón Đại-Tá Thiện và gia đình Ông tại cầu tàu, trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải.
Sau đó, vì đã hứa đi chung với các đơn vị Hải-Quân tại Phú-Quốc, Đại-Tá Thiện sang một ghe Yabuta để đến chiến hạm. Lúc này đoàn tàu gồm có:

  • HQ 230 – Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Nguyên.
  • HQ 330 – Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Anh.
  • HQ 331 – Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Tấn Triệu.
  • HQ 602 – Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Minh Dương.

Đại-Tá Thiện lên HQ 230. Tại đây, vì chưa biết Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon đã di tản, Đại-Tá Thiện dùng hệ thống siêu tần số để liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon, nhưng không gặp được ai cả!
Một số nhân viên trên HQ 230 nổi loạn, muốn đem chiến hạm về. Vừa khi đó, HQ 230 đến Poulo-Panjang. Tại đảo này có khoảng hai mươi PCF của Hải-Đội 4 Duyên-Phòng. Những người muốn về, dùng PCF trở về; ai muốn đi, ở lại chiến hạm.
Trên đường rời hải phận Việt-Nam, vì tình trạng kỹ thuật của HQ 331, đoàn tàu phải ghé Singapore. Hải-Quân Singapore, thay vì giúp sửa chữa HQ 331, lại đòi lấy HQ 331!
Đoàn tàu rời Singapore với thêm nhiều người di tản mới nhập hạm từ Singapore. HQ 330 phải dòng HQ 331.
Trong thời gian hải hành, Thiếu-Úy Xử-Lý Thường-Vụ Hạm-Phó HQ 602 cùng một nhóm người nhập hạm từ Singapore, nổi loạn, giết chết Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Minh Dương, rồi đem chiến hạm trở về!
Đại-Tá Thiện có ý định – và tất cả Hạm-Trưởng cũng đồng ý – là sẽ đưa những chiến hạm này sang Úc-Đại-Lợi. Nhưng, khoảng nửa đường, nghe đài BBC và đài VOA loan báo rằng Úc-Đại-Lợi công nhận chính phủ Cộng-Sản Việt-Nam, tất cả đổi ý, đi Phi-Luật-Tân.
Trên đường hướng về Phi-Luật-Tân, một chiến hạm Nga bám sát ba chiến hạm HQ 230, HQ 330 và HQ 331. Khi phi cơ Hoa-Kỳ xuất hiện quanh ba chiến hạm này thì chiến hạm Nga đổi hướng và mất dạng.
Trong chuyến di tản này, lực lượng Hải-Quân Phú-Quốc đem theo khoảng từ 50% đến 55% gia đình Hải-Quân, từ 10% đến 15% gia đình Địa-Phương-Quân và số còn lại là đồng bào. (2)
(2)Tư liệu của Cựu Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải – Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thiện


VÙNG V DUYÊN-HẢI

Việt-Cộng dồn mọi nỗ lực vào các mặt trận Cao-Nguyên và miền Trung cho nên tình hình quân sự Vùng V Duyên-Hải hoàn toàn yên tĩnh.
Chiều 29 tháng 4, sau khi thâu nhận được những diễn tiến tại Trung-Ương, Lực-Lượng Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải tập trung tại Hòn-Khoai, chờ lệnh.
Tối 29 tháng 4, Lực-Lượng Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải nghe lời kêu gọi của Trưởng-Khối an ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, trên hệ thống truyền tin, cho nên tất cả trở về hậu cứ Năm-Căn!
Ngày 30 tháng 4, sau khi nghe lệnh buông súng, lực lượng Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải lại ra khơi.
Ngày 1 tháng 5, khoảng 3 giờ chiều, Lực-Lượng Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải, gồm khoảng 50 chiến đỉnh đủ loại, đến Hòn-Tre – hậu cứ của Duyên-Đoàn 43 – và giao tất cả vũ khí cũng như quân dụng cho ban tiếp thu Việt-Cộng, rồi giải tán!


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG VI

NHỮNG ĐỘT BIẾN TẠI CÁC VÙNG SÔNG NGÒI

VÙNG III SÔNG NGÒI

Tình hình quân sự thuộc lãnh thổ Vùng III Sông-Ngòi không đáng đề cập nếu không có những cuộc đụng độ quyết liệt giữa các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm, Lực-Lượng 99 và Lực-Lượng cơ hữu của Hải-Quân Vùng III Sông-Ngòi với những Lực-Lượng chính quy Việt-Cộng.
Với ý đồ đánh thốc vào Long-An, cắt quốc lộ 4, cô lập Saigon, Việt-Cộng mở mặt trận lớn với các đơn vị sau đây:

  • Công Trường 8, từ kinh Chợ Gạo, đi phía quận Bình-Phước, bức Rạch-Kiến, tuôn về Bình-Chánh, vào Saigon.
  • Công Trường 9, từ Cái-Bè tiến quân đến Bến-Tranh, đánh vào Long-An, mục đích hiệp với Công Trường 7, cắt quốc lộ 4.
  • Công Trường 7, từ Đồng-Tháp đánh vào Thủ-Thừa.
  • Công Trường 5, từ Tây-Ninh; một phần đánh vào Hậu-Nghĩa, một phần đánh vào Bến-Lức.

NHỮNG TRẬN CHIẾN TRÊN VÀM-CỎ-TÂY

vnhq_ch6

Ngay khi mặt trận Long-An vừa bùng nổ, Lực-Lượng 99, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, được đưa vào chiến trận.
Đại-Tá Dõng là vị sĩ quan đầu tiên của khóa 8 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang được thăng Đại-Tá. Về hải vụ, có thể nói Đại-Tá Dõng không thua bất cứ một vị đàn anh nào cả. Về chỉ huy những đơn vị chiến đấu trong sông rạch, Đại-Tá Dõng và người bạn cùng khóa, Hải-Quân Trung-Tá Hồ Quang Minh, là hai sĩ quan được các đại đơn vị Việt-Cộng tại Vùng III và Vùng IV Sông-Ngòi lên án nặng nề!
Ngày 17 tháng 4, Lực-Lượng 99 khởi hành từ Nhà Bè, trực chỉ Long-An.
Thời gian này, với mục đích cắt quốc lộ IV, ngăn chận sự tiếp viện của quân V.N.C.H. từ Vùng IV Chiến-Thuật, Công-Trường 7 Việt-Cộng kéo quân từ Cái-Bè đến Bến-Tranh thì “đụng” nặng với một Trung-Đoàn của Sư-Đoàn 7 Bộ-Binh. Khi địch đến rạch Cần-Đốt lại gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của Địa-Phương-Quân.
Cánh quân Công Trường 8 Việt-Cộng đánh vào Rạch-Kiến chạm phải sức kháng cự vũ bão của Lực-Lượng Địa-Phương-Quân, khựng lại đó.
Cánh quân Việt-Cộng tấn công quận Tân-Trụ đang tràn ngập trong Chi-Khu vừa lúc Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 đang giang hành ngang Tân-Trụ để tiến về Long-An. Lúc này Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận cũng vừa đưa một Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân từ Long-An lên tiếp viện quận Tân-Trụ.
Sau khi “đổ” quân, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận cùng Lực-Lượng 99 nhập trận, yểm trợ Địa-Phương-Quân.
Bất ngờ đụng nặng với hai đơn vị tác chiến Hải-Quân, quân của Công-Trường 8 Việt-Cộng, sau nhiều đợt chống trả dữ dội, đành “chém vè”! Quận Tân-Trụ được giải tỏa cùng ngày.
Ngày 18 tháng 4, khoảng 8 giờ sáng, Lực-Lượng 99 đến Long-An. Tình hình kinh Thủ-Thừa nguy ngập. Trên giang trình tiến đến giải tỏa kinh Thủ-Thừa, khi vừa qua khỏi cầu Long-An khoảng hai trăm thước, Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 thấy rất đông người đang tắm, nô đùa dưới sông, bên bờ đối diện rạch Cần-Đốt. Đặt ống dòm quan sát, Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng 99, phát giác ra đó là một đại đơn vị Việt-Cộng. Lập tức, Đại-Tá Dõng ra lệnh toàn Lực-Lượng ủi thẳng sang, tấn công.
Khi thấy đoàn chiến đỉnh ủi ngay vào điểm dừng quân của mình, một đơn vị của Công Trường 7 Việt-Cộng, chấp nhận đánh nhau, không chạy. Hai bên cách nhau khoảng mười thước, có thể thấy nhau bằng mắt thường, cho nên, mọi người trên đoàn giang đỉnh đều thấy Việt-Cộng nhốn nháo, tán loạn. Tuy vậy, sức phản công của địch từ bờ bắn ra cũng dữ dội với đủ loại súng, có cả 82 ly không giật và 12 ly 8. Phía Lực-Lượng 99, mọi vũ khí nặng trên chiến đỉnh đều được xử dụng tối đa.
Trong khi trận chiến đang diễn ra dữ dội, Thủy Thủ Đức bị thương trên mặt và đầu, máu tuôn xối xả. Nhưng Thủy Thủ Đức chỉ đưa tay vuốt máu trên mặt rồi đứng thẳng trên chiếc Tango, ôm MK19, nã thẳng vào địch quân.
Đến 5 giờ chiều, sức kháng cự của Việt-Cộng yếu dần. Bộ-Binh và Địa-Phương-Quân được điều động đến, đổ bộ. Lúc này chỉ còn nghe rời rạc vài tiếng B40.
Trong trận này, tổn thất về phía Hải-Quân và quân bạn không đáng kể. Việt-Cộng thiệt hại không dưới một Tiểu-Đoàn. Vũ khí tịch thu gồm: 4 khẩu 82 ly không giật, 2 khẩu 12 ly 8, 12 khẩu B40, rất nhiều AK và súng trường Nga.
Sáng 19 tháng 4, Lực-Lượng 99 và Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận trở lại địa điểm đã đụng độ với Việt-Cộng ngày hôm trước. Đoàn giang đỉnh vừa đến nơi, hai giang đỉnh bị bắn. Một Monitor của Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận bị 82 ly không giật bắn trực xạ. Ba nhân viên và Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Ngọc Lộ, bị thương. Nhưng cả bốn thương binh đều không chịu tản thương, chỉ vuốt máu, tiếp tục chiến đấu!
Kể từ ngày 19 tháng 4, hễ Lực-Lượng 99 và Địa-Phương-Quân giải tỏa xong điểm chạm địch đối diện với rạch Cần-Đốt ngày hôm trước thì ngày hôm sau Việt-Cộng lại chuyển vận súng lớn trở lại địa điểm này.
Trong thời gian này, mỗi ngày, tiểu đoàn pháo của Công-Trường 7 Việt-Cộng nã vào Long-An từ 40 đến 60 quả 122 ly!
Bằng mọi giá, Việt-Cộng quyết tiêu diệt Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99; vì Lực Lượng này là trở ngại lớn cho cuộc kéo quân của các Công-Trường Việt-Cộng về Long-An.
Đêm 20 tháng 4, trong khi Lực-Lượng 99 đang “nằm” gần cầu Long-An thì người nhái Việt-Cộng lội ra giang đỉnh, bám vào thành tàu, leo lên ngay chiến đỉnh của người nhái Hải-Quân V.N.C.H. Tất cả người nhái Việt-Cộng đều bị hạ trước khi hành động!
Đêm 21 tháng 4, Lực-Lượng 99 “đổ” toán Hải-Kích – do Đại-Úy Hiền chỉ huy – lên bờ đối diện rạch Cần-Đốt. Khi còn cách bờ khoảng 30 thước, Hải-Quân phát hiện Việt-Cộng đông quá! Thấy Đại-Úy Hiền tỏ vẻ ngần ngại, Đại-Tá Dõng ra lệnh rút lui; vì Ông nghĩ rằng khi Hải-Kích không chấp nhận trận chiến thì không thể nào quân ta vào được.
Cánh quân của Công-Trường 9 Việt-Cộng từ Cái-Bè tiến đến Bến-Tranh thì gặp sự kháng cự của một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 7 Bộ-Binh. Lúc địch kéo về đến rạch Cần-Đốt lại “đụng” lực lượng Địa-Phương-Quân phòng thủ tại đây.
Cũng thời điểm này, Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh, dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, từ Qui-Nhơn về Bến-Lức, đang tái trang bị, không xuất trận. Nhưng khi Cầu Voi bị tấn công, Tướng Niệm chỉ thị một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh đến giải tỏa, nhưng không giải tỏa được.
Nhận thấy áp lực địch đè nặng trên vùng trách nhiệm của Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám, đem toàn Bộ-Tham-Mưu đến Long-An hỗ trợ Đại-Tá Dõng. (Trước khi trở thành Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng 99, Đại-Tá Dõng đã là Tư-Lệnh-Phó Lực-Lượng Tuần-Thám). Tháp tùng Bộ-Tham-Mưu Lực-Lượng Tuần-Thám là bác sĩ Trần Quốc Dũng, vị y-sĩ được tất cả đơn vị Hải-Quân cũng như đồng bào và quân bạn tại bệnh viện Long-An mến phục.
Từ giữa tháng 4, hầu như tất cả bác sĩ trong tỉnh Long-An đều di tản. Mỗi ngày số thương vong do đại bác của địch và thương binh từ các mặt trận đưa về nườm nượp, nhưng khó tìm ra được một vị y-sĩ!
Ngoài những lúc hành quân với Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 để săn sóc thương binh tại trận địa, vị y-sĩ tốt nghiệp khóa 16 Trưng Tập, Trần Quốc Dũng, cùng với trung sĩ y-tá tên Thông, chưa kịp cất áo giáp, nón sắt, đã vội vàng đến ngay bệnh viện Long-An để cấp cứu nạn nhân chiến tranh.
Lúc này xác thường dân chết vì hỏa tiễn Việt-Cộng nằm rải rác ven đường. Vô số người bị thương được đưa đến bệnh viện Long-An. Tại phòng nhận bệnh, nạn nhân chiến tranh nằm la liệt mà chỉ có hai y-tá phụ trách! Trong số những nạn nhân, một người bị mảnh pháo kích ghim nơi ngực, thở không được.
Biết rằng nạn nhân này cần phải được giải phẫu cấp kỳ, bác sĩ Dũng và y-tá Thông đẩy ngay người này vào phòng mổ. Dụng cụ giải phẫu và thuốc men đều bị khóa kín trong tủ. Trong khi bác sĩ Dũng và y-tá Thông đập bể tủ, thực hiện cuộc “giải phẫu dã chiến” cứu sống nạn nhân thì Việt-Cộng pháo nặng hơn. Kho dầu và kho đạn Long-An trúng đại pháo. Và, ít nhất, có hai hỏa tiễn rơi ngay bệnh viện, gây thêm rất nhiều tử vong!
Nghe bệnh viện trúng đạn pháo kích, thân nhân dùng đủ mọi phương tiện để di chuyển người thân của họ ra khỏi bệnh viện. Bác sĩ Dũng và y-tá Thông vẫn tiếp tục băng bó, săn sóc, cấp cứu nạn nhân trong những tiếng nổ rền trời của từng đợt hỏa tiễn do Việt-Cộng nã vào thành phố Long-An.
Trưa 29 tháng 4, lưu thông trên quốc lộ 4 bị gián đoạn. Vì cảm mến đức tính can cường của Thiếu-Tá Phạm Ngọc Lộ trong những lần chạm địch suốt mấy ngày qua, Đại-Tá Dõng hỏi Thiếu-Tá Lộ có muốn đưa tàu về Saigon đón gia đình hay không? Nếu muốn, cứ lấy hai ASPB – trợ chiến đỉnh trang bị súng phun lửa – mà đi. Thiếu-Tá Lộ cho hai ASPB rời vùng hành quân về Saigon đón gia đình, còn Ông ở lại với đơn vị.
Không hiểu tại sao câu chuyện giữa Đại-Tá Dõng và Thiếu-Tá Lộ đến tai Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú.
Từ khi đến Long-An, Phó-Đề-Đốc Phú là vị sĩ quan thâm niên hiện diện, được tất cả đơn vị Hải-Quân trong vùng xem như Tư-Lệnh hành-quân. Đối với Hải-Quân, không ai lạ gì cá tính nghiêm khắc, độc đoán của vị sĩ quan tốt nghiệp khóa II sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang này. Nhưng, bù lại, Phó-Đề-Đốc Phú rất xuề xòa và thường âm thầm lo lắng cho thuộc cấp; vì vậy Ông được thuộc cấp đặt danh hiệu là Bố-Già.
Chiều 29 tháng 4, khoảng 6 giờ 30, Phó-Đề-Đốc Phú cho tập họp tất cả thuyền trưởng của Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, Đại-Tá Dõng, Thiếu-Tá Lộ và Thiếu-Tá Chiến Binh Vĩnh Đính, Tham-Mưu-Phó Hành Quân Lực-Lượng Tuần-Thám. Trước mặt mọi người, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám, kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, tuyên bố truất quyền chỉ huy của Thiếu-Tá Lộ và chỉ định Thiếu-Tá Vĩnh Đính làm Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, thay thế Thiếu-Tá Lộ! Mọi người, kể cả Đại-Tá Dõng, đều sửng sốt đến không nói được một lời! Sau này, Đại-Tá Dõng mạnh dạng xác nhận sự im lặng của Ông vào chiều hôm đó là một lầm lẫn!
Sở dĩ cho đến chiều 29 tháng 4 mà toàn tỉnh Long-An vẫn chưa có phần đất nào bị Việt-Cộng kiểm soát là nhờ hai yếu tố sau đây:

  • Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân của Tiểu-Khu Long-An là một lực lượng tinh nhuệ. Nếu so sánh Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này với những lực lượng chính quy của V.N.C.H. như Nhảy-Dù, Thủy-Quân-Lục-Chiến, Biệt-Động-Quân, v. v… thì sức chiến đấu dai dẳng và can cường của Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này sẽ ngang ngửa chứ không kém. Chính Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này đã “chôn chân” Công-Trường 7 Việt-Cộng bên kia kinh Thủ-Thừa.
  • Sự quyết định nhanh chóng của Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. khi đưa Lực-Lượng 99 vào trận địa đúng thời điểm.

Tối 29 tháng 4, đích thân Phó-Đô-Đốc Cang gọi máy, chỉ thị Đại-Tá Lê-Hữu-Dõng đưa toàn Lực-Lượng 99 ra sông Soài-Rạp. Nhưng Đại-Tá Dõng xin ở lại 24 giờ đồng hồ nữa; vì Long-An “chưa hề hấn gì” và tinh thần chiến đấu của binh sĩ còn hăng.
Cũng thời điểm này, Đại-Úy Trưởng Phòng An-Ninh Lực-Lượng Tuần-Thám – theo lệnh của Phó-Đề-Đốc Phú – vào bệnh viện đưa bác sĩ Dũng di tản. Bác sĩ Dũng bảo: “Đại-Úy thưa với Tư-Lệnh, nếu Tư-Lệnh muốn chạy thì cứ chạy đi. Tôi ở lại với anh em.”
Sáng 30 tháng 4, Việt-Cộng vẫn tiếp tục pháo hỏa tiễn vào Long-An. Đại-Tá Dõng gặp Đại-Tá Huyến, Tỉnh Trưởng Long-An. Đại-Tá Huyến tỏ vẻ thất vọng vì không liên lạc được với thẩm quyền nào cả. Đại-Tá Dõng hỏi dò Đại-Tá Huyến về ý định di tản. Đại-Tá Huyến Lắc đầu: “Anh em còn đang chiến đấu, tôi đi không đành. Bao giờ đem được anh em về hết tôi sẽ đi.”
Khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, Đại-Tá Dõng cho một chiếc Jeep đi tìm bác sĩ Dũng. Sau đó, Đại-Tá Dõng đưa Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99, Giang-Cảnh, Cảnh Sát, Đại-Đội Tuần-Giang, v.v…theo Vàm-Cỏ-Tây, ra sông Soài Rạp. Điểm hẹn là Bắc-Cầu-Nổi. Lúc này, cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam cắm đầy hai bên bờ sông.
4 giờ chiều, mấy trăm chiến đỉnh của nhiều đơn vị Hải-Quân tụ tập tại Bắc-Cầu-Nổi. Cũng lúc đó, mọi người thấy Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú – người trở lại từ HQ 502 để đón những đơn vị của Ông ra trễ – trên một PBR đơn độc ngay chỗ phao đỏ cuối cùng trước khi dòng Soài Rạp tuôn ra biển.
Đại-Tá Dõng kiểm soát tất cả đơn vị xong, trình lên Phó-Đề-Đốc Phú rằng các đơn vị đã đến điểm hẹn gần đầy đủ. Phó-Đề-Đốc Phú đáp: “Tốt”.
4 giờ 20 chiều, tại Bắc-Cầu-Nổi, Đại-Tá Dõng được xem như vị đại diện Hải-Quân trong vùng, tuyên bố giải tán những đơn vị Hải-Quân!
Sau đó, người nào đi thì dồn lên những LCM hoặc PBR để ra đi. Người nào muốn về thì dồn lên mấy PBR trở về. Số giang đỉnh còn lại được tháo ống, cho chìm từ từ.
Nhìn những chiến đỉnh không người lái, cứ quay vòng vòng rồi chìm từ từ, hầu như mọi người đều nén ngậm ngùi. Thượng sĩ D., thuộc Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, không nén được xúc động, đã bật khóc và gào lên: “Chính phủ ơi! Con tàu ơi!”
Cũng trong tình huống đó, Hải-Quân Đại-Úy H., Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 59 Tuần-Thám, từ LCM8 nhảy xuống một PBR rồi nhắn nhủ: “Thôi, Commandant đi đi. Tôi ở lại điều động đàn em của tôi, rồi…một là tôi sẽ tự tử chết; hai là tôi sẽ về Bến-Tre tu với Mẹ tôi!”

NHỮNG TRẬN CHIẾN TRÊN VÀM-CỎ-ĐÔNG

vnhq_ch6

Vào hạ tuần tháng 2 năm 1975, trong trận phục kích vào khoảng sông giữa Gò-Dầu-Hạ và Tây-Ninh, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận tịch thu được tài liệu quan trọng sau khi bắn chết hai sĩ quan cao cấp Việt-Cộng từ cục R đi ghe ra. Tiểu-Khu Tây-Ninh muốn giữ tài liệu này; nhưng Quân-Đoàn III phái một Đại-Tá xuống lấy về. Theo tài liệu này, Việt-Cộng sẽ mở mặt trận lớn tại Long-An và Hậu-Nghĩa.
Bên bờ Tây sông Vàm-Cỏ-Đông – đối diện với tỉnh Hậu-Nghĩa – trên kinh Thủ-Thừa khoảng hơn 20 cây số là đồn Trà-Cú, một miếng mồi khó nuốt cho tất cả Lực-Lượng Việt-Cộng lăm le muốn đánh Hậu-Nghĩa.
Lý do Việt-Cộng không thể xâm nhập mặt sông này hoặc tiến chiếm đồn Trà-Cú là vì hàng rào điện tử được gài dọc theo bờ sông. Những điện toán của hàng rào điện tử này ghi nhận chính xác tất cả hoạt động và mọi cuộc di chuyển của Việt-Cộng phía trục đó.
Khoảng tháng 3 năm 1975, đồn Trà-Cú là nơi đóng quân của Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám, một Giang-Đoàn Ngăn-Chận và một Tiểu-Đội Pháo-Binh tăng phái cùng hai khẩu đại bác để yểm trợ Chi-Khu và đồn bót dọc sông Vàm-Cỏ-Đông. Nếu có những cuộc xâm nhập quy mô của Việt-Cộng, Tỉnh Trưởng Hậu-Nghĩa sẽ tăng phái vài đơn vị biệt lập như Địa-Phương-Quân.
Kể từ khi đơn vị trưởng tiền nhiệm đồn Trà-Cú dời dân từ vùng xôi đậu về lập một làng nho nhỏ chỗ khúc cua, cạnh đồn, Hải-Quân kiêm luôn trách nhiệm bảo vệ làng này và giúp dân làng phương tiện sang sông.
Giữa tháng 3, mặc dù Cao-Nguyên bỏ ngõ và miền Trung “co” lại, tình hình quân sự vùng Hậu-Nghĩa, Trà-Cú vẫn tương đối bình yên; ngoại trừ vài vụ phá hoại không đáng kể của đặc công, nhưng bị phát giác kịp thời.
Hạ tuần tháng 3, những hoạt động của Việt-Cộng quanh vùng Gò-Dầu-Hạ, Hậu-Nghĩa, Trà-Cú, được ghi nhận gia tăng với mức độ đáng ngại. Bằng cớ là khi Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Mạnh Đề, được điều động từ Gò-Dầu-Hạ theo sông Vàm-Cỏ-Đông về Nhà-Bè để yểm trợ tàu đạn và tàu dầu ra sông Lòng Tào, đã bị Việt-Cộng tấn công tất cả bảy lần, gây thương tích cho vài nhân viên và làm tử thương Thiếu-Úy C.
Khi đến khúc cua ngặt, chỗ ngôi làng gần đồn Trà-Cú, giang đỉnh chở xác Thiếu-Úy C. lại bị mìn! Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, một giang đỉnh khác lại trúng mìn! Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư-Lệnh-Phó Vùng III Sông-Ngòi, ra lệnh Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận dừng lại để vớt xác và vớt tàu. Khi nhân viên đang thi hành công tác thì Việt-Cộng từ bờ bắn ra tới tấp, vớt không được. Đến mờ sáng, xác nhân viên Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận nổi lờ đờ dọc bờ sông!
Ngày 17 tháng 4, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận được lệnh trở lại sông Vàm-Cỏ-Đông, hiệp cùng Giang-Đoàn 57 Tuần-Thám, Giang-Đoàn 24 Xung-Phong, một giang đoàn Giang-Cảnh và một đơn vị thuộc Sư-Đoàn Nhảy-Dù để bảo vệ Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh, vừa rút về từ Qui-Nhơn và tạm trú tại Căn-Cứ Hải-Quân Bến-Lức.
Đêm 18 tháng 4, Việt-Cộng bắn hỏa tiễn 130 ly vào Căn-Cứ Hải-Quân Bến-Lức. Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh rời Căn-Cứ Hải-Quân và phân tán mỏng ngay cho nên không bị thiệt hại; chỉ có kho dầu Bến-Lức bị trúng đạn pháo kích, cháy.
Sáng 19 tháng 4, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, vị sĩ quan tốt nghiệp khóa II Brest, thị sát mặt trận dọc theo sông Vàm-Cỏ-Đông. Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Mạnh Đề, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, chỉ cho Đại-Tá Xuân biết chỗ Hải-Quân thường bị phục kích.
Tối 19 tháng 4, Đại-Tá Xuân tháp tùng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận đi tuần tiễu. Ngay chỗ Thiếu-Tá Đề chỉ cho Đại-Tá Xuân lúc sáng, Việt-Cộng bắn thẳng vào Soái-Đỉnh. Đại-Tá Xuân ra lệnh rút về.
Trong thời gian này, hoạt động của các Giang-Đoàn bị giới hạn; vì chỉ rời điểm đóng quân khoảng 500 thước là chạm địch. Ngày nào Căn-Cứ Hải-Quân Bến-Lức cũng bị hỏa tiễn 130 ly. Phó-Đề-Đốc Nghiêm-Văn-Phú ra lệnh cho tất cả Giang-Đoàn rời Căn-Cứ, giàn dọc bờ sông để tránh pháo kích. Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh cũng ra đồng hoặc “nằm” dưới những gầm cầu. Đơn vị Dù của Thiếu-Tá Tâm quần thảo liên miên với các đơn vị của Công-Trường 9 Việt-Cộng.
Ngày 21 tháng 4, sáu PBR thuộc Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám biệt phái cho quận Hiếu-Thiện, phía Bắc đồn Trà-Cú, bị tấn công nặng nề. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Văn Sơn, đem toàn lực lượng từ đồn Trà-Cú lên tiếp cứu, cố đưa sáu chiến đỉnh về, nhưng Việt-Cộng từ bờ bắn ra dữ dội. Trung-Úy trưởng toán PBR biệt phái báo cáo rằng Việt-Cộng đã giăng giây cáp, bên dưới có lưới sắt, từ bên này bờ sang bên kia bờ!
Được báo cáo, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành quân Lưu-Động-Sông, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, ra lệnh Trung-Úy trưởng toán phải mở đường máu, đưa sáu PBR về! Đồng thời Phó-Đề-Đốc Hùng cũng chỉ thị Thiếu-Tá Đề đưa Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận từ Bến-Lức lên tiếp tay với Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám, đem sáu PBR biệt phái về. Điểm “bắt tay” là khúc quanh, nơi Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận thường bị phục kích.
Để hỗ trợ cho cuộc hành quân này, Tiểu-Khu Long-An tăng phái một tiểu đoàn Địa-Phương-Quân giữ an ninh bên bờ sông để đoàn chiến đỉnh xuống.
Khi Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận đưa tiểu-đoàn Địa-Phương-Quân tăng phái và Đại-Tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư-Lệnh-Phó Vùng III Sông Ngòi, đến gần điểm thường hay bị phục kích, tất cả đều vắng vẻ, không có gì khả nghi. Ngôi làng nhỏ cạnh đó cũng yên tĩnh và treo cờ Việt-Nam Cộng-Hòa.
Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, Thiếu-Tá Đề, liên lạc với Thiếu-Tá Sơn, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám, cho biết hai Giang-Đoàn chỉ còn cách nhau khoảng hai cây số. Vừa lúc đó, đủ mọi loại súng từ bờ bắn xối xả vào Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám. Liên lạc truyền tin giữa hai Giang-Đoàn bị gián đoạn.
Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng lại ra lệnh: Bằng mọi giá, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận phải yểm trợ để đưa Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám về! Đại-Tá Huyến, Tỉnh Trưởng Long-An, yêu cầu Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận “thả” Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân xuống để bảo vệ an ninh trên bờ cho Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám xuống.
Mười chín giang đỉnh thuộc Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận vừa ủi bãi, Địa-Phương-Quân đang đổ bộ thì từng loạt pháo kích của Việt-Cộng rơi ngay bãi! Từng lớp, từng lớp Địa-Phương-Quân gục ngã trên bãi lầy!
Trong tình cảnh như vậy, Thiếu-Tá Đề vẫn không nhận được lệnh từ ai cả; vì Đại-Tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư-Lệnh-Phó Vùng III Sông Ngòi và Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, Tư-Lệnh Vùng III Sông Ngòi, đang tranh cãi nhau trên máy truyền tin! Thiếu-Tá Đề tự động ra lệnh rút lui để bảo vệ đơn vị. Tiểu-Đoàn-Trưởng Địa-Phương-Quân không đồng ý, nói với Thiếu-Tá Đề: “Hải-Quân rút, tôi bắn!” Sau đó, Việt-Cộng pháo dồn dập, Thiếu-Tá Đề quyết định rút!
Trên đường trở về Bến-Lức, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận lại nghe tiếng kêu cứu của Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám. Thiếu-Tá Đề lại được lệnh đưa Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận trở lên tiếp cứu Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám.
Khi trở lên, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận vừa đi ngang ngôi làng nhỏ treo cờ V.N.C.H. thì Việt-Cộng khai hỏa bằng đủ loại súng lớn. Xin pháo binh và phi cơ yểm trợ không được, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận vừa tiến vừa chống trả mãnh liệt.
Tối 22 tháng 4, khoảng 9 giờ 30, Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận “bắt tay” Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám. Sáu PBR biệt phái cho quận Hiếu-Thiện vẫn còn kẹt tại đó. Lời cuối cùng Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám nhận được từ Trung-Úy trưởng toán PBR biệt phái là: “Kiến nhiều quá! Cắn đau lắm! Phải đổi màu, theo đàn bò”.
Khi Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận và Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám về gần tới kinh Thủ-Thừa thì thấy cờ trắng phất bên bờ sông. Vì trời tối và cũng vì bị tấn công nặng nề, nhân viên hai Giang-Đoàn hoảng hốt, bắn xối xả vào bờ! Tiểu-Khu Long-An liên lạc cấp kỳ với Hải-Quân và xác nhận đơn vị bên bờ sông là thành phần còn lại của Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân mà Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận đã “thả” lúc đầu hôm!
Sáng 23 tháng 4, nhiều xác Địa-Phương-Quân nổi lềnh bềnh dọc sông Vàm-Cỏ-Đông!
Cùng ngày, tất cả đơn vị trưởng Hải-Quân về Bến-Lức họp. Cuộc họp gồm những sĩ quan sau đây:

  • Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành Quân Lưu-Động-Sông.
  • Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám.
  • Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99.
  • Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Sông-Ngòi.
  • Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân Vùng III Sông-Ngòi.
  • Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
  • Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Mạnh Đề, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận.
  • Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Văn Sơn, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám.
  • Đại-Tá Luận, thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.

Trong phiên họp, giới chức thẩm quyền gián tiếp chỉ thị các đơn vị trưởng phải lo cho anh em và gia đình binh sĩ; ưu tiên là gia đình Hải-Quân. Điểm hẹn là sông Soài Rạp.
Tối 23 tháng 4, Tướng Phan Đình Niệm rời Bến-Lức bằng trực thăng.
Ngày 24 tháng 4, Việt-Cộng tăng mức độ pháo vào những nơi đóng quân của V.N.C.H. Hoạt động của Hải-Quân trên Vàm-Cỏ-Đông giảm thiểu tối đa. Đồn Trà-Cú bị cô lập hoàn toàn.
Tối 29 tháng 4, tại đồn Trà-Cú, Thiếu-Tá Ngô Văn Sơn cho nhân viên đưa gia đình xuống các chiến đỉnh. Chỉ-Huy-Phó Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám đưa đoàn PBR ra sông lớn, chờ. Thiếu-Tá Sơn, những sĩ quan trong bộ chỉ huy và ít nhân viên liên hệ cùng một số chuyên viên ngòi nổ ở lại Trà-Cú để thiêu hủy tài liệu, đặt chất nổ phá hủy những nơi quan trọng trước khi rút lui.
Mối lo ngại lớn nhất của nhóm người ở lại là “pông-tông” dầu khá lớn, nằm ngay trước đồn Trà-Cú. Vào lúc nhóm người ở lại đang thực hiện kế hoạch phá hủy thì Việt-Cộng pháo kích ngay vào đồn Trà-Cú! Pháo liên tục! Pháo dày đặc! Pháo dai dẳng! Pháo rơi trúng hầm mà nhóm người ở lại đang trú ẩn khiến một sĩ quan tử thương!
Thiếu-Tá Sơn cho chặt giây “pông-tông” dầu. “Pông-tông” dầu trôi ra, Thiếu-Tá Sơn cho bắn theo, với mục đích gây hỏa hoạn, thiêu hủy số lượng dầu. Khi “pông-tông” phực cháy, gặp gió ngược, trôi lên hướng ngôi làng nhỏ, tức thì muôn họng súng trong làng đều nhả đạn vào khối lửa di động.
Lợi dụng thời cơ đó, nhóm người ở lại rút lên PBR cuối cùng, rồi nhấn ngòi nổ, sang bằng đồn Trà-Cú. Sau đó, PBR của nhóm người ở lại nhập với đoàn PBR chở binh sĩ và gia đình chờ ngoài sông lớn, xuôi về Bến-Lức.
Trên đường về Bến-Lức, khoảng cách chỉ hơn 50 cây số, đoàn PBR bị tấn công ba lần.
Lần thứ nhất, xe tăng Việt-Cộng từ bên bờ Hậu-Nghĩa bắn trực xạ ra đoàn PBR.
Lần thứ hai, khi vừa xả hết tốc lực chạy khỏi tầm đạn xe tăng, đoàn PBR lại bị Việt-Cộng từ hai bên bờ tấn công bằng bazooca 57 và 75 không giật.
Lần thứ ba, lúc gần sáng 30 tháng 4, đoàn PBR lại bị chận đánh một lần nữa khi về gần tới Bến-Lức. Sở dĩ Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám không phản công được là vì trên mỗi PBR đều đầy nghẹt binh sĩ và gia đình!
Sáng 30 tháng 4, tình hình Căn-Cứ Hải-Quân Bến-Lức vô cùng bi đát. Hầu hết những đại đơn vị đều đã rút ra sông Soài-Rạp; chỉ còn lại sĩ quan cấp nhỏ và lính. Mọi người nhốn nháo tìm phương tiện về với gia đình; nhưng Quân-Cảnh gác cổng vẫn giữ đúng kỷ luật, không cho bất cứ ai xuất trại. Binh sĩ lấy vũ khí, tấn công Quân-Cảnh! Hai bên bắn nhau!
Mười giờ 30 cùng ngày, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng, Việt-Cộng ùa vào Căn-Cứ Hải-Quân Bến-Lức. Việt-Cộng tin rằng V.N.C.H. đang chuẩn bị bàn giao Căn-Cứ này cho họ, vì vậy, họ vui đùa, săm soi, táy máy hết cái này đến cái kia. Phía quân nhân V.N.C.H. thì thấy Việt-Cộng đông quá, lại vừa nghe lệnh đầu hàng cho nên không ai dám làm gì cả. Cả hai bên đều giả lơ như là chẳng thấy nhau!

VÙNG IV SÔNG-NGÒI

Khoảng tháng 3 và tháng 4 năm 1975, Việt-Cộng đưa nhiều đơn vị về chung quanh Cần-Thơ, cố tạo áp lực ngay “trung tâm não bộ” của Vùng IV Chiến-Thuật.
Lúc bấy giờ, những Lực-Lượng Hải-Quân, một phần phải yểm trợ sông Đại-Ngãi – dòng sông huyết mạch từ Cần-Thơ xuống Cà-Mau, đi qua Bạc-Liêu – để hộ tống các ghe lúa gạo từ Bạc-Liêu về; phần còn lại rút về phòng thủ Cần-Thơ.
Tuy có nhiều đụng độ giữa Lực-Lượng Hải-Quân V.N.C.H. và Lực-Lượng Việt-Cộng chung quanh Cần-Thơ; nhưng vì Việt-Cộng dồn mọi nỗ lực lớn để tấn công Saigon, cho nên, tương đối áp lực địch tại Cần-Thơ không đủ làm bận tâm những giới chức thẩm quyền V.N.C.H. Bằng cớ là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-Lệnh Quân-Đoàn IV, đã tăng phái cho mặt trận Vùng III một số lực lượng của Vùng IV. Và, theo chỉ thị của Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H., Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi kiêm Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21, Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng, đã cho di chuyển một số đơn vị về yểm trợ Vùng III Sông-Ngòi.
Tình hình Vùng IV Sông-Ngòi còn rất yên tĩnh; nhưng Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Cần-Thơ, Francis Terry McNamara, cũng đặt kế hoạch di tản nhân viên Việt và Mỹ của Tòa Tổng-Lãnh-Sự.
Ngày 21 tháng 4, trong dịp về Saigon nhận tiền phát cho nhân viên, Tổng-Lãnh-Sự Francis T. McNamara trình bày với Đại-Tá George Jacobson về kế hoặch di tản nhân viên. Theo Tổng-Lãnh-Sự McNamara, di tản bằng trực thăng sẽ gặp trở ngại về vấn đề tiếp tế nhiên liệu; vì vậy, Tổng-Lãnh-Sự McNamara yêu cầu được di tản bằng đường thủy. Đại-Tá Jacobson đồng ý. Nhờ ngoại giao khéo, Tổng-Lãnh-Sự McNamara được một nhân viên USAID, Cliff Frink, cung cấp hai LCM8.
Sau khi Phan-Thiết thất thủ, Vũng-Tàu bị đe dọa trầm trọng và các mặt trận Long-An, Tuyên-Nhơn, Trà-Cú, v. v… bùng nổ, Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng triệu tập đơn vị trưởng của những đại đơn vị Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi, đặt kế hoạch di tản để bảo vệ lực lượng trong trường hợp Vùng IV Chiến-Thuật bị tấn công. Trong phiên họp này, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Bá Trang, Tư-Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ, kiêm Tư-Lệnh Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211, tỏ vẻ không đồng ý với giải pháp di tản.
Ngày 27 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Thăng gặp Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư-Lệnh-Phó Quân-Đoàn IV. Hai vị sĩ quan cao cấp trao đổi tình hình chiến sự. Tướng Hưng cho Phó-Đề-Đốc Thăng biết rằng Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-Lệnh Vùng IV Chiến-Thuật, đã liên lạc với Bộ-Tổng-Tham-Mưu Saigon, nhưng không có một kế hoạch nào từ Bộ-Tổng-Tham-Mưu về việc rút xuống Vùng IV cả. Phó-Đề-Đốc Thăng hỏi dò Tướng Hưng về việc di tản. Tướng Tư-Lệnh-Phó Vùng IV Chiến-Thuật đáp: “Tôi không đi đâu cả. Tôi sẽ ở lại, bắn đến viên đạn cuối cùng rồi tôi sẽ tự sát!”
Ngày 28 tháng 4, lúc 3 giờ chiều, Phó-Đề-Đốc Thăng liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn-Khoa-Nam, trình bày những biến chuyển quân sự mới nhất. Tướng Nam bảo có vài chính trị gia và tướng lãnh đã bàn kế hoạch rút về Vùng IV, cố thủ. Nhưng dường như đó là những ý kiến cá nhân, chưa có sự đồng thuận nào của chính phủ trung ương. Tướng Nam cũng cho Phó-Đề-Đốc Thăng biết là Ông vừa liên lạc với Bộ-Tổng-Tham-Mưu, có thể, với vị Tổng-Tham-Mưu-Trưởng mới, chính phủ sẽ cố thủ để điều đình.
Chiều 28 tháng 4, một chiếc phà và hai LCM8 chở khoảng 30 người Mỹ, một số đông nhân viên Việt-Nam và Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Cần-Thơ, Francis T. McNamara, trên đường ra biển, bị Giang-Đoàn 25 Xung-Phong chận lại.
Được thông báo về sự việc này, Thiếu Tướng Hưng yêu cầu Phó-Đề-Đốc Thăng đến nơi, tăng phái vài giang đỉnh để kéo chiếc phà và hai LCM8 chở số người Việt Mỹ đó về lại Cần-Thơ.
Khi đến nơi, Phó-Đề-Đốc Thăng chỉ hỏi: “Có quân nhân Việt-Nam nào đào ngũ, trốn trên đó không?” Sau khi được xác nhận là “Không”, Phó-Đề-Đốc Thăng cho phép chiếc phà và hai LCM8 ra đi. Quyết định này của Phó-Đề-Đốc Thăng không có sự tham khảo ý kiến của Tướng Lê Văn Hưng hoặc Tướng Nguyễn Khoa Nam; vì hai vị Tướng này đang bay chỉ huy hành quân.
Chiều 29 tháng 4, một Thiếu-Tá tòng sự tại phòng hành quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon gọi cho Phó-Đề-Đốc Thăng, thông báo rằng Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon đã chuẩn bị rút! Tối, vị Thiếu-Tá này gọi lại và cho hay: Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon và nhiều chiến hạm đã rời Saigon!
Vì sự liên lạc từ trung ương đến các Vùng không còn chặt chẽ nữa, cho nên, đến giờ phút đó Phó-Đề-Đốc Thăng vẫn chưa biết Trung Tướng Vĩnh Lộc đã được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H.!
Tối 29 tháng 4, khoảng 8 giờ, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, gọi điện thoại mời Phó-Đề-Đốc Thăng về Saigon; nhưng Đại-Tá Tấn không cho biết lý do. Phó-Đề-Đốc Thăng bảo để Ông suy nghĩ, 11 giờ đêm gọi lại, Ông sẽ trả lời.
Ngay sau đó, Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi, ra lệnh “tự do vận chuyển”! Lệnh này được chuyển sang Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thông, Tư-Lệnh Lực-Lượng Trung-Ương kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 214, chứ không chuyển cho Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Bá Trang, Tư-Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ kiêm Tư-Lệnh Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211.
11 giờ đêm, Phó-Đề-Đốc Thăng cho tập họp tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, rồi thông báo quyết định của Ông là sẽ ra đi. Ai muốn đi, về đem gia đình vào; ai không muốn đi, xin giữ an ninh giùm cho những người đi.
Đến giờ phút đó Phó-Đề-Đốc Thăng cũng vẫn chưa nghe Đại-Tá Tấn gọi lại.
Khuya 29 rạng ngày 30 tháng 4, trong khi các LCM đưa Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng và Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi đang chạy trên sông Cửa Tiểu thì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam liên lạc truyền tin, muốn nói chuyện với Phó-Đề-Đốc Thăng; nhưng Phó-Đề-Đốc Thăng không trả lời.
Trong khi những sự việc kể trên xảy ra tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi thì tại Căn-Cứ Tiếp-Vận Bình-Thủy, tình thế vẫn yên, cho đến…
…Sáng 30 tháng 4, sau khi nghe lệnh Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng, Căn-Cứ Tiếp-Vận Bình-Thủy trở nên rối loạn.
10 giờ sáng, Đại-Tá Cơ-Khí Nguyễn Ngọc Xuân, Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận, tập họp nhân viên và tuyên bố tan hàng!
12 giờ trưa, Đại-Tá Xuân lấy một LCM đi ra hướng biển cùng với khoảng 20 PBR của Lực-Lượng Thủy-Bộ.
Sau đó, Tư-Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ kiêm Tư-Lệnh Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Bá Trang, từ một PBR đang chạy song song với LCM chở Đại-Tá Xuân, hỏi: “Đi làm chi, Xuân? Ở lại đi.” Đại-Tá Xuân im lặng. LCM vẫn tiến. Một lúc sau, Đại-Tá Trang cho lệnh PBR quay về.
Tại Bộ-Tư-Lệnh Trung-Ương, sau khi nhận lệnh “tự do vận chuyển” từ Phó-Đề-Đốc Thăng, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thông, Tư-Lệnh Lực-Lượng Trung-Ương, truyền lệnh này đến những đơn vị ở xa và thông báo một cách hạn chế cho nhân viên tại Đồng-Tâm. Đại-Tá Thông nhắn nhủ: “Ai không muốn đi thì cố giữ an ninh, trật tự giùm cho những người muốn đi.”
Sau đó, Đại-Tá Nguyễn-Văn-Thông cùng một số người xuống ba chiếc LCM8, đi ra sông Cửa Tiểu.

MẶT TRẬN TUYÊN-NHƠN

NHỮNG ĐỤNG ĐỘ NHỎ TẠI VÙNG IV SÔNG-NGÒI

Trong khi những biến cố trọng đại xảy ra tại Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng IV Sông-Ngòi và tại Bộ-Tư-Lệnh Lực-Lượng Trung-Ương thì những Lực-Lượng Hải-Quân đóng rải rác trong lãnh thổ Vùng IV Sông-Ngòi phải đương đầu với các đơn vị chủ lực của Việt-Cộng tại những mặt trận sau đây:

Xã Hòa-Thành, thuộc địa phận Cà-Mau
Tin tình báo của Tiểu-Khu An-Xuyên và Trung-Đoàn 32 Bộ-Binh tại Cà-Mau cho hay: Sau khi viên Phó-Xã-Trưởng xã Hòa-Thành bỏ hàng ngũ Quốc-Gia sang đầu thú với Việt-Cộng, Việt-Cộng đưa quân cấp tiểu đoàn về tấn công xã Hòa-Thành.
Xã Hòa-Thành cạnh bờ sông, cách Tiền-Doanh Yểm-Trợ khoảng ba cây số. Xã này là vị trí chiến lược của Tiểu-Khu An-Xuyên và cũng là nơi Bộ-Chỉ-Huy Liên-Đoàn 2 Thủy-Bộ cùng nhiều Giang-Đoàn Thủy-Bộ khác trú đóng.
Ngày 16 tháng 4, sau khi được yêu cầu, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 72 Thủy-Bộ, Đại-Úy Khai, đưa đoàn chiến đỉnh về xã Hòa-Thành. Sau khoảng 15 phút khởi hành, đoàn giang đỉnh bị Việt-Cộng xử dụng B40, B41 và các loại súng nhỏ tấn công.
Đoàn giang đỉnh phản công nhưng rất hạn chế vì hai bên bờ sông là nhà dân. Khi phát hiện Bộ-Chỉ-Huy Việt-Cộng đóng ngay cạnh bờ sông, đầu con rạch dẫn nước ra sông, đoàn chiến đỉnh phải xử dụng M79 và súng cối 81 ly bắn trực xạ.
Khoảng nửa giờ giao tranh, Bộ-Chỉ-Huy Liên-Đoàn 2 Thủy-Bộ cho tăng cường thêm vài chiến đỉnh nữa. Sau đó không lâu, quân V.N.C.H. làm chủ tình hình.

Rạch Sỏi, thuộc tỉnh Kiên-Giang
Lực lượng Hải-Quân vùng Kiên-Giang trong tháng 4 năm 1975 gồm những đơn vị sau đây:

  • Căn-Cứ Hải-Quân Kiên-An, đóng tại Xẻo-Rô.
  • Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi, đóng tại Rạch-Sỏi.
  • Toán Sưu-Tập 5, đóng trong Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi.
  • Liên-Đoàn 1 Thủy-Bộ

Liên-Đoàn 1 Thủy-Bộ, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân – ThiếuTá Phan Hữu Niệm, gồm có:

  • Bộ-Chỉ-Huy lưu động, đóng tại Rạch-Sỏi vào thời điểm này.
  • Giang-Đoàn 70 Thủy-Bộ, do Hải-Quân Thiếu-Tá Thùy Trinh Bạch chỉ huy.
  • Giang-Đoàn 71 Thủy-Bộ, do Hải-Quân Đại-Úy Dương Văn Tèo chỉ huy.
  • Một Monitor, một LCM6 và một Fom do Giang-Đoàn 29 Xung-Phong biệt phái.
  • Bốn PBR do Giang-Đoàn 53 Tuần-Thám tăng phái.

Ngoài nhiệm vụ phòng thủ an ninh những khu vực kể trên, Liên-Đoàn 1 Thủy-Bộ còn phối hợp hành quân với Tiểu-Khu Kiên-Giang, hai Chi-Khu Kiên-Thành, Kiên-An và hai Trung-Đoàn 32 - 33 Bộ-Binh.
Vì tình hình quân sự trong vùng trách nhiệm của Hải-Quân trong tháng 4 hơi sôi động hơn những tháng trước, cho nên, công tác của Hải-Quân lúc bấy giờ hơi nặng về:

  • An ninh Căn-Cứ Hải-Quân Kiên-An.
  • An ninh Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi.
  • An ninh những tiền đồn vòng đai Tiểu-Khu Kiên-Giang.

30 tháng 4, lúc 4 giờ sáng, Việt-Cộng tấn công Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi bằng B40, B41, súng cối và đại liên. Chỉ-Huy-Trưởng Tiền-Doanh Yểm-Trợ và nhiều nhân viên bị thương. Lập tức, các giang đỉnh tại bến được phái đến chận tuyến Bắc và tuyến Nam kinh Cái Sắn. Những giang đỉnh hoạt động xa được điều động về yểm trợ Căn-Cứ Hải-Quân Xẻo-Rô, đề phòng địch “dương Đông, kích Tây”.
Khi trận chiến đang tiếp diễn, Tiểu-Khu Kiên-Giang thông báo cho Hải-Quân biết rằng Việt-Cộng đột kích vào phi trường Rạch-Sỏi, lấy hai thiết giáp M113 và đang chạy về hướng Kiên-Tân.
Hai Alpha trang bị M72 được lệnh án ngữ đầu cầu phía Bắc Tiền-Doanh để ngăn hai chiến xa. Không có Pháo-Binh yểm trợ, vì Tiền-Doanh Yểm-Trợ tọa lạc ngay khu thị tứ.
Khoảng 7 giờ sáng, Hải-Quân đưa từng toán quân ra ngoài, đẩy lui địch. Địch rút lui khoảng một cây số, nhưng vẫn tiếp tục pháo kích vào đơn vị Hải-Quân.
10 giờ 30 cùng ngày, nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn 1 Thủy-Bộ, Hải-Quân Thiếu-Tá Phan Hữu Niệm, liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ và được chỉ thị theo lệnh địa phương – nghĩa là theo lệnh Bộ-Binh! Thiếu-Tá Niệm rất ngạc nhiên, nhưng vẫn liên lạc Tiểu-Khu. Tiểu-Khu cho biết lệnh Quân-Đoàn: Tử thủ!
Lúc này Việt-Cộng lại pháo kích nặng hơn. Ban tham mưu Hải-Quân đặt kế hoạch rút khỏi Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi vào lúc 6 giờ chiều. Nhưng sau đó, Việt-Cộng pháo kích dữ dội hơn, Hải-Quân quyết định rút sớm hơn dự dịnh.
Ba giờ chiều cùng ngày, tất cả đơn vị Hải-Quân thuộc Tiểu-Khu Kiên-Giang thực hiện kế hoạch di tản rất chu đáo.
Ngày 1 tháng 5, lúc 3 giờ chiều, Lực-Lượng Hải-Quân thuộc Tiểu-Khu Kiên-Giang đến Hòn Tre, neo phía Bắc Hòn Tre. Thiếu-Tá Niệm triệu tập cuộc họp khẩn cấp. Kết quả cuộc họp là không ai muốn tiếp tục đi. Ban tham mưu đi đến quyết định: Vào Hòn Tre – nơi Duyên-Đoàn 43 trú đóng – giao tất cả chiến đỉnh cho ban tiếp thu Việt-Cộng!

Kinh Chợ Gạo
Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.2, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Võ Văn Bảy, gồm Giang-Đoàn 21 Xung-Phong và Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận.
Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.2 có nhiệm vụ tuần tiễu, phục kích ngăn chận địch vượt sông, yểm trợ hải pháo cho các đồn, phối hợp hành quân với Tiểu-Khu và Chi-Khu, thuộc lãnh thổ Định-Tường và Kiến-Hòa.
Từ cuối tháng 3, đơn vị du kích 232 của Việt-Cộng tạo áp lực nặng trên quốc lộ 4, với mục đích cầm chân Sư-Đoàn 7, Sư-Đoàn 9 và Sư-Đoàn 22 – từ Qui-Nhơn vào, đang dưỡng quân – của Quân-Lực V.N.C.H.
Ngày 1 tháng 4, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.2, Bộ-Chỉ-Huy đặt tại Chi-Khu Chợ Gạo, được chỉ định phối hợp hoạt động trực tiếp với Chi-Khu Chợ Gạo để bảo vệ thủy lộ huyết mạch từ miền Tây về Saigon.
Ngày cũng như đêm, trong những cuộc hành quân giải tỏa chướng ngại vật do Việt-Cộng đặt trên kinh Chợ Gạo, hoặc tuần tiễu bảo vệ ghe thuyền, hay hành quân hộ tống những đoàn ghe, v. v… các đơn vị của Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.2 lúc nào cũng bị địch phục kích và tấn công bằng đủ loại vũ khí.
Ngày 14 tháng 4, Giang-Đoàn 21 Xung-Phong đang biệt phái cho Biệt-Khu Thủ-Đô, được Giang-Đoàn 45 Ngăn-Chận, do Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn Văn S. chỉ huy, đến thay thế.
Đêm 26 tháng 4, Việt-Cộng pháo kích vào Chi-Khu Chợ Gạo.
30 tháng 4, lúc 2 giờ sáng, sĩ quan trực trung tâm hành quân Bộ-Tư-Lệnh Lực-Lượng Trung-Ương – tức là Lực Lượng Đặc-Nhiệm 214 – thông báo Lực-Lượng chấm dứt chỉ huy, các đơn vị tùy nghi định liệu!

MẶT TRẬN TUYÊN-NHƠN

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, dưới sự chỉ huy cùa Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ, đóng cạnh Chi-Khu Tuyên-Nhơn, gồm hai đơn vị sau đây:

  • Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn.
  • Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Ttương Minh Hoàng.

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 chịu trách nhiệm những vùng sông rạch thuộc tỉnh Kiến-Tường (Mộc-Hóa) và Định-Tường.
Là một chướng ngại đáng kể đối với những đơn vị Việt-Cộng lâm le muốn đưa quân vào Long-An bằng đường thủy, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 luôn luôn sẵn sàng chấp nhận những trận thư hùng. Trong tất cả những trận đụng độ, phải kể đến những cuộc tấn công quy mô của Trung-Đoàn E1 Việt-Cộng vào Tuyên-Nhơn vào cuối năm 1974.
Đêm 6 tháng 12 năm 1974, Việt-Cộng tấn công dữ dội và chiếm được chợ Tuyên-Nhơn và nhiều đồn. Nhưng Việt-Cộng vẫn không thể xâm nhập vòng đai đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn; vì Chi-Khu đóng cạnh Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân.
Trong thời điểm này, Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ và Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám đều về Đồng-Tâm hội. Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo, phải túc trực tại Bộ-Chỉ-Huy Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh để điều hợp hành quân. Chỉ còn Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, là sĩ quan thâm niên hiện diện tại đơn vị.
Thiếu-Tá Tuấn điều động và chỉ huy phản công. Việt-Cộng rút lui, bỏ lại hơn 20 xác!
Đêm 7 tháng 12 năm 1974, để rửa hận, Việt-Cộng lại tấn công tàn bạo hơn, quyết dứt điểm Hải-Quân để tiến chiếm Chi-Khu Tuyên-Nhơn; nhưng vẫn bị Hải-Quân chống trả mãnh liệt. Việt-Cộng lại rút lui, bỏ lại 11 xác!
Sau đó, biết không thể dứt nổi Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Việt-Cộng vẫn cố giữ những địa điểm đã chiếm; đồng thời pháo kích dai dẳng vào đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn.
Không-Quân Việt-Nam được điều động đến và Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh cũng tham chiến, chận đường tiến quân của địch.
Ngày 11 tháng 12 năm 1974, trên đường viện binh, một Chinook chở một đại đội Trinh-Sát thuộc Sư-Đoàn 9 bị Việt-Cộng dùng SA7 bắn hạ. Rất nhiều thương vong!
Kể từ thời điểm này cho đến tháng 3 năm 1975, đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn luôn luôn bị áp lực của địch rất nặng nề.
Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Việt-Cộng lại tấn công hết sức quy mô và tàn bạo vào Chi-Khu Tuyên-Nhơn. Hải-Quân và quân bạn chống trả rất mãnh liệt. Cuối cùng, Việt-Cộng phải rút lui, để lại trận địa khoảng 200 xác! Vũ khí của địch bị tịch thu phải chuyển vận bằng GMC.
Sau chiến thắng tại Tuyên-Nhơn, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn được đề nghị thăng Trung-Tá tại mặt trận.
Ngày 23 tháng 4, Thiếu-Tá Tuấn về Saigon họp. Khi trở lại đơn vị, trên đường từ Cai-Lậy vào Mộc-Hóa để vào Tuyên-Nhơn, Thiếu-Tá Tuấn xử dụng GMC và bị Việt-Cộng pháo kích liên tục. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc truyền tin với người bạn cùng khóa, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, xin tiếp viện. Nhưng ăng-ten bị gãy, cuộc điện đàm đứt đoạn.
Tối 24 tháng 4 Thiếu-Tá Tuấn về đến Tuyên-Nhơn.
Ngày 26 tháng 4, Việt-Cộng dốc toàn lực tấn công Tuyên-Nhơn. Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 đi phép. Lực-Lượng Hải-Quân tại Tuyên-Nhơn bị pháo kích nặng nề. Tất cả hệ thống truyền tin bị hư hại. Thiếu-Tá Tuấn cố gắng liên lạc với Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cho Thiếu-Tá Tuấn biết rằng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cũng đang bị địch pháo kích dữ dội. Và, với giọng thất vọng, Ông nói với Thiếu-Tá Tuấn: “Thôi, mày báo cáo chi nữa. Hai đứa mình chịu trận cho đến chết thôi!” Cuộc điện đàm vừa đến đó, bỗng, một tiếng nổ lớn, mọi tần số liên lạc truyền tin đều bất khiển dụng. Cùng lúc đó, Việt-Cộng đứng thẳng người, vừa tràn vào phòng tuyến của quân V.N.C.H. vừa bắn chứ không còn ẩn núp nữa!
Tuy trận chiến khốc liệt như vậy, nhưng Tuyên-Nhơn vẫn đứng vững như tinh thần chiến đấu kiên cường của Người Lính V.N.C.H.
Sau khi không phá vỡ được phòng tuyến Tuyên-Nhơn, Trung-Đoàn E1 Việt-Cộng phong tỏa Tuyên-Nhơn bằng một hệ thống phòng không dày đặc và thả thủy lôi trên mọi thủy trình dẫn đến Tuyên-Nhơn. Sự tiếp tế cho Chi-Khu và Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 vô cùng khó khăn.
Tối 29 tháng 4, Tư-Lệnh-Phó Lực-Lượng Trung-Ương, Hải-Quân Đại-Tá Vũ Xuân An, từ Đồng-Tâm, liên lạc được với Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn và ra lệnh Thiếu-Tá Tuấn, bằng mọi cách, phải đưa đơn vị rời Tuyên-Nhơn.
Là một sĩ quan nặng tinh thần kỹ luật, Thiếu-Tá Tuấn triệu tập ngay cuộc họp khẩn cấp. Tất cả sĩ quan chỉ mới tề tựu được mấy phút thì Việt-Cộng tiến vào và dừng lại cách vòng đai căn cứ Hải-Quân một khoảng ngắn. Hai bên không nổ súng. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc, hỏi Đại-Tá An:”Có đi được không, Commandant?” Đến lúc đó Đại-Tá An mới cho Thiếu-Tá Tuấn biết là đã rã ngũ! Thiếu-Tá Tuấn lại liên lạc với Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo, để được xác nhận.
Hiểu rõ tình hình, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn – em ruột của Trung Tướng Lê Nguyên Khang Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến – nhân danh Tư-Lệnh Hải-Quân, tuyên bố giải nhiệm những đơn vị Hải-Quân trong vùng trách nhiệm; rồi Ông mở đường máu, đưa đoàn chiến đỉnh về Bến-Lức.
Khi đoàn chiến đỉnh vừa rời nơi đồn trú khoảng một cây số thì bị Việt-Cộng tấn công. Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận và Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám vừa phản công vừa xuôi theo sông Vàm-Cỏ.
Tối 30 tháng 4, khoảng nửa đêm, đoàn giang đỉnh về gần đến kinh Thủ-Thừa, Việt-Cộng bắn chỉ thiên, gọi đoàn giang đỉnh lại. Để tránh đổ máu, Thiếu-Tá Tuấn ra lệnh đoàn tàu cứ tiến, không được bắn trả, trừ trường hợp Việt-Cộng cố tình tiêu diệt mình thì mình mới tự vệ.
Thấy đoàn chiến đỉnh vẫn tiếp tục di chuyển, chiến xa Việt-Cộng hạ nòng súng bắn trực xạ. Nhiều nhân viên Giang-Đoàn chết và bị thương. Tức tốc, đoàn chiến đỉnh bắn trả.
Khi bắt được tần số truyền tin nội bộ của Hải-Quân, Việt-Cộng kêu gọi Thiếu-Tá Tuấn cho chiến đỉnh ủi bãi, lên bờ trình diện. Quá phẫn uất, Thiếu-Tá Tuấn đưa nòng súng ru-lô lên…
Khuya 30 tháng 4, rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975, trên sông Vàm-Cỏ-Tây, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn, đi vào lịch sử!


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG VII


KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ BỘ TƯ LỆNH HẢI QUÂN

& HẢI-QUÂN CÔNG XƯỞNG

Đầu tháng 3 năm 1975, các sĩ quan cao cấp Việt-Cộng họp tại 33 Phạm-Ngũ-Lão, Hà-Nội, với mục đích đẩy mạnh chiến dịch tấn công Nam Việt-Nam kể từ mùa Xuân Ất-Mão cho đến mùa Hè 1975. Quyết định của những bộ óc hiếu chiến trong cuộc họp này tạo nên những biến động dồn dập tại Cao-Nguyên Trung-Phần. Ban-Mê-Thuột là một “thí điểm” của địch, nhưng lại là một nguyên nhân sâu xa đưa đến “quyết định Cam-Ranh”, ngày 14 tháng 3 năm 1975, của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu!
Theo “quyết định Cam-Ranh”, Quân-Đoàn II âm thầm rút đi, cắt đất, nhường dân cho Việt-Cộng để thực hiện kế hoạch “Đầu bé đít to” (Light at the top, heavy at the bottom) của Tổng Thống Thiệu!
Trong khi Quân-Đoàn II và đồng bào từ Cao-Nguyên ngụp lặn trên tỉnh lộ máu Pleiku – Phú-Yên thì...
…Tại Saigon, một số sĩ quan trung cấp và giới chức các quân, binh chủng được triệu tập về Bộ-Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực V.N.C.H. để nghe Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân, giải thích về quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng-Tư-Lệnh Tối Cao Quân-Đội, về việc triệt thoái Quân-Đoàn II khỏi Cao-Nguyên.
Tất cả đều hiểu và tin tưởng vào kế hoạch đã được vạch ra. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cũng cho biết tình hình Quân-Đoàn I yên ổn và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng vẫn nắm vững tình hình miền Trung. Không ai nghe Tướng Khuyên đề cập đến vấn đề di tản Quân-Đoàn I!
Khi chiến trường miền Trung trở nên nguy ngập, Tư-Lệnh Hạm-Đội, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn, cùng Bộ-Chỉ-Huy nhẹ được phái ra miền Trung. Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, xuất thân khóa 8 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang, được chỉ định lo phần soạn thảo kế sách cho Đại-Tá Sơn.
Ban tham mưu Hạm-Đội gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó, Tham-Mưu-Trưởng và 5 Hải-Đội-Trưởng. Những vị dưới quyền Tư-Lệnh Hạm-Đội đều thực hiện kế hoạch do Trung-Tá Hùng soạn ra.
Theo kế hoạch do Trung-Tá Hùng soạn thảo, tất cả Hạm- Trưởng được yêu cầu giữ gìn máy tàu và tránh tối đa những sửa chữa, tu bổ lớn trong thời gian hành quân. Để chiến hạm được khiển dụng tối đa, các chu kỳ tiểu kỳ và đại kỳ cũng đều ngưng.
Phương thức điều hành: Cứ hai chiến hạm này đi công tác thì hai chiến hạm khác trở về. Chu kỳ công tác ngắn hơn thường lệ.
Vì quan niệm phải bảo vệ người thân của binh sĩ để binh sĩ có tinh thần chiến đấu, gia đình Hải-Quân được gián tiếp khuyến khích vào tạm trú tại cư xá Hải-Quân, trong vòng đai Hải-Quân Công-Xưởng và Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Cũng trong kế hoạch này, nếu Vùng III Chiến-Thuật phải rút xuống Vùng IV, thì Hải-Quân nên rút trước khi Việt-Cộng đủ thời gian và phương tiện bế sông Saigon.
Sông Saigon tuy hẹp nhưng sâu. Hải trình này tốt hơn sông Soài Rạp, nơi dễ bị mìn và những hàng đáy. Để đánh lạc hướng Việt-Cộng, Hạm-Đội sẽ yêu cầu hàng hải thương thuyền có những điểm neo trên sông Soài Rạp.
Dự trù một cuộc chiến lâu dài, Hải-Quân dự định sẽ tạo kho chứa đạn lộ thiên tại hai đảo Poulo Obi và Poulo Dama. Nhưng vì phương tiện bốc và dở hàng không có, Hạm-Đội ra lệnh tất cả Hạm-Trưởng phải nhận đạn tối đa. Một số chiến hạm không thực hiện được việc chở đạn, nhưng thực phẩm và nước ngọt đều được tất cả chiến hạm mang theo.
Điểm dự trù cho Hạm-Đội tập trung, trong trường hợp Saigon bị thất thủ, là đảo Poulo Dama. Lý do Hạm-Đội chọn đảo này vì Poulo Dama, cũng như An-Thới, là hai nơi Hạm-Đội có thể lấy nước ngọt được.
Kế sách này được giữ kín, ngay chính nhiều Hạm-Trưởng cũng không biết. Nhưng sau khi thực hiện được vài tuần lễ thì tin “bảo vệ Hạm-Đội khỏi bị pháo kích” “bay” ra, khiến nhiều người, nhất là Hạm-Trưởng, hoang mang.
Để trấn an, Tư-Lệnh Hạm-Đội có nhiều cuộc họp riêng rẽ với các Hạm-Trưởng, vào những lúc các Hạm-Trưởng đến báo cáo sau mỗi chuyến công tác. Ngoài ra, Tư-Lệnh Hạm-Đội cũng chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Văn Nhựt (Noel), Tham-Mưu-Trưởng Hạm-Đội, lập danh sách gia đình của tất cả nhân viên Hạm-Đội đang thi hành công tác xa và chọn một Dương-Vận-Hạm để đưa những gia đình này ra biển, trong trường hợp Hạm-Đội di tản.
Cũng trong thời điểm này, đài Truyền Tin Nhà-Bè – mà tổng đài điện thoại đặt trong hầm xi-măng của Pháp để lại – được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đặc biệt lưu ý và cho tân trang những hầm đó, với dự tính sẽ dời Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân về đó để điều động phản công, trong trường hợp Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân bị tấn công.
Ngoài những kế hoạch kể trên, Hải-Quân còn thực hiện hệ thống phòng thủ vòng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng. Vòng đai này chạy từ công trường Mê-Linh, theo Hai-Bà-Trưng, vòng xuống Lê-Thánh-Tôn, đến Cường-Để.
Hệ thống phòng thủ gồm có hai phần:

  • Góc Hai-Bà-Trưng và bến Bạch-Đằng cũng như góc Cường-Để, Lê-Thánh-Tôn hoặc Cường-Để và Thống-Nhất, Hải-Quân sẽ xử dụng Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm với hải pháo 76 ly và 40 ly. Súng 40 ly bắn nhanh nhất. Nếu chiến xa bắn một trái đạn thì chiến hạm có thể bắn đến 10 viên 40 ly. Nếu bắn trực xạ, hỏa lực mạnh của súng 40 ly rất hữu hiệu trong việc chống chiến xa. Chống Bộ-Binh tùng thiết có 12 ly 7 và 7 ly 62. Chỉ cần ba chiến hạm, một tại cầu A, một tại cầu Tự-Do và một ở cầu C hoặc câu-lạc-bộ-nổi là không một lực lượng nào có thể xâm nhập mặt đó được.
  • Mặt hông Hải-Quân Công-Xưởng là điều lo ngại nhất cho Hải-Quân; vì mặt này chỉ được chắn bằng một bức tường gạch. Để phòng thủ, Đại-Đội Kinh-Phòng của Hải-Quân Công-Xưởng được tăng cường và Người Nhái đặt mìn chống chiến xa ngay bên trong tường gạch và tiếp theo là hai lớp mìn claymore.  Người Nhái và Đại-Đội Kinh-Phòng bố trí dọc theo bức tường. Người Nhái sẽ dùng M72 trong trường hợp bị tấn công. Ngoài ra, nhiều giàn đại bác 20 ly đặt trên những ụ cao trong Hải-Quân Công-Xưởng thuộc hệ thống phòng không, nhưng cũng rất hữu hiệu để chống Bộ-Binh tùng thiết Việt-Cộng.

Mặt sông của Hải-Quân Công-Xưởng vẫn do Người Nhái canh phòng để chống đặc-công-thủy Việt-Cộng như từ trước đến nay. Và, với hỏa lực của những chiến hạm -- kể cả chiến hạm đại kỳ -- không thể nào Việt-Cộng có thể đột nhập được.
Vòng đai phòng thủ cũng được nới rộng tới Thảo-Cầm-Viên, do sinh viên sĩ quan Hải-Quân cùng Thủy-Quân Lục-Chiến án ngữ những yếu điểm bên này cầu Thị-Nghè. Số sinh viên sĩ quan Hải-Quân còn lại bố phòng trại Yên-Thế, nơi trung tâm hành chánh, sau Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Ngoài ra, Hải-Quân cũng thực hiện những lớp rào sắt kiên cố chung quanh Bộ-Tư-Lệnh và Hải-Quân Công-Xưởng để nếu Việt-Cộng vào Saigon mà Hải-Quân chưa rút lui kịp thì những bức rào đó sẽ làm chậm bước tiến của địch quân.
Hải-Quân cũng chú trọng đến biện pháp chận địch vượt sông Đồng-Nai. Trong trường hợp cần thiết, Người Nhái sẽ phá sập các cầu.
Kế hoạch phòng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng đồng thời cũng yểm trợ công cuộc phòng thủ Biệt-Khu Thủ-Đô được đặt dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô.


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG VIII

CHUYẾN RA KHƠI BI HÙNG

chienham

Vào giữa tháng 4, ông Erich Von Marbod, phụ tá Bộ-Trưởng Quốc-Phòng (Assistant Secretary of Defense) Hoa-Kỳ cùng phụ tá của Ông là ông Richard Lee Armitage, đến Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân bàn về vấn đề di tản Hải-Quân Việt-Nam. Ông Marbod và ông Armitage yêu cầu Hải-Quân soạn thảo một lệnh hành quân di tản, nhằm mục đích di tản tối đa Lực-Lượng Hải-Quân, gồm tất cả chiến hạm, chiến đỉnh, binh sĩ và gia đình.

Hải-Quân được yêu cầu đặt mìn phá những ụ nổi và cơ sở truyền tin của Hải-Quân. Hải-Quân từ chối, vì:
- Nếu phải di tản, Hải-Quân sẽ ra đi sau cùng; vì vậy, cơ sở truyền tin rất cần thiết cho Hải-Quân.
- Phá các ụ nổi sẽ gây nhiều tiếng nổ lớn và nhiều đám cháy, khiến đồng bào càng kinh hoàng thêm, tình trạng càng rối ren thêm.

Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, yêu cầu Hoa-Kỳ giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng để binh sĩ, gia đình và chiến cụ Hải-Quân không lọt vào tay Cộng-Sản. Ông Marbod và ông Armitage hứa sẽ lo tất cả nếu lực lượng Hải-Quân ra khỏi bờ 12 hải lý. Điểm tập trung là Côn-Sơn.
Một vấn đề đáng lưu ý là, cho đến giờ phút đó, Hải-Quân Việt-Nam, ông Marbod cũng như ông Armitage vẫn chưa nghĩ đến, hoặc đề cập đến, một giải pháp nào cho Hải-Quân sau khi Hải-Quân rời hải phận Việt-Nam.

Trong thời gian hai vị dân chính cao cấp của Hoa-Kỳ đang bàn tính kế hoạch di chuyển số lượng khổng lồ quân dụng ra khỏi Nam Việt-Nam thì, tại Xuân-Lộc, nhiều đại đơn vị Bắc quân do tướng Việt-Cộng Văn-Tiến-Dũng điều động từ Phan-Rang vào, gặp ngay sự chống cự mãnh liệt của Sư-Đoàn 18 Bộ-Binh V.N.C.H., dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê-Minh-Đảo.

Thấy khó phá vỡ phòng tuyến Xuân-Lộc, Tướng Văn Tiến Dũng liên lạc trung ương Đảng, xin triển hạn ngày kéo quân vào Thủ-Đô Nam Việt-Nam. Nhưng Bộ-Chính-Trị đảng Cộng-Sản lập lại quyết định: Phải tiến chiếm Saigon trước tháng 5 để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, 19 tháng 5!
Ngày 17 tháng 4, trong buổi họp sĩ quan các cấp tại câu-lạc-bộ-nổi, Khối Hành-Quân nhấn mạnh rằng kế hoạch di tản được thi hành tốt đẹp. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại nhiệm sở cho đến phút chót; nếu phải ra đi thì cùng đi.
Ngày 21 tháng 4, tuyến Xuân-Lộc vỡ! Thủ đô Saigon rúng động! Tiếp theo là sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Những biến chuyển đó khiến Hải-Quân phải có những quyết định cấp kỳ.
Ngày 25 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn cùng đi với một sĩ quan thân tín, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, đến cơ quan MAV (Navy Section) – trong khi Mỹ đang thiêu hủy tài liệu – để nhận mật mã liên lạc với Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.

Thời gian này, vài Hạm-Trưởng đưa gia đình lên chiến hạm khi chưa có lệnh khiến thủy thủ đoàn bất mãn. Bộ-Tư-Lệnh cho điều tra. Kết quả, hai Hạm-Trưởng bị cách chức. Một trong hai vị đó là Hạm-Trưởng HQ 800.
Cùng ngày, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh tiếp nhận các kho xăng tại Nhà-Bè; vì tất cả giám đốc đã bỏ đi. Lúc này, Liên-Đoàn 33 tại Nhà-Bè, do Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh chỉ huy, gồm các đơn vị:
- Giang-Đoàn 28 Xung-Phong
- Giang-Đoàn 30 Xung-Phong
- Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám
- Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi
Nhiệm vụ và vùng hoạt động của Liên-Đoàn 33 là tuần tiễu, giữ an ninh các thủy lộ quan trọng như sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp và quanh Saigon. Ở phần vụ này, suốt thời gian di tản, những đơn vị kể trên đã tịch thu vũ khí và rượu mạnh trên các thương thuyền từ miền Trung vào.
Ngày 26 tháng 4, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 800. Lúc này Hạm-Phó HQ 800 cũng vắng mặt bất hợp pháp. Trung-Tá Võ chỉ định một Đại-Úy tạm thời thay thế Hạm-Phó.
HQ 800 là loại LST lớn hơn và mới hơn các loại LST 500. HQ 800 được trang bị ba giàn “bô-pho” 40 ly đôi bắn tự động và nhiều súng phòng không, chưa kể một số 20 ly. HQ 800 dự trữ 200 ngàn lít xăng máy bay (JP4) và có chỗ đáp an toàn cho hai trực thăng.
Với dự định sẽ đưa bộ chỉ huy xuống HQ 800 để chỉ huy và điều động phản công lại Việt-Cộng, nếu trường hợp Saigon bị tấn công, Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh bổ sung nhân viên và trang bị HQ 800 một trăm phần trăm. HQ 800 neo tại Nhà-Bè và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân và Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chứ không trực thuộc Hạm-Đội.
Lúc này HQ 403 – sau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu – được lệnh trở về Saigon.

Thời điểm này mặt trận Tây-Ninh, Long-An và liên tỉnh lộ 15 bùng nổ dữ dội.
Sáng 27 tháng 4, trong khi Việt-Cộng tấn công cầu Tân-Cảng, đốt kho hàng PX của Mỹ và đặt súng máy bắn bừa vào dòng người tỵ nạn đang kéo về Saigon thì, tại phi trường Biên-Hòa, ông Richard Armitage đang vận dụng tất cả mọi phương tiện để di chuyển chiến cụ và nhân viên Việt-Nam ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng.
Trưa cùng ngày, ông Armitage từ Biên-Hòa về Saigon bằng trực thăng. Sau đó ông Armitage cùng ông Erich Von Marbod đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Hai Ông hối thúc Hải-Quân ra đi. Ông Armitage còn lo ngại rằng có thể chính phủ Dương Văn Minh sẽ giữ những sĩ quan cao cấp Hải-Quân để buộc Hải-Quân phải ở lại.

Chiều 27 tháng 4, tại tư dinh của Đại Tướng Minh, số 3 Trần-Quý-Cáp Saigon, trong phiên hội của Nội Các đang được thành lập, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân, tiếp xúc riêng với Tướng Minh để bàn luận về tình hình quân sự. Tướng Minh cho Phó-Đô-Đốc Cang biết tình hình vẫn chưa biến chuyển gì cả, vì “bên kia” chưa chấp nhận tiếp xúc với V.N.C.H. Phó-Đô-Đốc Cang đề nghị Tướng Minh nên chuyển Nội Các về Cần-Thơ, bỏ ngõ Saigon và ra lệnh tất cả đại đơn vị rút về Vùng IV Chiến-Thuật; vì hiện tại Tướng Minh không có tư thế nào để thương thuyết. Lực-Lượng Hải-Quân còn nguyên vẹn, Phó-Đô-Đốc Cang sẽ tận dụng tất cả Lực-Lượng Hải-Quân để chận sông Tiền-Giang và Hậu-Giang. Tướng Minh im lặng, không có một quyết định nào cả.
Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng cùng ông Richard Armitage bay thám sát tình hình phía Bắc Saigon.
Tình hình lúc này bi đát vô cùng, vì nhiều đơn vị đã rã ngũ, theo đoàn dân di tản, tràn về Saigon bằng đường bộ. Đến cầu Bình-Lợi, thấy một Giang-Đoàn vẫn còn tuần tiễu trong vùng trách nhiệm, Phó-Đề-Đốc Hùng ra lệnh cho Giang-Đoàn đó rút về hậu cứ.
Căn-Cứ Hải-Quân Long-Bình đang chuẩn bị “đón nhận” một cuộc tấn công quy mô của Bắc Quân. Dấu tích cuộc đột kích sáng nay của địch vào Căn-Cứ là xác của tên cảm tử Việt-Cộng còn nằm tênh hênh ngay cổng ra vào.
Sau khi thị sát, Phó-Đề-Đốc Hùng cùng ông Armitage trở về Saigon bằng xe Jeep. Và ông Armitage tường trình những sự việc đã thấy cho ông Van Marbod.
Cũng thời điểm này, tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn triệu tập một phiên họp gồm hầu hết Hạm-Trưởng để thông báo hạn chế về việc Hải-Quân sẽ tạm trú tại Côn-Sơn, chờ một biến chuyển thuận lợi sẽ quay vào chiến đấu. Đại-Tá Sơn chỉ thị tất cả Hạm-Trưởng mang theo đầy đủ gạo và lương khô, càng nhiều trứng vịt và cá khô càng tốt.
Không ngờ, cũng ngày hôm đó, Đại-Tá Sơn bị thuyên chuyển khỏi chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Người bạn cùng khóa với Ông, Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê, đang là Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Lưu-Động-Biển, nhận chức Tư-Lệnh Hạm-Đội.
Sự thuyên chuyển Đại-Tá Sơn là do sự hiểu lầm và sự thiếu liên lạc mật thiết giữa Đại-Tá Sơn và Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân về vấn đề di tản Hạm-Đội tránh pháo kích.

Chiều 28 tháng 4 năm 1975, lúc 5 giờ 15, Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh khi ngoài trời cơn mưa giông đột ngột trút xuống!
6 giờ chiều cùng ngày, Hải-Quân Công-Xưởng hoàn tất mấy vòng rào sắt cho hệ thống phòng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng.
6 giờ 20, phi công Việt-Cộng – do Trung-Úy phi công V.N.C.H. Nguyễn Thành Trung huấn luyện cấp tốc và hướng dẫn – lấy 5 chiếc phản lực Dragonfly A37 của Không-Quân V.N.C.H. bỏ lại Phan-Rang, bay vào, thả bom phi trường Tân-Sơn-Nhất!
Sau khi dội bom, 5 phản lực cơ bay ngang HQ 800. Hạm-Trưởng HQ 800 biết 5 phản lực đó vừa tấn công phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng Hạm-Trưởng HQ 800 tưởng là một biến cố chính trị nào đó đang diễn ra, cho nên Hạm-Trưởng HQ 800 chỉ ra lệnh nhiệm sở tác chiến chứ không ra lệnh bắn. Nhờ vậy 5 phi cơ đó mới bay thoát.

Tối 28 tháng 4, Phó-Tổng-Thống Nguyễn Văn Huyền, trong chính phủ Dương Văn Minh, đến thăm Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, rồi cả hai Ông đến thăm Tổng Thống Dương Văn Minh.
Trong lần tiếp xúc này, Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh về những biện pháp thích nghi cho tình hình hiện tại. Tổng Thống Minh cho biết không có giải pháp nào cả. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi thẳng: “Thưa Tổng Thống, nếu vậy, mỗi quân binh chủng phải tự quyết định lấy, phải không?” Tổng Thống Minh chán nản: “Ôi! Toa làm sao đó toa làm!”
Vì lẽ đó, Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân họp khẩn. Lúc này Phó-Đô-Đốc Cang có dự định đưa gia đình Hải-Quân ra Phú-Quốc lánh nạn để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Nhưng tình hình biến chuyển quá nhanh khiến ý định của Ông không thực hiện được.

Hải-Quân ra đi là một quyết định tập thể, gồm Phó-Đô-Đốc Cang và Tư-Lệnh các đại đơn vị, để bảo toàn Lực-Lượng Hải-Quân. Nhưng Phó-Đô-Đốc Cang cũng biết rằng, nếu quyết định đó sai lầm thì chính Ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử!
Sáng sớm 29 tháng 4, phi trường Tân-Sơn-Nhất bị pháo kích nặng nề. Không-Quân náo loạn. Hầu hết phi cơ A37 và F5 được cất cánh để tránh thiệt hại. Công cuộc di tản nhân viên của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ không thể tiếp tục thực hiện bằng phi cơ vận tải mà phải dùng trực thăng.
Ngay khi phi trường bị pháo kích, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó-Tổng-Thống trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đáp trực thăng riêng quan sát. Tướng Kỳ gọi Sư-Đoàn IV Không-Quân tại Cần-Thơ, ra lệnh tăng viện gấp bốn chiến đấu cơ với bom hạng nặng.
Khi bốn chiến đấu cơ đến không phận Saigon, Tướng Kỳ hướng dẫn bốn phi cơ đó phá hủy những giàn hỏa tiễn Việt-Cộng gần đài radar Phú-Lâm và phía Tân-Cảng.
Sau khi diệt xong các ổ trọng pháo của địch, Tướng Kỳ đáp trực thăng xuống Liên-Giang-Đoàn 33 tại Nhà-Bè lấy xăng. Lúc bấy giờ có cả trăm chiếc trực thăng đậu tại Nhà-Bè. Nhiều trực thăng và phi cơ đủ loại bay lượn trên không phận thủ đô. Tất cả liên lạc, xin chỉ thị của Tướng Kỳ. Tướng Kỳ bảo tất cả phi công bay ra Đệ Thất Hạm-Đội; nếu còn đủ nhiên liệu thì bay sang Thái-Lan.
Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên không phận thủ đô thì Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, ông Graham Martin, nhận được công văn khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975
Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa
Kính gửi: Ông Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam

Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ chỉ thị cho tất cả nhân viên cơ quan tùy viên quân sự Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4 năm 1975 để vấn đề hòa bình cho Việt-Nam được giải quyết sớm hơn.
Trân trọng kính chào ông Đại-Sứ.
Dương Văn Minh

Đại-Sứ Graham Martin phúc đáp:
Kính thưa Tổng Thống,
Tôi vừa nhận được văn thư đề ngày 28 tháng 4 năm 1975 yêu cầu tôi ra lệnh cho nhân viên Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Văn thư này gửi đến Ngài để xác nhận là yêu cầu của Ngài đang được thực hiện.
Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của các cơ quan liên hệ thuộc chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa để sự di chuyển nhân viên D.A.O. được hoàn thành tốt đẹp.
Trân trọng kính chào Tổng Thống.
Graham Martin
Đại-Sứ Hoa-Kỳ

Ngày 29 tháng 4, khoảng 10 giờ sáng, Tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân và thấy gần 30 sĩ quan cao cấp Không-Quân trong văn phòng Tư-Lệnh Không-Quân.
Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh, giải thích với Tướng Kỳ là người Mỹ muốn chuyển vận tất cả phi cơ phản lực sang Phi-Luật-Tân hoặc Thái-Lan. Vì vậy mọi người đang chờ để được sang cơ quan D.A.O. rồi ra đi.
Tướng Kỳ bay đến Bộ-Tổng-Tham-Mưu và thấy chỉ một mình Tướng Đồng Văn Khuyên đang điều động các mặt trận quanh Saigon. Lúc này, cựu Phó-Tổng-Thống Nguyễn Cao Kỳ mới biết Đại-Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., đã rời Việt-Nam ngày hôm qua!
Tướng Kỳ gọi tất cả đơn vị trưởng của những đại đơn vị quanh Saigon, nhưng không gặp ai cả. Tướng Kỳ đi xuống tầng dưới thì gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi nói cho nhau hay là vợ con của hai Ông đã được di tản từ tuần trước, Tướng Kỳ vừa bước đến trực thăng vừa nói với Tướng Trưởng: “Đi với tôi.” Rồi cả hai ông cùng một số sĩ quan thân tín của Tướng Kỳ lên trực thăng, bay ra Đệ Thất Hạm-Đội, đáp xuống chiến hạm USS Midway.
10 giờ 47 sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm hành quân Hải-Quân, hỏi đường sông từ Saigon ra biển còn an ninh hay không? Đại-Tá Đỗ Kiểm cho biết đến giờ phút đó Hải-Quân vẫn còn kiểm soát được sông Lòng Tào. Tướng Khuyên chào vội vàng và cúp máy.
Tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, sau khi liên lạc với Đại-Tá V. Không-Quân và được biết Không-Quân vẫn còn kiểm soát phi trường Tân-Sơn-Nhất, Khối Hành-Quân Hải-Quân tiếp xúc với các Hạm-Trưởng. Lệnh di tản dự trù sẽ ban hành khoảng 10 giờ tối 29 tháng 4.
Sau khi hội ý với các Hạm-Trưởng, Đại-Tá Đỗ Kiểm gọi Đại-Tá Ước, Tham-Mưu-Phó hành quân Không-Quân. Đại-Tá Ước cho Đại-Tá Kiểm biết rằng lúc nào Không-Quân không giữ được Tân-Sơn-Nhất thì sẽ cho Hải-Quân hay.
Trong khi đó, tại Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh cùng vài vị Tướng và các sĩ quan chờ hoài không thấy Mỹ liên lạc, đành đi bộ sang cơ quan D.A.O. xin được vào danh sách di tản.
Được báo cáo rằng nhóm sĩ quan Không-Quân Việt-Nam đều mang vũ khí cá nhân, Tướng Homer Smith ra lệnh cho Trung Tá Richard Mitchell tước vũ khí của nhóm sĩ quan đó và đưa tất cả vào một phòng nhỏ, canh gác cẩn mật trong khi chờ đợi di tản.
Cũng thời điểm này, tại Nhà-Bè, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên, Hải-Quân Đại-Tá Lê Quang Mỹ, cùng gia đình đến Căn-Cứ Hải-Quân xin di tản, nhưng lính gác không cho vào! Sau đó, một sĩ quan nhận diện được Ông và cấp cho Ông cùng gia đình một LCM để ra tàu lớn.
11 giờ sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên rời Bộ-Tổng-Tham-Mưu.
Không-Quân vẫn còn kiểm soát được phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng rất nhiều phi cơ trúng đại bác của Việt-Cộng.
12 giờ trưa, được báo cáo nhiều thương thuyền chạy ra, chạy vào sông Lòng Tào và sông Soài Rạp, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt chỉ thị Liên-Giang-Đoàn 33 mở cửa sông để thương thuyền ra vào tự do.
Cũng thời điểm này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, cả mấy ngàn người thuộc gia đình Hải-Quân di tản từ Vùng I và Vùng II vào, tạm trú trong vòng thành. Dọc các cầu tàu và bờ sông, tàu bè từ các tỉnh miền Trung kéo về neo ngổn ngang. Việt-Cộng phao tin là sẽ pháo kích một ngàn quả đại bác vào Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái và kho đạn Thành Tuy-Hạ vào lúc 6 giờ chiều 29 tháng 4.
Tin này loan ra khiến Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp, ra lệnh hai Tiểu Đội Người Nhái đang tuần tiễu bên kia sông trở về Căn-Cứ; đồng thời Ông cũng chỉ thị những LCU và Trục Vớt đón gia đình Người Nhái và gia đình Hải-Quân thuộc Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, đưa ra sông, chờ.
1 giờ chiều, Trung-Tâm Hành-Quân Không-Quân bỏ trống.

Những biến động dồn dập khiến Hải-Quân quyết định nên di tản vào khoảng 6 giờ chiều – thay vì 10 giờ đêm như đã dự định.
Ông Richard Armitage lại điện thoại về Trung-Tâm Hành- Quân Hải-Quân, thúc hối Hải-Quân ra đi.
Nhận thấy Hải-Quân không phải là một lực lượng chiến đấu thuần túy, bây giờ, Bộ-Tổng-Tham-Mưu và Trung-Tâm hành quân Không-Quân bỏ trống, Hải-Quân không thể ở lại chiến đấu đơn độc. Vì vậy, lệnh di tản được ban hành lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4!
Sau khi được thông báo là đến giờ Hải-Quân phải ra đi, rất nhiều binh sĩ ngồi bệt trong sân Trại Bạch-Đằng, ôm đầu, khóc! Một số binh sĩ khác vội vàng chạy đi.
Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân kêu gọi những ai không muốn ra đi, hãy giúp canh gác phía công trường Mê-Linh, giúp người ra đi được di tản trong trật tự. Bấy giờ không còn hệ thống chỉ huy nữa mà chỉ còn uy tín cá nhân mới có thể giúp điều động một khối nhân sự khổng lồ của một quân chủng tan hàng vào giờ phút chót.
Trên không, trực thăng bay ngập trời. Trên bờ, đồng bào và quân nhân đổ xô xuống bến Bạch-Đằng và Hải-Quân Công-Xưởng. Trên sông, một số chiến hạm đã vào vị trí và một số khác đang trên đường về. Súng bắt đầu nổ quanh vòng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Toán Nhảy-Dù có bổn phận canh gác kho đạn Thành Tuy-Hạ rời vùng trách nhiệm, sang sông, xin Hải-Quân cho di tản. Hải-Quân yêu cầu toán Nhảy-Dù phối hợp với Quân-Cảnh Hải-Quân lo trật tự phía công trường Mê-Linh, sau đó Hải-Quân sẽ giúp phương tiện cho họ di tản.
Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị tất cả sĩ quan cao cấp: Đến 7 giờ tối, nếu không có biến chuyển nào thay đổi cuộc diện, Hải-Quân sẽ ra đi.
5 giờ chiều 29 tháng 4, Tổng Thống Dương Văn Minh gọi Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh cần gì, Ông sẽ đến. Nhưng Tổng Thống Minh bảo thôi, đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đến cũng được.

Tại tư dinh, Tổng Thống Minh tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp lớn lao của Hải-Quân trong những cuộc triệt thoái dọc duyên hải. Tổng Thống Minh cũng hết lời khen ngợi tinh thần kỹ luật cao của Hải-Quân. Sau đó, Tổng Thống Minh nói qua về tình hình nghiêm trọng hiện tại và khuyên Phó-Đề-Đốc Thủy nên đưa Hải-Quân rút trong đêm, trước khi Việt-Cộng đủ thì giờ bế sông Lòng Tào. Phó-Đề-Đốc Thủy đề nghị Tổng Thống Minh đi luôn, nhưng Tổng Thống Minh từ chối – như đã từ chối lời đề nghị của của Tướng Charlie Timmes lúc sáng. Tổng Thống Minh bảo: “Thôi, tình thế này moa không đi được! Đời người có chết cũng chỉ chết một lần thôi!” Sau đó, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H., Tướng Dương Văn Minh, nhờ Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đưa Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Đại Tá Nguyễn Hồng Đài – rể của Tổng Thống Minh – và Tướng Mai Hữu Xuân theo Hải-Quân ra đi.

Sau khi từ giã Tổng Thống Minh, đi chưa đến chỗ chiếc Jeep đậu, Phó-Đề-Đốc Thủy đã thấy hai vị Tướng và một vị Đại-Tá ngồi sẵn trên băng sau chiếc Jeep của Ông rồi!
Lúc này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp triệu tập phiên họp khẩn cấp. Vào lúc 6 giờ chiều, buổi họp vừa tan thì Việt-Cộng pháo ngay vào Căn-Cứ Hải-Quân, đúng như tin họ đã loan!
Trên hệ thống truyền tin, Trung-Tá Hiệp điều động những LCU Trục Vớt đưa gia đình binh sĩ về Nhà-Bè, hướng ra biển. Chiếc LCU dành riêng cho Ông và toán Hải-Kích chiến đấu đậu ngay bồn dầu, suýt trúng đạn. Trung-Tá Hiệp ra lệnh chặt giây, tách bến.
Trong cảnh hỗn loạn như vậy Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi vẫn bình thản chạy qua, chạy lại giữa sông, phản pháo dữ dội.

Tại đường Cường-Để, từng thác người tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng. Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, đứng nhìn mọi người chạy loạn bằng đôi mắt lạnh lùng từ sau cánh cổng sắt của Hải-Quân Công-Xưởng.

Tại bến Bạch-Đằng, cầu B, ba chiến hạm đậu sát nhau, theo thứ thự, từ trong ra ngoài: HQ 1, HQ 3 và HQ 2.
Vì đậu ngoài cùng, HQ 2 là chiến hạm đầu tiên tách bến, chỉ với một nửa số nhân viên cơ hữu. Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, có mặt trên HQ 2.
Sau 7 giờ, chiến hạm đầy người và thấy tình hình không thay đổi, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành-quân Lưu-Động-Sông, ra lệnh HQ 3 tách bến. Lúc này trên HQ 3 còn có Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cựu Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải.
Theo lịch trình di tản, HQ 1 được chọn làm Soái Hạm, với cờ Tư-Lệnh trên kỳ đài, để đón Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy. Nhưng dân chúng tràn lên quá đông, gia đình Phó-Đô-Dốc Cang và gia đình Phó-Đề-Đốc Thủy không thể nhập hạm được.
Lúc này trên HQ 1 có cựu Tư-Lệnh Hải-Quân, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh và cựu Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu. Nhưng lại vắng mặt Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Địch Hùng.
Xuất thân khóa 4 Brest, Trung-Tá Hùng có nhiều đức tính mà ít sĩ quan cao nào áp dụng để chỉ huy. Chính một trong những đức tính ấy đã khiến Ông vắng mặt vào giớ phút chót.
Nguyên nhân sự vắng mặt của Hạm-Trưởng Hùng là, ngày 29 tháng 4, Hạm-Trưởng Hùng tuyên bố trước tất cả nhân viên HQ 1: Nhân viên nào có cấp bậc thấp nhất trên chiến hạm sẽ là người đầu tiên đưa gia đình lên chiến hạm. Người nào mang cấp bậc cao nhất trên chiến hạm sẽ đem gia đình lên chiến hạm sau cùng. Vì lẽ đó, trong khi những chiến hạm khác đã tuần tự tách bến mà Hạm-Trưởng HQ 1 đi đón gia đình vẫn chưa trở lại được!
Vì không biết Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh có mặt trong số người lúc nhúc trên sàn chiến hạm, và cũng vì Hạm-Phó HQ 1 không phải là một sĩ quan Hải-Quân nguyên thủy, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu lấy quyền sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh HQ 1 tách bến.
Trong khi đó, tại cầu A, Phó-Đô-Đốc Cang cùng gia đình và Phó-Đề-Đốc Thủy cùng gia đình – sau khi không thể lên được HQ 1, cả hai Ông và gia đình phải sang HQ 601 – thì bị kẹt trên cầu tàu; vì Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, không cho lên tàu.
Một lúc sau, nhận diện được hai vị sĩ quan cao cấp Hải-Quân, Đại-Úy Chánh cho Phó-Đô-Đốc Cang và gia đình cùng Phó-Đề-Đốc Thủy và gia đình nhập hạm.

Tối 29 tháng 4, lúc 10 giờ, HQ 11 không thể rời bến, vì HQ 504 đậu bên ngoài không chịu đi. Tuy hệ thống chỉ huy đã tan rã, nhưng quanh đài chỉ huy của HQ 504 lính gác cẩn mật, không ai tiếp xúc được với Hạm-Trưởng – một sĩ quan từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhập học và tốt nghiệp khóa 11 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Cuối cùng, một sự giàn xếp êm đẹp với thủy thủ đoàn của HQ 504 và chính những thủy thủ này tháo giây, giúp HQ 11 vận chuyển.
Vừa khi đó, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Xuân Phong lái xe Jeep xuống bến tàu, tự xưng là Tư-Lệnh Hạm-Đội, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại!
Từ HQ 11, Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm khuyến cáo Đại-Tá Phong nên rút lui trước khi những điều đáng tiếc có thể xảy ra. Đại-Tá Phong lặng lẽ lên xe, lái đi.
Đại-Tá Kiểm xử dụng đài-chỉ-huy HQ 11 như một trung tâm hành quân lưu động để điều động tất cả chiến hạm.
11 giờ đêm, giữa lúc kho xăng Nhà-Bè trúng đại bác, nổ tung, gây một đám cháy ngất trời thì trên hệ thống truyền tin của hầu hết chiến hạm người ta nghe tiếng Hải-Quân Đại-Tá Trần Bình Phú, Tham-Mưu-Phó nhân viên, từ trung tâm truyền tin Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, tự xưng là Tham-Mưu-Phó Hành-Quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh cho tất cả chiến hạm không di chuyển, chờ lệnh!
Đại-Tá Kiểm bảo Đại-Tá Phú im đi và Đại-Tá Kiểm ra lệnh đoàn tàu tiếp tục di chuyển theo kế hoạch đã định và không nhận lệnh bất cứ từ ai khác.
Trong khi kho xăng Nhà-Bè trúng đạn và phực cháy, Chỉ-Huy-Trưởng căn cứ Hải-Quân Nhà-Bè, Đại-Tá Cơ-Khí Lê Kim Sa họp tất cả sĩ quan; nhưng đến quá nửa đêm vẫn không quyết định được gì cả.
Tiếp đến, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, lên máy vô tuyến, tự nhận là Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại.
Đại-Tá Đỗ Kiểm lại lên tiếng cản ngăn Đại-Tá Phú. Nhưng điều tai hại là Đại-Tá Phú và Đại-Tá Tấn xử dụng máy của trung-tâm truyền tin Hải-Quân, có làn sóng mạnh, những đài xa như Poulo Obi hoặc Phú-Quốc nghe được; trong khi Đại-Tá Kiểm dùng máy của HQ 11 yếu hơn, vì vậy, chỉ những chiến hạm gần mới nhận được lệnh của Đại-Tá Kiểm. Đại-Tá Kiểm cũng liên lạc được với nhiều đơn vị sông và hẹn gặp nhau tại Côn-Sơn.
Hạm-Đội lầm lủi tiến và vô số chiến đỉnh, giang đỉnh chạy hai bên. Nhiều loạt súng của nhiều nhóm quân nhân căm phẫn từ trên bờ bắn lên tàu. Sau khi tắt hết đèn để khỏi lộ mục tiêu, tất cả chiến hạm được chỉ thị phải vớt đồng bào và quân bạn trên các ghe thuyền. Chiến đỉnh và giang đỉnh được khuyến khích cố chạy ra đến biển, sẽ được tiếp cứu sau.
Những chiến hạm ngoài khơi Vũng-Tàu được lệnh tập họp tại Côn-Sơn, chờ Hạm-Đội ra. Nhưng HQ 505 lại tách rời, chạy ra đảo Poulo Dama, mang theo hơn 2.000 người và hai trực thăng.
Thấy HQ 505 tách rời và không liên lạc vô tuyến với những chiến hạm khác, nhiều sĩ quan và đoàn viên nghi ngờ Hạm-Trưởng. Tất cả âm thầm đặt kế hoạch đối phó trong trường hợp Hạm-Trưởng quay tàu về. Trong khi đó, một nhóm khác lại muốn đem chiến hạm về lại Saigon. Tình hình nội bộ rất căng thẳng.
Lúc này, trên tần số truyền tin, không biết “phe” nào đã gọi đích danh nhiều Hạm-Trưởng, bảo đừng đi, hãy ở lại với chính phủ mới để được trọng vọng!
Từ HQ 3, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng bắt được liên lạc vô tuyến với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy từ HQ 601 của Đại-Úy Trần Văn Chánh. Đại-Úy Chánh được chỉ thị đưa Phó-Đô-Đốc Cang và Phó-Đề-Đốc Thủy sang HQ 3.
Từ giây phút đó, HQ 3 trở thành Soái-Hạm. Phó-Đề-Đốc Hùng phụ tá Phó-Đô-Đốc Cang chỉ huy Hạm-Đội. Hạm-Đội Việt-Nam được chia thành nhiều nhóm nhỏ; mỗi nhóm do một sĩ quan thâm niên hiện diện chỉ huy.

Trên đường ra biển, vì một máy bất khiển dụng, HQ 1 lủi vào bờ, mắc cạn! HQ 1 kêu cứu trên tất cả tần số truyền tin nhưng không một chiến hạm nào trả lời! Khi được báo cáo có hai vị Tướng Bộ-Binh và cựu Tư-Lệnh Lâm Ngươn Tánh trên chiến hạm, Phó-Đề-Đốc Châu mời Đề-Đốc Tánh lên đài chỉ huy và nhờ Đề-Đốc Tánh cố đem chiến hạm ra. Tất cả cơ khí viên được huy động xuống hầm máy để sửa chữa.
Vừa khi đó HQ 801 trờ tới. Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, cho chiến hạm vào kéo HQ 1. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Châu rời HQ 1, sang HQ 801.
Bằng vào nỗ lực vượt bực của các cơ khí viên và sự trợ lực hữu hiệu của HQ 801, HQ 1 được kéo ra. Sau đó, HQ 1 vừa chạy, các cơ khí viên vừa sửa chữa. Khi ra đến biển, hai máy của HQ 1 đều tốt cả.
Khuya 29 tháng 4, nhận thấy thời gian ấn định cho Mỹ triệt thoái khỏi Việt-Nam vừa đủ, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng xin chỉ thị Hà-Nội để tấn công Saigon.
Ngay sau khi thỉnh cầu được chấp thuận, Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh những đơn vị Pháo-Binh ngưng pháo kích vào thủ đô để Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào!

Trong khi Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào Saigon thì ngoài biển khơi, nhiều Hạm-Trưởng nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn – từ HQ 3 – và Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu – từ HQ 801 – điều động trên máy vô tuyến. Càng về sáng thì chỉ còn một mình Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy Hạm-Đội.

30 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Sông Ngòi, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, từ một PBR, lên HQ 502.
Lúc này HQ 406 chỉ còn chạy được một máy. Sau khi ra đến Vũng-Tàu, HQ 406 phải cặp vào HQ 800, sớt người sang. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Minh ra lệnh tháo ống cho HQ 406 chìm.
Nhiều ghe thuyền và tàu nhỏ vây quanh mấy chiến hạm Hoa-Kỳ, nhưng không ai được lên tàu.
5 giờ 30 sáng, Lữ-Đoàn Thiết-Kỵ 203 Việt-Cộng tiến vào Tân-Cảng, tìm đường về thủ đô.
Tổng Thống Dương Văn Minh phái Tổng Trưởng Thông-Tin Lý Quý Chung đến Camp David nhiều lần để tìm hiểu những yêu sách của phái bộ Việt-Cộng. Tổng Thống Minh cũng liên lạc với Thượng-Tọa Thích Trí Quang, nhưng Thượng-Tọa cũng tỏ vẻ bi quan, không thể giúp Tổng Thống Minh.
Ông Lý Quý Chung trình với Tổng Thống Minh rằng Việt-Cộng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu. Cả ông Chung và Thượng-Tọa Thích Trí Quang đều khuyên Tổng Thống Minh nên đầu hàng.
Đây không phải là lần đầu tiên Tổng Thống Dương Văn Minh nghe nói đến giải pháp đầu hàng. Trong mấy ngày qua, Pierre Prochand, một nhân viên tin cẩn của Đại-Sứ Pháp, và ngay cả Đại-Sứ Pháp, Mérillon, cũng đã cố thuyết phục Tổng Thống Minh nên chấp nhận điều kiện của Việt-Cộng!

Trong khi tại Saigon, Tổng Thống Minh bị thuyết phục phải đầu hàng thì, ngoài khơi, HQ 17 được chỉ thị ra Phú-Quốc cứu một xà-lan đầy người. Nhưng vì biết tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chẳng còn ai và cũng vì gia đình còn kẹt lại Saigon, Hạm-Trưởng HQ 17 không thi hành lệnh!
HQ 403 không thể đi xa vì thiếu nhớt, được Đại-Úy Xuân và Trung-Úy Tý đem về.
HQ 601 được chính Hạm-Trưởng Trần Văn Chánh đem về. Cùng về với HQ 601 còn có Hạm-Trưởng HQ 801.
HQ 502 chạy chậm vì chỉ còn một máy, vừa chạy vừa sửa. Nhiều người tình nguyện đứng xếp hàng từ đài-chỉ-huy xuống hầm lái để chuyền khẩu lệnh.
Liên-Đoàn Người Nhái chạy đến Nhà Bè thì dừng, chờ Trung-Tá Trịnh-Hòa-Hiệp. Lúc đó, Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái và toán Hải-Kích Chiến-Đấu lội qua nhiều con lạch và chạy bộ đến Nhà Bè, được một nhân viên đưa một hors-bord vào đón, đưa lên LCU. Từ LCU, Trung-Tá Hiệp điều động toán LCU ra biển. Ra đến biển, toán Người Nhái, tổng cộng khoảng 60 người, một số là học viên khóa 8, thấy HQ 502 vừa ra tới cửa sông, vội cập vào, xin nhập hạm.

Trong khi HQ 502 ì ạch tiến, bỗng một L19 bay đến và lượn vòng quanh chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp hơn, cách mũi tàu khoảng 50 thước và phi công phụ nhảy ra. Lập tức nhiều phao nổi được vất xuống. Biển tương đối êm, nhưng những lượn sóng do HQ 502 tạo nên đã đùa người phi công phụ về phía sau chiến hạm.
Biết không thể nào ông phi công phụ bơi theo chiến hạm được, Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, vòng vào người một áo phao và mang theo một phao nữa cho nạn nhân, rồi ông Kiệt nhảy xuống biển.
Sau khi vớt được ông phi công phụ, ông Kiệt cố bơi theo tàu. Nhưng vì nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến ông Kiệt bơi theo rất khó khăn.
Trong khi ông Kiệt gặp khó khăn trên triền sóng thì trên không trung, chiếc L19 đảo lại một vòng nữa và phi công nhảy ra. Thân người của ông phi công vừa chạm mặt nước liền bị hất nhẹ lên rồi chìm lỉm!
Thấy bạn gặp nạn, ông phi công phụ van nài ông Kiệt hãy bỏ ông ấy ra, đến cứu giùm người bạn. Nhưng, ông Kiệt lượng sức mình. Ông Kiệt chưa biết có thể đem được người phi công phụ lên chiến hạm hay không thì làm thế nào ông Kiệt dám vớt ông phi công nữa!
Cuối cùng, HQ 502 quay lại, vớt ông Kiệt và ông phi công phụ trong tiếng reo hò của hơn 3.000 người trên chiến hạm.

Trong thời gian này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, nguyên Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, từ một PBR, liên lạc truyền tin với các chiến hạm để tìm gia đình! Khi biết gia đình ở trên HQ 502, Phó-Đề-Đốc Phú lên gặp. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Phú lầm lủi trở xuống PBR, quay lại sông Soài Rạp, chờ những đơn vị Hải-Quân từ Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây ra.
Cũng thời điểm này, tại Saigon, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng V.N.C.H., Trung Tướng Vĩnh Lộc, tiếp Đại-Tướng Pháp – Vanuxem – tại tòa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi này, Đại-Tướng Vanuxem cho Trung-Tướng Vĩnh Lộc hay rằng Tổng Thống Dương Văn Minh đang soạn văn bảng ra lệnh quân đội V.N.C.H. buông súng đầu hàng!
Quá thất vọng, Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung – Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-trị – và Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận dùng xe có bảng sao dành cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tìm phương tiện di tản!
Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn, “Tân Tư-Lệnh Hải-Quân”, đích thân đưa Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Trung và Đại-Tá Nhận xuống một LCM Giang-Cảnh để ra biển.

Trong khi LCM Giang-Cảnh đưa Trung Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cuối cùng của Quân-Lực V.N.C.H. rời bến Bạch-Đằng thì, từ xa lộ Biên-Hòa, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng tiến vào thủ đô.
Đến ngã tư Hàng-Xanh, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng gặp sự kháng cự của Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi kéo quân qua Thị-Nghè, Sư-Đoàn 324 lại gặp sự ngăn chận của sinh viên sĩ quan Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến tại các yếu điểm ở sở thú.
10 giờ 20, sau khi lệnh đầu hàng được truyền đi trên đài phát thanh, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H., Đại Tướng Dương Văn Minh, nói với ký giả Pháp, Jean Louis Arnaud: “Hãy nói hộ với Đại-Sứ Mérillon rằng tôi đã làm tất cả những gì mà chính phủ Pháp đòi hỏi nơi tôi!”

Trưa 30 tháng 4, lúc Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng trương cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam lên kỳ đài dinh Độc-Lập cũng là lúc Hạm-Đội Hải-Quân vào đội hình, trực chỉ Côn-Sơn.

Chiều 30 tháng 4, HQ 2 được chỉ thị quay lại Phú-Quốc cứu người trên chiếc xà-lan mà HQ 17 từ chối lúc sáng.
Đến Phú-Quốc, lúc sắp cặp vào, vì thấy quá nhiều người và biết trong số đó có một số tù phạm, Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng ra lệnh chiến hạm tách ra, chạy thẳng!

Tối 30 tháng 4, HQ 615 đón Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung và những người rời Saigon lúc sáng, từ LCM Giang-Cảnh.
Sáng 1 tháng 5, HQ 615 bị hết dầu trong hải phận Vũng-Tàu. Lúc này Hạm-Đội đã đi xa. HQ 615 kêu cứu bằng bạch văn chứ không bằng ám từ truyền tin nữa! Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận hoàn toàn mất bình tĩnh, cứ ôm con khóc và tỏ ý muốn tự tử!
HQ 17 vừa mới đến nhập đoàn với Hạm-Đội lại được lệnh quay lui cứu HQ 615. Đến nơi, HQ 17 vớt khoảng 300 người từ HQ 615 và hơn 200 người trên HQ 470. Sau đó, cả HQ 470 và HQ 615 đều bị đánh chìm!
Khi đến Côn-Sơn, từ hệ thống truyền tin của HQ 1, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh tìm Hải-Quân Đại-Tá Phan Phi Phụng và chỉ định Đại-Tá Phụng làm Hạm-Trưởng HQ 1.
Lúc này HQ 801 cũng vừa đến Côn-Sơn. Vợ của Hạm-Trưởng HQ 801 không muốn di tản. Hạm-Trưởng HQ 801 muốn đem chiến hạm trở về Saigon. Nhưng nhờ sự giàn xếp của nhiều người, Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, nhận HQ 471 để đưa vợ con và những người không muốn ra đi, trở về Saigon. Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 801.
Riêng HQ 505 – sau khi vớt thêm hơn 200 người và giàn xếp cho số nhân viên muốn trở về được xuống ghe về – quay lại Côn-Sơn. Vô tình, Hạm-Trưởng HQ 505 bắt được liên lạc vô tuyến trên đài siêu tần số của những người vừa tiếp thu Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. Nhóm người này bảo Hạm-Trưởng HQ 505 đem chiến hạm về. Nhưng Hạm-Trưởng HQ 505 đã liên lạc được với Tiếp-Liệu-Hạm Vega, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ, và được Vega tiếp tế nước ngọt, thực phẩm. Sau đó, một chiến hạm khác, cũng thuộc Đệ Thất Hạm-Đội, hộ tống HQ 505 đi Subic Bay.

______________

HẢI VẬN HẠM LAM GIANG, HQ 402

MỘT HUYỀN THOẠI

chienhamSau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ miền Trung vào, HQ 402 vào tiểu kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng. Tình trạng kỹ thuật của HQ 402 đáng lẽ phải vào đại kỳ; nhưng vì kế sách của Bộ-Tư-Lệnh đã hoạch định, HQ 402 chỉ được tiểu kỳ thôi.
Vì tình trạng chiến hạm đang sửa chữa, cả Hạm-Trưởng lẫn Hạm-Phó đều vắng mặt. Quân số của HQ 402 chỉ còn khoảng 50 nhân viên, 10 Thiếu-Úy và một sĩ quan cơ khí – Trung-Úy Cao Thế Hùng.

Sáng 30 tháng 4, khoảng 6 giờ 30, lệnh gọi tất cả sĩ quan và nhân viên chiến hạm đang sửa chữa tại Hải-Quân Công-Xưởng tập họp tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội. Một sĩ quan cao cấp Hải-Quân tuyên bố rã ngũ.
Từ Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội trở lại HQ 402, với tư cách sĩ quan thâm niên hiện diện, Trung-Úy Cao Thế Hùng ra lệnh Thiếu-Úy Ninh, sĩ quan an ninh, bắn vỡ ổ khóa phòng Hạm-Trưởng, lấy tiền trong tủ sắt phát cho nhân viên để họ tùy nghi. Nhân viên ngậm ngùi rời chiến hạm, chỉ còn một hạ sĩ, một hạ sĩ nhất, một hạ sĩ quan tiếp liệu, vì nhà xa không về được.
Lúc này nhiều ngàn người đã tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng và tràn lên HQ 402. Sau khi tuyên bố tàu hư không đi được, Trung-Úy Hùng rời chiến hạm, đi về bến Bạch-Đằng.
Tại bến Bạch-Đằng, thấy xe tăng Việt-Cộng đang tiến vào công trường Mê-Linh và nghe nhiều tiếng súng, Trung-Úy Hùng trở lại HQ 402.
Sau khi trở lại, Trung-Úy Hùng thấy trong số người trên HQ 402 có Trung-Úy Thước, thuộc HQ 402; một số sĩ quan Hải-Quân khóa 19; Thiếu-Úy Hải, cùng ngành với Trung-Úy Hùng và rất nhiều Đại-Tá Bộ-Binh. Tất cả đều yêu cầu Trung-Úy Hùng sửa chữa HQ 402 để di tản.
Biết tình trạng hư hại nặng nề của HQ 402, Trung-Úy Hùng tự nghĩ một mình Ông không thể sửa được; Ông lén trốn lên bờ. Vừa cho chìa khóa vào cổ xe Jeep, Trung-Úy Hùng bị nhiều người kéo lại, đưa trở lại HQ 402.
Lần trở lại thứ hai này, Trung-Úy Hùng gặp giáo sư Triết của Ông, Cha Huynh, hiệu trưởng trường trung học Hưng-Đạo Saigon. Trung-Úy Hùng giải thích với Cha Huynh: 24 bình điện của chiến hạm đều hết hơi, cần charge. Mỗi bình rất lớn và nặng. Nếu được đưa lên Hải-Quân Công-Xưởng thì cũng mất khoảng một ngày mới charge được một bình! Thêm nữa, la bàn điện (Gyro Compass) ở đài-chỉ-huy đã bị tháo, đưa lên Hải-Quân Công-Xưởng sửa mấy ngày nay. Trung-Úy Hùng trình với Cha Huynh, với trách nhiệm tinh thần cho cả 2.000 người trên HQ 402, Cha Huynh nên yêu cầu mọi người rời chiến hạm vì chiến hạm bất khiển dụng và Việt-Cộng đang tiến vào ngõ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Sau khi Cha Huynh thông báo, mọi người đồng lòng ở lại, chết chung với HQ 402!
Trước tình thế như vậy, Trung-Úy Hùng đành phải huy động tất cả đàn ông, thanh niên phụ giúp. Ngại nội tuyến thảy lựu đạn xuống hầm máy, nhiều Đại-Tá phụ trách an ninh. Thanh niên hăng hái di chuyển những máy điện theo lời chỉ dẫn của Trung-Úy Hùng.
Sau nhiều giờ sửa chữa, một máy tàu nổ, nhưng dầu xịt ra tung tóe. Trung-Úy Hùng bảo mọi người lấy áo quần, khăn trải giường quấn quanh các ống dẫn dầu. Khi máy chính nổ, Trung-Úy Hùng tức tốc cho tắt tất cả hệ thống điện – trừ máy ép gió.
3 giờ chiều cùng ngày, máy tàu chạy êm. Trung-Úy Hùng bảo mọi người lấy tất cả phao trên những chiến hạm bỏ trống, đem sang HQ 402. Trung-Úy Hùng chọn một số thanh niên lực lưỡng – không cần biết họ là Hải-Quân hay không – để lái tàu; nhóm khác sắp hàng một từ đài-chỉ-huy đến hầm máy để chuyền khẩu lệnh.
Sau khi chỉ cho nhóm thanh niên bẻ tay lái sang phải, sang trái, Trung-Úy Hùng chạy lên, chạy xuống đài-chỉ-huy và hầm máy, tìm cách đưa chiến hạm ra sông.
Ra đến sông, Trung-Úy Hùng ra lệnh “tiến 5”. Lệnh được chuyền miệng từ hầm lái lên đài-chỉ-huy cũng mất cả một phút. Không hiểu những “nhân viên vận chuyển (!)” lái như thế nào mà phần sau của HQ 402 đâm vào câu-lạc-bộ-nổi của Hải-Quân! Nước chảy xiết! Trung-Úy Hùng vội thét lên: “phải 5”. Nhóm thanh niên lái tàu vặn tay lái như thế nào mà mũi chiến hạm đâm sang Thủ-Thiêm, làm hư hại một số nhà sàn! Cứ “phải 5”, “trái 5”, HQ 402 quay vòng vòng trước công trường Mê-Linh chứ không chạy thẳng được.
Ngại bị Việt-Cộng bắn, Trung-Úy Hùng bảo mọi người nằm sát xuống sàn chiến hạm, không để Việt-Cộng thấy. Đồng thời Trung-Úy Hùng lấy vạt áo trắng của một người nào đó, bảo mấy ông Hải-Quân cột vào giây cờ, kéo lên.
Trên công trường Mê-Linh, Việt-Cộng tưởng rằng HQ 402 từ xa về cho nên họ đưa tay vẫy chào. Trên chiến hạm, mấy ông Hải-Quân cũng giả vờ vẫy tay reo hò.
Sau gần một tiếng đồng hồ loanh quanh trước công trường Mê-Linh, cuối cùng HQ 402 từ từ “bò” thẳng.
Từ nhà hàng Majestic đến Nhà-Bè, HQ 402 vớt thêm rất nhiều người từ những ghe nhỏ chạy theo hai bên hông tàu.
Khoảng 5 giờ chiều, lúc đến sông Soài Rạp, HQ 402 gặp HQ 601 trở về. Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, bảo Trung-Úy Hùng đừng đi ngã Vũng-Tàu, Việt-Cộng chận rồi. Chiếc Việt-Nam Thương-Tín bị bắn lúc sáng.
Đang lúng túng ở ngã ba sông Soài Rạp, Trung-Úy Hùng thấy từng đoàn PBR và rất nhiều loại chiến đỉnh của Lực-Lượng Tuần-Thám, Lực-Lượng Trung-Ương, Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 và những đơn vị Hải-Quân khác chạy vòng vòng bên Bắc-Cầu-Nổi.
Biết Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 thuộc quyền chỉ huy của Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Thiếu-Úy Hải trên HQ 402 liên lạc vô tuyến tìm Đại-Tá Dõng, nhờ Đại-Tá Dõng đưa HQ 402 ra biển.
Từ LCM8 Đại-Tá Dõng lên HQ 402. Sau khi xem xét tình trạng HQ 402 và nghe Trung-Úy Hùng trình bày, Đại-Tá Dõng cũng phải lắc đầu, thán phục những người đã có công đưa được HQ 402 đến đây!
Sau khi lái thử, thấy HQ 402 cứ chạy được một chốc lại quay một vòng 30 độ – vì lệnh truyền miệng từ đài-chỉ-huy đến phòng lái mất thời gian tính – Đại-Tá Dõng không dám tự tin vào kinh nghiệm hải vụ của Ông nữa. Lúc này Trung-Úy Hùng lại huy động thêm một toán tác nước, vì nước ngập phòng máy.
Cũng thời điểm này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, bác sĩ Trần Quốc Dũng và rất nhiều quân nhân của những Lực-Lượng Hải-Quân nhập hạm.
Sáng 1 tháng 5, hì hục mãi, Đại-Tá Dõng cũng hướng dẫn HQ 402 ra đến biển. Một Destroyer, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội, thấy HQ 402 chạy một chốc lại quay 30 độ thì biết có sự bất thường. Destroyer này muốn đến yểm trợ HQ 402. Nhưng khi Destroyer vừa đến gần, gặp lúc HQ 402 quay, suýt đụng vào Destroyer, Destroyer hoảng, kéo còi bỏ chạy!
Bất ngờ mọi người ngạc nhiên thấy sự hiện diện của hai người Mỹ trên HQ 402. Nhiều người Việt uất, vì cho rằng Mỹ bỏ rơi Nam Việt-Nam, muốn giết hai người Mỹ này. Trung-Úy Hùng đưa hai người Mỹ lên phòng, bảo vệ họ. Đại-Tá Dõng nhờ hai người Mỹ này gọi Đệ Thất Hạm-Đội, xin tiếp cứu; nhưng hai người Mỹ này không biết tần số liên lạc của Đệ Thất Hạm-Đội.
Đại-Tá Dõng gọi Phó-Đô-Đốc Cang trình bày tình trạng của HQ 402. Cựu Tư-Lệnh Hạm-Đội, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn “lên” máy, bảo Đại-Tá Dõng cố đưa HQ 402 đến càng gần Côn-Sơn càng tốt, sẽ có chiến hạm khác trợ giúp.
Sáng 2 tháng 5, chiếc Destroyer hôm qua trở lại, liên lạc vô tuyến hỏi Đại-Tá Dõng về tình trạng HQ 402. Sau khi nghe Đại-Tá Dõng trình bày, Hạm-Trưởng Destroyer chuyển sang HQ 402 một toán chuyên viên kỹ thuật.
Sau 20 phút quan sát, toán chuyên viên trình lên Hạm-Trưởng Destroyer. Hạm-Trưởng Destroyer trình lên Đề-Đốc Tư-Lệnh Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.
Lệnh di chuyển tất cả mọi người khỏi HQ 402 được ban hành. HQ 2 được lệnh cặp sát bên hông HQ 402 để đồng bào và quân bạn chuyển sang.
Sau khi kiểm soát, rung chuông nhiều lần mà vẫn không thấy còn ai trên HQ 402, lệnh đánh chìm HQ 402 được thi hành.
3 giờ chiều cùng ngày, hai chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ bắn chìm Hải-Vận-Hạm Lam-Giang HQ 402.


HƯỚNG VỀ SUBIC BAY

Trong khi những biến chuyển trọng đại xảy ra cho Hải-Quân V.N.C.H. thì…
…Tối 29 tháng 4, ông Richard Lee Armitage rời Saigon bằng trực thăng và đáp xuống chiến hạm Blue Ridge thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.
Tại chiến hạm Blue Ridge, tuy không mang theo bất cứ một giấy tờ tùy thân nào, ông Armitage cũng vẫn yêu cầu được gặp Đề-Đốc Donald Whitmire, Tư-Lệnh Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương.
Khi gặp Đề-Đốc Whitmire, ông Armitage thỉnh cầu Đề-Đốc Whitmire liên lạc với Ngũ-Giác-Đài để được Ngũ-Giác-Đài xác nhận vai trò của Ông; đồng thời ông Armitage cũng nhờ Đề-Đốc Whitmire xin Ngũ-Giác-Đài cho phép trợ giúp Hải-Quân V.N.C.H.
Sau khi được Ngũ-Giác-Đài cho phép, ông Armitage trở lại Côn-Sơn với hai chiến hạm Hoa-Kỳ, gặp Hạm-Đội Hải-Quân. Tại Côn-Sơn, ông Armitage chuyển sang Soái-Hạm HQ 3 và hướng dẫn Hạm-Đội Việt-Nam tiến về Phi-Luật-Tân.
Thời gian này, Hạm-Đội Việt-Nam cũng chia thành nhiều nhóm nhỏ, do một sĩ quan thâm niên trong nhóm chỉ huy.

Dù Quân-Lực đã tan rã, dù Quê-Hương đã rơi vào tay kẻ thù, dù chưa ai biết mình sẽ đi về đâu và dù rất nhiều quân nhân Hải-Quân không đem gia đình theo được, v. v….truyền thống Hải-Quân vẫn được thể hiện cao độ trong thời gian bi hùng này! Nếu không có khối lượng đồng bào và quân bạn trên những chiến hạm, nếu không có những quân nhân Hải-Quân, ban ngày thi hành khẩu lệnh của cấp trên, ban đêm tựa boong tàu, âm thầm lau nước mắt, nhớ đứa con thơ, thương người vợ trẻ còn kẹt lại quê nhà thì không ai có thể biết được đây là Hạm-Đội của một Quân-Lực vừa được lệnh buông súng, hàng giặc!
Trong quân sử chưa có cuộc rút quân của bất cứ một đại đơn vị nào mà quân dụng được bảo toàn tối đa, kỹ luật được tôn trọng tuyệt đối và tình người được dâng cao chất ngất như Chuyến-Ra-Khơi-Cuối-Cùng của Hải-Quân V.N.C.H!
Khi đến Phi-Luật-Tân, chính phủ Phi lo ngại cho những trở ngại ngoại giao với chính phủ Việt-Cộng sau này, đã buộc Hạm-Đội Hải-Quân phải hạ cờ và tháo gỡ vũ khí!
Vài chiến hạm Hoa-Kỳ cặp vào chiến hạm Việt-Nam với dự tính thực hiện yêu cầu của chính phủ Phi; nhưng gặp ngay sự phản kháng mãnh liệt của thủy thủ đoàn.
Lý do Hạm-Đội Việt-Nam nêu ra là: Những chiến hạm này do Hoa-Kỳ viện trợ cho Hải-Quân Việt-Nam theo chương trình M.A.P. (Military Assistance Program). Theo những điều khoản trong chương trình đó, quân cụ nào V.N.C.H. không dùng nữa sẽ được hoàn trả lại cho chính phủ Hoa-Kỳ. Để thể hiện tinh thần đó, nay Hải-Quân Việt-Nam trao trả Hạm-Đội này lại cho chính phủ Hoa-Kỳ. Vì vậy, Hải-Quân Việt-Nam yêu cầu có một buổi bàn giao chính thức.
Yêu cầu của Hải-Quân Việt-Nam được chấp thuận. Đồng thời, Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng yêu cầu Hải-Quân Việt-Nam phải hóa giải, ngụy trang tất cả chiến hạm.
Tên và số hiệu của tất cả chiến hạm Hải-Quân Việt-Nam đều bị nhân viên Hoa-Kỳ dùng sơn xám xóa hết! Lúc gỡ cầu vai hoặc tháo gỡ cơ bẩm những ổ trọng pháo hay là vất vũ khí, đạn dược vào lòng đại dương, quân nhân Hải-Quân tưởng như chính họ đang tự hủy hoại bản thân của họ vậy!
Cờ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam trên kỳ đài HQ 1 được trao cho cựu Tư-Lệnh cuối cùng của Hải-Quân V.N.C.H., Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh.
Sau đó, trên mỗi chiến hạm Việt-Nam, một sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ lên nhận lại tàu.

Lúc cử hành lễ hạ Quốc-Kỳ V.N.C.H., tất cả quân nhân và đồng bào hát bản Quốc-Ca V.N.C.H. trong tiếng khóc uất nghẹn. Tiếng hát vang xa trong vùng biển lạ như nỗi đau đang len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn! Chiều tím thẫm trên đại dương mênh mông như báo trước những bất trắc không lường được trong cuộc đời của những kẻ mất Quê Hương!

Cũng thời điểm này, cuối chân trời, nơi Quê Hương ngập máu:
“…Và quả phụ mỏi chờ theo tóc bạc,
Vẫn nhắc anh vừa gợi lại tro tàn
Trong lò sưởi và trong trái tim.
Ôi! Cha Mẹ già chỉ còn lại một giấc mơ
Đã chết trong chuỗi ngày mong đợi trên bãi biển
Những người đi không về.”
(…Et vos veuves au front blanc, lasses de vous attendre,
Parlent encore de vous en remuant les cendres
De leur foyer et de leur coeur.
Oh! Que de vieux Parents qui n’avaient plus qu’un rêve,
Sont morts en attendant tous les jours sur la grêve
Ceux qui ne sont pas revenus.)
OCEANO-NOX của VICTOR HUGO.

 


Tài liệu lịch sử nầy được đăng lên trang web ĐHSPSG với hoài bão các thế hệ Hải Quân Việt Nam hiện tại và tương lai sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của các bậc đàn anh: giữ vững lãnh hải quê nhà để giang sơn Việt Nam muôn đời là của dân Việt.


CHƯƠNG IX

Phỏng vấn những nhân vật liên hệ đến

chuyến ra khơi cuối cùng của HQ VNCH

Để làm sáng tỏ vài ngộ nhận và cũng để bổ túc cho chương VIII của cuốn tài liệu này, sau đây là những cuộc phỏng vấn * ngắn dành riêng cho những nhân vật liên quan đến những ngày cuối cùng của chính thể Việt-Nam Cộng-Hòa.

* Sắp theo mẫu tự tên của nhân vật được phỏng vấn.

 

Ông CHUNG TẤN CANG

Nguyên Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân

Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết lý do Đô-Đốc trở lại Hải-Quân lần thứ nhì?
- Lý do tôi trở lại Hải-Quân lần thứ hai bao gồm cả quân sự lẫn chính trị.
Lý do chính trị là lúc đó có tin đồn ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ đảo chánh ông Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này tình hình thủ đô lộn xộn vì những sự chống đối của Liên-Đoàn Ký-Giả, Ni-Sư Huỳnh Liên, bà Ngô Bá Thành, Cha Trần Hữu Thanh, v. v…Uy thế chính trị của ông Thiệu suy giảm. Ông Thiệu nghĩ rằng tôi sẽ chỉ huy Lực-Lượng Hải-Quân chặt chẽ hơn và có thể là một hậu thuẫn đáng tin cậy để chống cuộc đảo chánh – nếu có.
Tôi nghĩ rằng hiện tình đất nước lúc bấy giờ ông Thiệu còn là nguyên thủ sẽ có lợi hơn cho quốc gia, vì giữ được sự liên tục của thế hợp hiến, hợp pháp của nền Đệ II Cộng-Hòa. Tôi hậu thuẫn ông Thiệu vì lý do đó chứ không phải vì cá nhân. Nếu nói về vấn đề cá nhân thì tôi thân cận với Thủ Tướng Khiêm nhiều hơn.

Thưa, lúc đó Đô-Đốc đang tòng sự tại đâu?
- Lúc đó tôi là Tư-Lệnh Biệt-Khu Thủ-Đô.

Thưa, từ khi về nhậm chức Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, Đô-Đốc có những thay đổi quan trọng nào trong nội bộ Hải-Quân hay không?
-Tuy có tin ông Kỳ muốn đảo chánh và một số sĩ quan Hải-Quân thân tín của ông Kỳ đang chỉ huy các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm, nhưng khi về lại Hải-Quân tôi không thuyên chuyển ai cả.
Sau khi tôi về lại Hải-Quân, chỉ có ba sự thay đổi là:

  • Thành lập Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99, giao cho Đại-Tá Lê Hữu Dõng chỉ huy; với mục đích là, nếu có đảo chánh, lực lượng này sẽ hỗ trợ cho những lực lượng khác chống đảo chánh.
  • Giao hệ thống chỉ huy tiếp vận cho các Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng trực tiếp điều động.
  • Sĩ quan an ninh Vùng chịu sự chỉ huy trực tiếp của các Tư-Lệnh Vùng.

Có nguồn tin nói rằng vào cuối tháng 4-1975, Đô-Đốc có ý định đưa Lực-Lượng Hải-Quân về Phú-Quốc, biến Phú-Quốc thành một “Đài-Loan Việt-Nam”, có đúng không, thưa Đô-Đốc?
- Lúc đó tôi có ý định đưa gia đình binh sĩ Hải-Quân ra tạm trú tại Phú-Quốc để binh sĩ yên lòng trở lại miền Tây chiến đấu chứ tôi không có ý biến Phú-Quốc thành một “Đài-Loan Việt-Nam”.
Lý do tôi không nghĩ đến điều đó là vì địa thế Phú-Quốc đối với Việt-Nam hoàn toàn khác hẳn Đài-Loan đối với Trung-Hoa lục địa.

Thưa, có một tướng lãnh nào hay một nhân vật chính trị nào đề bạt lên Đô-Đốc ý kiến đó hay không?
- Không. Chỉ có ông Lê Quốc Túy đưa ra một giải pháp chính trị, nhưng không thành.

Có nguồn tin cho rằng tối 27 tháng 4, Đô-Đốc họp với chính phủ của Tướng Dương Văn Minh; và chính phủ này yêu cầu Hải-Quân ở lại làm hậu thuẫn cho một chính phủ hòa giải đang được thành lập. Đúng như vậy không, thưa Đô-Đốc?
- Không. Tôi đề nghị ông Minh đưa nội các về Cần-Thơ; ông ấy không chịu. Vậy thôi.

Một nguồn tin khác nói rằng, lúc 5 giờ chiều 28 tháng 4, Tướng Dương Văn Minh gọi Đô-Đốc đi họp. Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân ngại Tướng Minh sẽ giữ Đô-Đốc luôn để làm áp lực, buộc Hải-Quân phải ở lại, cho nên Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy được cử đi thế. Có đúng không, thưa Đô-Đốc?
- Không. Chính tôi hỏi ông Minh cần gì, tôi sẽ lên. Ông Minh bảo thôi, để ông Thủy lên cũng được.

Thưa, Đô-Đốc có thể cho biết sự liên hệ giữa Đô-Đốc và ông Lê Quốc Túy – Cố Chủ-Tịch ủy ban vận động hải ngoại thuộc Mặt-Trận Thống-Nhất các Lực-Lượng Yêu Nước Giải-Phóng Việt-Nam – như thế nào không ạ?
- Khi tôi là Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, từ năm 1955 đến năm 1958, thì ông Mai Văn Hạnh là huấn luyện viên tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Không-Quân Nha-Trang. Chúng tôi quen nhau từ đó.
Khoảng cuối tháng 4-1975, ông Mai Văn Hạnh đưa ông Lê Quốc Túy đến giới thiệu với tôi. Trong lần tiếp xúc đó, ông Túy trình bày về ông Trần Văn Hữu. Theo ông Túy thì ông Hữu là một nhân vật có nhiều hy vọng để giàn xếp cho một cuộc ngưng bắn. Ông Túy nhờ tôi giúp ông ấy liên lạc với ông Dương Văn Minh để đem ông Hữu về, nhưng ông Minh không thuận.
Mặc dù ông Minh không hưởng ứng giải pháp của ông Hữu, ông Túy cũng cậy tôi nhờ Tòa Đại Sứ Pháp chuyển công điện gọi ông Hữu qua. Nhưng, lúc đó tại Tòa Đại Sứ Pháp chỉ còn một điện thoại viên chứ không còn ai có thẩm quyền cả.

Thưa, xin Đô-Đốc cho biết sự thân tình giữa Đô-Đốc và Đại-Sứ Pháp, Jean-Marie Mérillon?
- Cũng không thân tình gì lắm. Nhưng lúc đó ai nhờ tôi điều gì tôi cũng giúp, chỉ mong đem đến sự thuận lợi cho miền Nam thôi.

Thưa, sau 1975 ông Túy còn liên lạc với Đô-Đốc nữa hay không?
- Có. Khi gặp lại, ông Túy cho biết, đêm 29 tháng 4, sau khi Hạm-Đội rút khỏi Saigon, Tổng Thống Dương Văn Minh nói với ông Túy là làm thế nào để ông Minh gặp lại tôi. Ông Túy cho ông Minh biết rằng tôi đã đi, nếu muốn liên lạc phải dùng phương tiện quân đội.

Nếu vậy thì đêm 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Minh có liên lạc được với Đô-Đốc hay không?
-Tôi không nghe ông Minh gọi gì trên hệ thống truyền tin cả. Tôi chỉ nghe Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn gọi Hạm-Đội, nhưng Đại-Tá Tấn không nói lý do tại sao gọi Hạm-Đội trở về.

Xin Đô-Đốc cho biết ý kiến về lực lượng kháng chiến do ông Lê Quốc Túy thành lập.
- Khi thành lập Mặt-Trận Thống-Nhất các Lực-Lượng Yêu Nước Giải-Phóng Việt-Nam, ông Túy có liên lạc với tôi. Tôi đồng ý hợp tác và phái hai cựu sĩ quan cao cấp sang Thái-Lan để phối kiểm. Nếu sự việc đúng như những điều ông Túy đã trình bày thì tôi sẽ sang Thái-Lan.
Sau khi được hai sĩ quan trở về báo cáo, tôi nhận thấy việc làm của ông Túy không được nghiêm chỉnh lắm; vì ông Túy thường hành động theo ý kiến cá nhân, thiếu tinh thần tập thể.
Ông Túy xác nhận với tôi rằng Lực-Lượng Kháng-Chiến của ông ấy được Trung-Cộng yểm trợ. Tôi không chấp nhận. Mình đã chống Cộng-Sản Hà-Nội, nay không vì bất cứ một lý do gì mình lại kết hợp với một chế độ Cộng Sản khác.

Xin cảm ơn Đô-Đốc.

* Theo truyền thống Hải-Quân quốc tế, khi tiếp chuyện với cấp Tướng Hải-Quân mọi người đều dùng danh từ Đô-Đốc, dù vị Tướng ấy là Phó-Đề-Đốc hoặc Đề-Đốc.

_______________

Ông TRẦN VĂN CHƠN

Nguyên Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân
Năm 1990, khi cuốn tài liệu lịch sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 được xuất bản tại Hoa-Kỳ thì Cựu Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn vẫn còn bị Cộng-Sản Việt-Nam cầm tù.
Bài phỏng vấn này được thực hiện vào năm 1992, chỉ hai tuần lễ sau khi Cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Trần-Văn-Chơn đến Hoa-Kỳ theo diện H.O.

Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết một cách khái lược về tiểu sử của Đô-Đốc.
-Tôi được sinh ra trong một gia đình Nho Giáo, lớn lên tại Vũng-Tàu. Lúc thiếu thời tôi đã quen tiếng sóng vỗ đầu ghềnh, mắt đã quen với cảnh trời nước mênh mông. Tôi thường nô đùa trên bãi cát trắng, đồi dương xanh, rượt còng lúc đêm trăng, bắt óc khi ngày nắng, hoặc lên núi cao nhìn ra biển rộng, theo dõi những cánh buồm lặng lẽ tận chân trời.
Tôi thích viễn du từ thuở bé. Lớn lên tôi học trường Hàng-Hải Saigon và làm sĩ quan, theo tàu lướt sóng vượt trùng dương từ tuổi hai mươi. Ba mươi hai tuổi tôi theo học khóa I sĩ quan Hải-Quân – Khóa Đệ Nhất Thiên Dương. Ba mươi bảy tuổi tôi đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân. Ba mươi chín tuổi tôi theo học trường Hải-Chiến Hoa-Kỳ - U.S. Naval War College. Sau khi mãn khóa, tôi về Việt-Nam, làm việc tại Ban Nghiên-Cứu, Bộ-Quốc-Phòng; Trung Tâm Trắc-Nghiệm Khả-Năng Tác-Chiến, Bộ-Tổng-Tham-Mưu; và Lực-Lượng Tuần-Giang, Bộ-Tư-Lệnh Địa-Phương-Quân. Bốn mươi sáu tuổi tôi trở lại Hải-Quân đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, ngày 31-10-1966. Năm mươi bốn tuổi tôi hồi hưu vì quá hạn tuổi. Tôi bàn giao chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân cho Đề-Đốc Lâm-Ngươn-Tánh.

Thưa Đô-Đốc, có nguồn tin nói rằng, vào thời điểm sôi sục nhất của cuộc chiến, Đại Tướng Dương Văn Minh có ý mời Đô-Đốc tham gia vào nội các của Đại-Tướng. Đúng hay không, thưa Đô-Đốc?
-Tôi không thích chính trị, không hiểu biết nhiều về chính trị và tôi cũng không nghe ai nói với tôi về việc Đại-Tướng Dương-Văn-Minh mời tôi tham dự nội các của Ông ấy.
Khoảng năm 1955 tôi tham dự cuộc hành quân Đinh-Tiên-Hoàng tại miền Tây và cuộc hành quân Hoàng-Diệu tại Rừng-Sát với chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực, dưới sự chỉ huy hành quân của Đại-Tướng Minh; lúc đó Đại-Tướng Minh mang cấp bậc Đại-Tá Lục-Quân. Chúng tôi quen nhau từ đó và được Đại-Tướng đối xử trong tình chiến hữu thân thiết. Từ khi Ông làm Quốc-Trưởng cho đến lúc Ông nhận chức Tổng Thống, chúng tôi chỉ gặp nhau vào những cuộc họp, nhưng tình chiến hữu giữa chúng tôi không lúc nào bị sứt mẻ.

Thưa Đô-Đốc, sáng 25 tháng 4-1975, nhân lúc ghé tư dinh của Đô-Đốc để thăm Bà, tôi hân hạnh được gặp cả Đô-Đốc nữa. Hôm đó tôi có hỏi Bà và Đô-Đốc về ý định di tản. Cả Bà và Đô-Đốc đều khẳng định là Đô-Đốc và gia đình sẽ không đi đâu cả.
Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết lý do nào Đô-Đốc không muốn di tản?
- Khoảng 20 tháng 4 năm 1975, khi được tin Đô-Đốc Elmo Zumwalt nhờ tùy viên Hải-Quân dành máy bay cho tôi và gia đình tôi di tản sang Mỹ, tôi tức tốc về Vũng-Tàu rước Ba Má tôi vào Saigon để chuẩn bị rời Việt-Nam.
Lên đến Saigon, Ba Má tôi quá xúc cảm trước cảnh bi đát trong cuộc lui quân và di tản dân chúng từ miền Trung vào, Ba Má tôi rất buồn rầu và khổ tâm. Ba Má tôi không khuyên chúng tôi nên ra đi hay ở lại. Nhưng, qua sắc thái của Ba Má tôi, tôi thấy được rằng Ba Má tôi rất đau khổ khi phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Qua nhiều ngày đêm suy nghĩ, lưỡng lự và cầu nguyện, tôi quyết định cùng vợ con ở lại với Ba Má tôi. Tôi hy vọng rằng đức hạnh tu hành của Ba Má tôi có thể che chở cho gia đình tôi bất cứ trong trường hợp nào.
Ngoài lý do Cha Mẹ già yếu, tôi vẫn nhớ tôi đã từng là Hạm-Trưởng và vẫn giữ tinh thần Hạm-Trưởng mặc dù tôi đã về hưu. Truyền thống cao quý của Hải-Quân là Hạm-Trưởng không bỏ tàu. Vả lại, người ta thường nói “Sinh vi tướng, tử vi thần”, thì trường hợp tôi không di tản cũng là chuyện bình thường.

Thưa Đô-Đốc, có nguồn tin nói rằng Đại-Úy Trần Văn Chánh, con của Đô-Đốc, đưa chiến hạm trở về để đón Đô-Đốc mà Đô-Đốc và gia đình cũng vẫn không chịu di tản. Đúng hay không, thưa Đô-Đốc?
- Vâng. Đúng. Thời gian đó, Đại-Úy Chánh là Hạm-Trưởng HQ 601. Hôm 29 tháng 4 Chánh đưa Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Đô-Đốc Diệp Quang Thủy cùng gia đình của hai vị này từ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân ra chiến hạm lớn đang hoạt động ngoài khơi Vũng-Tàu. Hôm sau, Chánh đưa chiến hạm xuyên qua vùng bị địch chiếm, trở về Saigon, với ý định rước tôi và gia đình ra khơi. Nhưng vì gia đình tôi và tôi đã đồng ý ở lại với Ba Má tôi cho nên Chánh trở lại chiến hạm, họp thủy thủ đoàn và quyết định tháo ống cho chìm tàu rồi chia tay.
Lòng trung hiếu của Chánh làm tôi hãnh diện vô cùng. Và hành động của thủy thủ đoàn HQ 601 đã chứng tỏ Hải-Quân V.N.C.H. đã rèn luyện được tinh thần Vô Úy mãnh liệt trong hàng ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ.

Thưa, nếu Đô-Đốc vẫn còn là Tư-Lệnh Hải-Quân vào thời điểm cuối tháng 4 năm 1975, Đô-Đốc sẽ có những quyết định nào khác với những quyết định của Đô-Đốc Chung Tấn Cang hay không?
- Nếu tôi vẫn còn giữ nhiệm vụ điều khiển Hải-Quân có lẽ tôi cũng lui quân về miền Tây cố thủ, để củng cố lực lượng và rước gia đình binh sĩ. Nếu quân V.N.C.H. lâm vào cảnh thế cùng lực tận thì rút dần ra Phú-Quốc để chờ đợi sự can thiệp của Liên-Hiệp-Quốc. Nếu đồng minh của mình cũng vẫn không giúp mình trong cảnh khốn cùng thì đành phải ra đi để bảo toàn lực lượng như các anh em Hải-Quân đã làm mà thôi.

Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết những sự việc đã xẩy ra cho Đô-Đốc sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
- Sau khi chiếm được Saigon, Cộng-Sản kêu gọi sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H. ra trình diện. Vì đã giải ngũ, tôi không trình diện. Tôi lẫn tránh. Đến cuối tháng 6, Cộng-Sản lại ra thông cáo, buộc những sĩ quan đã giải ngũ cũng phải trình diện để đi học tập, đem theo tiền cơm một tháng.
Tôi trình diện tại ký túc xá Minh-Mạng. Tại đây tôi gặp Trung Tướng Dương Văn Đức và một số đông sĩ quan đã giải ngũ.
Hai ngày sau, Cộng-Sản chuyển Trung Tướng Đức và tôi đến Trung-Tâm Huấn-Luyện Quang-Trung cũ, do quân đội Bộ-Quốc-Phòng quản lý. Nơi đây tôi gặp lại tất cả Tướng Lãnh đã tập trung từ đợt trước. Chúng tôi ở đây gần một năm rồi bị chuyển bằng máy bay ra trại Yên-Bái, miền núi rừng Bắc Việt. Tại Yên-Bái, chúng tôi lao động khổ sai, không được gia đình thăm nuôi.
Hai năm sau, chúng tôi bị chuyển đến trại Hà-Tây (Hà-Sơn-Bình), do công an Bộ-Nội-Vụ quản lý. Thời gian này chúng tôi được gia đình tiếp tế bằng bưu kiện. Nếu không có sự tiếp tế của gia đình thì người tù cải tạo của Cộng-Sản Bắc-Việt không thể sống được!
Sau 5 năm tại trại Hà-Tây, một số sĩ quan cấp Tướng – trong đó có tôi – được thả về Saigon, sau cuộc hội nghị đầu tiên giữa Tướng Vessy và Cộng-Sản Việt-Nam.
Sau khi nhận và đọc giấy ra trại tôi mới biết “cáo trạng” của tôi:

  • Bị can tội: Thiếu Tướng Đề-Đốc.
  • Bị bắt ngày: 23-6-1975.
  • Bị án: Phạt tập trung cải tạo.
  • Tư tưởng: Chưa biểu hiện gì xấu.
  • Tham gia học tập: Khai báo còn chung chung.
  • Chấp hành nội quy: Chưa sai phạm gì lớn.
  • Xếp loại cải tạo: Trung bình.


Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết, với bí quyết nào mà sau thời gian dài bị tù đày trong nhiều trại cải tạo, Đô-Đốc vẫn giữ được phong thái ung dung, thanh thản và một cơ thể khỏe mạnh như vậy?
-Nhờ Trời ban phước cho nên sức khỏe của tôi cũng bình thường, da dẻ hồng hào, lưng còn thẳng, nhưng tóc đã bạc trắng. Con người không thể nào chống lại được sự tàn phá của thời gian; nhất là thời gian dài trong chốn lao tù Cộng-Sản. Nhiều người hỏi tôi thiền theo phương pháp nào mà được sắc thái đạo cốt tiên phong. Tôi không thiền theo phương pháp nào cả. Tôi thường nghe nói: “Tướng chuyển do tâm. Tâm trung xuất hình ư ngoại”. Có lẽ tâm mình thoải mái nên vẻ mặt thấy vui tươi, hớn hở chứ không có bí quyết gì đâu.

Thưa, sau khi Đô-Đốc ra tù và sau khi Đô-Đốc đến Hoa-Kỳ, thân tình giữa đại gia đình Hải-Quân đối với Đô-Đốc có khác xưa hay không?
-Sau khi tôi ra tù, rất nhiều bạn bè cũ trong nước đến thăm; nhất là anh em Hải-Quân, Tuần-Giang, Hàng-Hải Thương-Thuyền. Ở nước ngoài có các bạn Hải-Quân như Đào, Thăng, Quỳnh, Dõng, Thơ, Minh, Hưng, Tươi, v. v… viết thư thăm hỏi và gửi quà cho tôi. Thư của các bạn đầy tình thân.
em>Khi đến Mỹ, các bạn Hải-Quân ở San Jose đến đón tôi tại phi trường San Francisco và mở tiệc liên hoan mừng tôi thoát khỏi gông cùm Cộng-Sản. Những bạn Hải-Quân ở Los Angeles, San Diego, Virginia, Houston, Seattle, Chicago, v. v…cũng mở tiệc mừng tôi đã đến được xứ tự do.
Sau ba tháng tái ngộ cùng các chiến hữu Hải-Quân, tôi nhận thấy, mặc dù Hải-Quân V.N.C.H. đã “tan hàng” gần 17 năm, nhưng Tinh Thần Hải-Quân vẫn còn vững trong mỗi người lính Hải-Quân V.N.C.H.. Tình thân thiết “huynh đệ chi binh” khiến cho Hải-Quân kết đoàn với nhau rất chặt chẻ trong hệ thống tôn ti trật tự của một đại gia đình. Trước tinh thần này, trước tâm tư, nguyện vọng này, tôi tin tưởng rằng không sớm thì muộn con cháu của chúng ta sẽ hợp lực cùng chúng ta hoặc thay thế chúng ta khôi phục lại quân chủng Hải-Quân.

Thưa, Đô-Đốc có ý định viết hồi ký hay không?
-Nếu viết hồi ký về Hải-Quân V.N.C.H. thì, tôi nhận thấy, cuốn Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh và những bài trong đặc san Lướt Sóng, nhiều anh em Hải-Quân đã ghi lại những hoạt động của Hải-Quân một cách trung thực. Những quyển sách này có thể dùng làm tài liệu để bổ sung cho quyển Lịch Sử Hải-Quân V.N.C.H., trong đó Ban Lịch Sử của Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã ghi rõ những hoạt động hằng ngày của Hải-Quân, từ tổ chức cho đến hành quân.
Nếu viết hồi ký cho riêng tôi, tôi nghĩ từ trước đến nay công việc của tôi làm không có gì đặc sắc. Mọi việc đều do các chiến hữu đảm đương và hoàn thành. Tôi chỉ có ý kiến, xem xét, kiểm tra, đôn đốc. Thêm nữa, trí nhớ của tôi không được minh mẫn lắm. Hồi tưởng lại những sự kiện đã trải qua hằng hai ba mươi năm là một việc khó nhọc đối với tuổi già này. Viết hồi ký cũng cần có tài liệu chính xác để chứng minh những dữ kiện. Tôi chưa có phương tiện để làm việc này.

Thưa, Đô-Đốc nghĩ như thế nào về cuốn Chân Dung Tướng Ngụy?
-Tác giả quyển Chân Dung Tướng Ngụy là một người Cộng-Sản. Mà người Cộng-Sản thì không bao giờ nói tốt cho một người không Cộng-Sản. Đó là nguyên tắc của họ. Vì vậy, trong cuốn Chân Dung Tướng Ngụy, tác giả dùng những lời lẽ không chính đáng để bôi nhọ bất cứ nhân vật nào thuộc chính quyền và Quân-Đội V.N.C.H.

Xin cảm ơn Đô-Đốc.

____________

Ông VĨNH LỘC

Nguyên Trung Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng
Cuối Cùng của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

Xin Trung Tướng vui lòng cho biết: Tháng 4 năm 1975, Trung Tướng nhậm chức Tổng-Tham-Mưu-Trưởng ngày nào và sắc lệnh ấy do ai ký?
-Sắc lệnh cử tôi vào chức vụ Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chỉ được văn phòng Phủ Tổng Thống thông báo cho tôi – vị sĩ quan thâm niên nhất còn tại ngũ – vào chiều 29 tháng 4 -1975 chứ tôi chưa hề thấy cho nên không biết ai đã ký sắc lệnh đó.

Thưa, sau đó có phải Trung Tướng chỉ định hoặc bổ nhiệm Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, vào chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân hay không?
- Theo quân luật, bất cứ thời bình hay thời chiến, sĩ quan nào cấp bậc cao nhất hay thâm niên nhất, đương nhiên tạm quyền chỉ huy đơn vị mà đơn vị trưởng của đơn vị đó tử trận, đào nhiệm hay vắng mặt. Đại-Tá Tấn ở vào trường hợp này.

Thưa, “nắm” chức Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H. vào giờ phút nguy ngập nhất của cuộc chiến, Trung Tướng có kỳ vọng nhiều vào Hải-Quân hay không?
- Lúc đó Không-Quân đã bỏ đi hết rồi; chỉ còn Hải-Quân là có đủ phương tiện để làm được một cái gì cho đất nước. Tôi ước mơ được bàn bạc với Đô-Đốc Cang để Lực-Lượng Hải-Quân tập trung tại Phú-Quốc và Côn-Sơn, làm thành hai đầu cầu, cùng với Cần-Thơ, tạo thành một tam-giác-sắt có thể đón nhận làn sóng di tản để khởi đầu một cuộc kháng chiến hữu hiệu và lâu dài.

Thưa, lúc đó Trung Tướng có liên lạc với Đô-Đốc Cang hay không?
- Chiều 29 tháng 4, tôi muốn gặp Đô-Đốc Cang để bàn về phương cách đưa chính phủ hoặc những nhân vật đầu não của chính phủ về miền Tây; nhưng không hiểu tại sao cuộc gặp gỡ đó không thực hiện được.

Thưa, lúc đó Trung Tướng có nghĩ đến phương cách khác hay không?
-Tối 29 tháng 4, tôi gọi Không-Quân, xin phi cơ chuyển chính phủ xuống miền Tây, với hy vọng là mình có thể cầm cự để thương thuyết với Việt-Cộng. Nhưng…(Trung Tướng Vĩnh Lộc lắc đầu, không nói tiếp!)

Khi có ý định đưa chính phủ xuống miền Tây, Trung Tướng có liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không ạ?
-Khoảng 7 giờ 30 hay 8 giờ tối 29, tôi điện thoại cho Tướng Nam. Tôi mong được trao danh dự Quân-Đội vào tay Tướng Nam; vì, với tư cách Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đội, nhưng tôi không còn bất cứ phương tiện nào trong tay để xử dụng cả. Giọng Tướng Nam rất bình thản: “Đàn anh đã giao cho thì đàn em xin nhận. Tôi sẽ cố gắng hết sức để làm được công việc đó.”
Theo tôi, với ba Sư-Đoàn Bộ-Binh – Sư-Đoàn 21, Sư-Đoàn 7 và Sư-Đoàn 9 – cùng với Không-Lực tại Bình-Thủy và Lực- Lượng Hải-Quân, Tướng Nam có thể giữ vững Vùng IV trong một thời gian, chờ chính phủ xuống…(Trung Tướng Vĩnh Lộc lại lắc đầu, tiếp) Tướng Nam là nạn nhân của kỷ luật Quân-Đội!

Xin Trung Tướng vui lòng cho biết những diễn tiến chung quanh Trung Tướng kể từ khi Trung Tướng nhậm chức Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cho đến khi Trung Tướng đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân để được di tản.
-Tôi đến tòa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu vào trưa 29. Tòa nhà trống trơn, không một bóng người. Những phương tiện liên lạc và chỉ huy không còn nguyên vẹn.
Lúc đó tôi không điên rồ đến độ nghĩ rằng mình sẽ lật được thế cờ. Nhưng tôi đã cố gắng hết sức mình, vận dụng mọi khả năng và phương tiện để mong một biến chuyển mới lạ thuận lợi cho Quân-Đội V.N.C.H. và Quê Hương.
Sau khi hay tin Bộ-Tổng-Tham-Mưu có người phụ trách, những sĩ quan cấp nhỏ thuộc Đại-Đội ứng chiến tại Bộ-Quốc-Phòng, các đơn vị quanh vùng quân khu thủ đô như Dĩ-An, Gò-Vấp, v. v…đã liên lạc về Tổng-Tham-Mưu, xin chỉ thị nhập vào đơn vị tác chiến nào gần nhất để tiếp tục chiến đấu. Một đơn vị Biệt-Kích Dù xin tăng cường chiến xa. Vài đơn vị Biệt-Động-Quân xin thêm đạn và mìn chống chiến xa, v. v…Một pháo đội 105 ly, không biết thuộc đơn vị nào, “trôi dạt” vào sân cờ Bộ-Tổng-Tham-Mưu cho nên được giao trách nhiệm phản pháo quanh phi trường Tân-Sơn-Nhất. Giọng nói của họ rất cương quyết và tinh thần chiến đấu rất cao, khiến tôi nghĩ rằng đó là sự báo hiệu của một phép lạ!
Với mục đích khơi động và kêu gọi tinh thần ái quốc, tinh thần kỷ luật của binh sĩ thuộc tất cả quân, binh chủng, tôi liên lạc với Tư-Lệnh Không-Quân và Tư-Lệnh Hải-Quân để hai vị đó cùng tôi lên đài truyền hình. Nhưng hai vị ấy không còn tại nhiệm sở nữa cho nên tôi phải đơn độc ra nhật lệnh kêu gọi binh sĩ!
Tôi phải dùng đến khí giới cuối cùng là Tâm-Lý-Chiến, mong những quân nhân còn đang chiến đấu hãy cố ngăn bước tiến của địch để chính phủ đủ thời gian tìm một lối thoát bằng đường lối chính trị.
Khoảng 9 giờ tối, Đại Tướng Vanuxem, thuộc quân đội Pháp, điện thoại trực tiếp cho tôi, xin tự đặt dưới quyền chỉ huy của Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H. và tình nguyện làm tất cả những gì mà Quân-Đội V.N.C.H. muốn Ông làm trong giờ phút đó.
Yếu khu Tân-Sơn-Nhất xin phi cơ không yểm để ngăn chận một đoàn quân xa Việt-Cộng từ phía Tây Bắc. Căn cứ Bình-Thủy gửi lên một phi tuần. Nhưng sau mười phút phi tuần ấy bay trên tòa nhà chính mà Bộ Tổng-Tham-Mưu vẫn không thể tìm được sĩ quan điều không, đành cho lệnh phi tuần đó trở về Bình-Thủy. Tuy nhiên, sự hiện diện của các khu trục cơ V.N.C.H. trên vòm trời Saigon lúc đó như đã tẩy sạch bầu không khí ô nhiểm và hoen ố do năm phi cơ Việt-Cộng lấy cắp tại Phan-Rang, rồi do Trung-Úy Không-Quân V.N.C.H. Nguyễn Thành Trung huấn luyện và hướng dẫn, về đại náo phi trường Tân-Sơn-Nhất vào chiều hôm trước. Lúc đó, Không-Quân V.N.C.H. đã bỏ lỡ cơ hội nghìn năm, gửi phi cơ săn giặc F5 lên nghênh chiến.
Sau đó, nhờ tìm được vài sĩ quan truyền tin, Bộ-Tổng-Tham-Mưu liên lạc với Tướng Nguyễn Khoa Nam. Sau khi biết rõ tình hình thủ đô, Tướng Nam rất bình tĩnh, nhận trọng trách trước Quân-Đội và lịch sử.
Sáng 30 tháng 4, Trung-Tâm Huấn-Luyện Quang-Trung báo cáo không ngăn chận nổi đoàn quân xa Bắc Việt từ hướng Tây Bắc lấn sang. Dĩ-An cũng cho biết một đơn vị đã bị địch xâm nhập. Những đơn vị khác cũng lần lượt báo cáo là không còn chống đỡ được nữa!
Đại Tướng Vanuxem vào tận tòa nhà chính báo tin rằng Tổng Thống Dương Văn Minh đang soạn bản văn đầu hàng! Đại Tướng Vanuxem nhờ tôi liên lạc để Ông được gặp Tướng Minh, tìm cách ngăn chận hành động này. (1)
Sau khi nghe Đại Tướng Vanuxem cho biết Tổng Thống Minh sẽ đầu hàng, tôi thấy tôi không được Tổng Thống Dương-Văn-Minh hỏi ý kiến về quyết định này và như vậy có nghĩa là nhiệm vụ chiến đấu của tôi xem như không còn! Tôi cùng với Trung Tướng Trần Văn Trung, Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-Trị và Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tìm phương tiện di tản!

Xin Trung Tướng vui lòng cho biết lý do nào Trung Tướng gợi ý và khuyến khích tôi thực hiện cuốn tài liệu về Hải-Quân?
-Từ năm 1987, trong dịp ra mắt tác phẩm Bước Chân Non của chị tại San Jose, tôi đã đề cập đến các mặt trận của những nhà văn Đông-Âu – tiêu biểu là nhà văn Milan Kundura. Từ đó đến nay, Hung-Gia-Lợi, Tiệp-Khắc, Đông Đức, Ba-Lan, Lỗ, Bảo và ngay cả Nga-Sô nữa, đã đứng lên phá tan xiềng xích gông cùm. Sau bao nhiêu năm mất lòng tin vào Cha Cố hay Thượng Tọa, giờ đây, mỗi khi nhắc đến quốc gia, cộng đồng chỉ còn hướng về những nhà văn, nhà báo như nhân dân Tiệp-Khắc đã thân thương trao hết cho Havel vậy.
Tướng Đôn nói đến ngày 1 tháng 11, Tướng Mậu nói đến ông Diệm và gia đình họ Ngô, ông Nguyễn Xuân Vinh nói đến đời phi công… Tôi nghĩ không ai du nhập vào hồn Thánh-Tổ Trần-Hưng-Đạo cho bằng chị, vì chị là vợ một hậu duệ của Ngài. Chị có thể nói tất cả những gì liên quan đến Hải-Quân mà không ai có thể trách cứ rằng chị lơ lửng, ở vào một lập trường “passe partout”; bởi vì ai cũng thấy những gì chị viết đều có hương vị sóng nước, biển khơi.
Nếu Dương Thu Hương kết tội những cán bộ thụ hưởng nhưng vẫn đề cao đảng tịch thì ai cũng thấy rằng bao lần chị lên án những bê bối, nhũng lạm của người thừa hành “phe ta” mà tuyệt nhiên chị không nghi ngờ hay yếu lòng tin vào chính nghĩa sáng ngời của Người Quốc-Gia. Người Quốc-Gia chiến đấu mà không man rợ.

Xin cảm ơn Trung Tướng đã có lời khen. Xin Trung Tướng cho biết nhận xét của Trung Tướng về vai trò của Hải-Quân Việt-Nam trong cuộc chiến và những ngày cuối của cuộc chiến?
- Nói đến Hải-Quân V.N.C.H. là nói đến một quân chủng mà cho đến thời gian cuối cùng của cuộc chiến vẫn còn là một phương tiện quốc tế để có thể tính được chuyện lâu dài cho đại cuộc.
Trong sử liệu nước ta, đời Lê xuôi Nam, bình Chiêm với một đôi chiến thuyền; Chúa Nguyễn Ánh bôn ba nay Phú-Quốc, Cần-Thơ, mai Xiêm-La, Côn-Sơn, mốt Qui-Nhơn, Thị-Nại trên những chiếc thuyền mong manh…Rồi từ cuối thập niên 50 đến giữa thập niên 60, thay vì được thả dù hoạt động trên đất Bắc mà địa thế hiểm trở và ngặt nghèo quá xa, khó được cơ duyên trở về lại căn cứ dưới vỹ tuyến 17, những đơn vị “Nhất khứ hề bất phục phản” này có thể hoạt động hiệu quả hơn nếu những cuộc hành quân đó được thực hiện bằng tiềm thủy đỉnh Hoa-Kỳ hoặc PT của Hải-Quân V.N.C.H.
Từ năm 1964 trở đi, sự leo thang tuần tự với những phi vụ không tập chừng mực cho ta thấy vô hiệu, vì không thay đổi được chiều hướng chiến tranh. Tư-Lệnh Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ được chỉ định thống lĩnh cuộc chiến, không phải chỉ phối hợp khơi khơi như vậy. Có lẽ cuộc phong tỏa Hải-Phòng và Sihanoukville vào thời điểm đó là một quyết định hợp lý. Nếu trọng tâm cuộc chiến Việt-Nam được đặt vào các chiến thuyền đổ bộ để những đơn vị thiện chiến của ta tấn công miền Bắc thì hình thái của chiến trận nhất định sẽ hoàn toàn thay đổi. Số thương vong có thể giảm thiểu đến sáu, bảy mươi phần trăm và cải thiện được bộ mặt tệ hại của thập niên 70!
Đó, cái duyên sóng nước gắn liền với vận mệnh nước ta. Sử của ta quả thật do những chiến sĩ Hải-Quân viết nên mà tồn tại.

Xin cảm ơn Trung Tướng.


(1)- Chi tiết này được chính Đại Tướng Vanuxem nhắc lại trong cuốn
“L’Agonie du Vietnam” do Ông viết, năm 1977.

_____________

Ông LÊ QUANG MỸ

Nguyên Đại-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Đầu Tiên
(Hai tuần trước khi Ông lâm chung)

Xin Đại-Tá vui lòng cho biết Đại-Tá nghĩ như thế nào về cuộc di tản của Hải-Quân V.N.C.H.?
- Vào thời điểm đó, Hải-Quân không thể nào làm khác, vì theo tổ chức quốc phòng, Hải-Quân là một lực lượng trừ bị! Đã là lưc lượng trừ bị thì không thể nào Hải-Quân ở lại đương đầu với Việt-Cộng được trong khi những lực lượng khác đã tan rã hoặc rút đi.
Tôi chỉ tiếc một điều là từ lâu Bộ-Quốc-Phòng đã không khai thác tiềm năng của Hải-Quân, không xử dụng đúng mức một lực lượng tinh nhuệ và hùng hậu nhất nhì trong vùng biển Thái-Bình-Dương.

Xin cảm ơn Đại-Tá.

____________

Ông RICHARD LEE ARMITAGE

Nguyên Phụ-Tá Tổng-Trưởng Quốc-Phòng Hoa-Kỳ

Xin Ông vui lòng cho biết nhiệm vụ của Ông tại Việt-Nam vào khoảng tháng 3 và tháng 4 năm 1975.
-Tháng 3 năm 1975, tôi sang Việt-Nam với tư cách riêng. Tháng 4, theo yêu cầu của Phụ-Tá Tổng-Trưởng Quốc-Phòng Hoa-Kỳ, ông Erich Von Marbod, tôi tháp tùng Ông, trở lại Việt-Nam để di chuyển quân cụ và dân chúng trong trường hợp Bắc Việt tiếp tục tấn công.

Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng cùng Ông bay lên cầu Bình-Lợi, Biên-Hòa. Xin Ông vui lòng cho biết nhiệm vụ của Ông và tình hình lúc ấy như thế nào?
- Phó-Đề-Đốc Hùng rủ tôi cùng đi với Ông đến căn cứ Hải-Quân Long-Bình để thị sát và cũng để khích lệ tinh thần binh sĩ ở đó.
Áp lực của Bắc quân rất nặng. Căn-Cứ Hải-Quân đã bị tấn công lúc sáng sớm và đang chờ đợi một cuộc tấn công khác có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Chứng tích xâm lăng của Bắc quân còn trên đường, ngay cổng trại.
Tôi cũng thấy từng suối người tuôn về Saigon. Điều đó cho thấy Việt-Cộng về rất gần cho nên đồng bào hoảng sợ, đi tìm sự bảo vệ từ phía Việt-Nam Cộng-Hòa.
Sau đó Đô-Đốc Hùng và tôi trở về Saigon bằng xe Jeep và tôi đã phúc trình tất cả lên ông Von Marbod.

Xin Ông vui lòng cho biết khái quát về kế hoạch của Hoa-Kỳ nhằm giúp Hải-Quân Việt-Nam và gia đình di tản vào thời gian cuối cuộc chiến?
-Tôi nghĩ kế hoạch Hoa-Kỳ giúp Hải-Quân Việt-Nam di tản rất hạn hẹp. Hoa-Kỳ chỉ chuẩn bị một cách tổng quát cho một cuộc di tản với nhân số phỏng định chứ không có kế hoạch tỉ mỉ. Chương trình giúp Hải-Quân Việt-Nam được phát họa vào giờ phút chót.
Chúng tôi khuyên Hải-Quân Việt-Nam đưa gia đình vào tạm trú tại các Căn-Cứ Hải-Quân. Nếu một biến động nào xảy đến, gia đình và người thân của Hải-Quân sẽ được đưa ra biển để bảo toàn sinh mạng.
Lúc đó, vì chính phủ Hoa-Kỳ chưa dự trù một phương kế nào cho Hải-Quân Việt-Nam cả, cho nên tôi chỉ thông báo với Hải-Quân Việt-Nam rằng: Nếu tình thế bắt buộc hãy cố gắng đến Côn-Sơn, tôi sẽ gặp tất cả ở đó.
Mọi quyết định liên quan đến Hạm-Đội Việt-Nam từ Côn-Sơn đến Phi-Luật-Tân đều do những biến chuyển tình hình lúc đó tạo nên chứ không hề có một sự chuẩn bị nào cả.

Xin Ông làm ơn cho biết Ông có những liên hệ mật thiết nào với Hải-Quân Việt-Nam hay không?
-Có. Nhiều lắm. Khi còn phục vụ trong quân chủng Hải-Quân Hoa-Kỳ, tôi được dịp sát cánh với Hải-Quân Việt-Nam tại những đơn vị chiến đấu như Duyên-Đoàn 35 ở Vĩnh-Bình, Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám ở Tây-Ninh, Duyên-Đoàn 21 ở Tam-Quan. Tôi cũng là cố vấn huấn luyện các khóa sĩ quan đặc biệt Hải-Quân (Naval OPS Adviser). Các khóa đặc biệt này dành cho tất cả sĩ quan thuộc các quân, binh chủng khác được biệt phái sang Hải-Quân.

Thưa, có bao nhiêu chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ trợ giúp Hạm-Đội Hải-Quân Việt-Nam trong hải phận quốc tế?
-Hai chiến hạm Hoa-Kỳ đã hộ tống Hải-Quân Việt-Nam đến Phi-Luật-Tân; đó là không kể những tiếp-liệu-hạm đã tiếp tế nhiên liệu. Một trong hai chiếm hạm đó là USS Kirk.

Thưa Ông, sau cuộc chiến, Hải-Quân Việt-Nam trao trả lại cho Hải-Quân Hoa-Kỳ bao nhiêu chiến hạm? Bây giờ những chiến hạm đó được xử dụng như thế nào?
-Tôi nghĩ rằng khoảng 31 chiến hạm, kể cả những chiến hạm bị đánh chìm. Những chiến hạm khiển dụng được trao cho Hải-Quân Phi-Luật-Tân.

Nhiều người thuộc Hải-Quân Việt-Nam cho tôi hay rằng Ông nói tiếng Việt rất lưu loát và Ông có tên Việt-Nam là Phú, đúng không, thưa Ông?
-Hồi đó tôi nói được tiếng Việt. Bây giờ, sau 15 năm không xử dụng, tôi không biết vốn liếng tiếng Việt của tôi còn được bao nhiêu nữa.
Những người bạn Việt-Nam đặt tên Việt cho tôi là Trần Văn Phú.
Trần: Họ của Đức Thánh-Tổ Hải-Quân, Trần Hưng Đạo.
Văn: Chữ đệm cho tên đàn ông.
Phú: Giàu sang, do dịch nghĩa từ tên thật của tôi, Richard, cũng đọc là Rich.

Xin Ông cho biết, Ông nghĩ như thế nào về Hải-Quân V.N.C.H. trong cuộc chiến và những ngày cuối của cuộc chiến?
Tôi nghĩ về Hải-Quân V.N.C.H. như thế nào hẳn mọi người đều biết rồi. Tôi tin tưởng và ngưỡng phục họ. Tôi ao ước được tiếp tục chiến đấu bên cạnh họ.

Xin cảm ơn Ông.

___________

Ông ĐẶNG CAO THĂNG

Nguyên Phó-Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân
Vùng IV Sông-Ngòi

Thưa. đêm 29 tháng 4, trên đường từ Cần-Thơ ra biển, Đô-Đốc nghe Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi trên máy truyền tin, nhưng Đô-Đốc không trả lời. Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết Đô-Đốc nghĩ như thế nào về quyết định đó?
-Tôi nghĩ quyết định đó là một sự nông nổi ngay lúc đó. Trước đó một phút hoặc sau đó một phút có thể tôi đã quyết định một cách khác.

Xin cảm ơn Đô-Đốc.

___________

Ông LÂM QUANG THI

Nguyên Trung Tướng Tư-Lệnh
Mặt-Trận Tiền-Phương Quân-Đoàn I

Xin Trung Tướng vui lòng cho biết nhận xét của Trung Tướng về quân chủng Hải-Quân trong cuộc chiến và những ngày cuối của cuộc chiến?
-Trước tháng 3 năm 1975 tôi xem thường Hải-Quân lắm, ngoại trừ những Giang-Đoàn Xung-Phong thuộc Vùng IV Sông Ngòi.
Thời gian làm Tư-Lệnh Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh, từ năm 1965 đến 1968, một lần, chính tôi điều động thiết vận xa, Bộ-Binh và các Giang-Đoàn Xung-Phong mở mặt trận lớn tại Vĩnh-Bình. Trận đó mình đánh hay, đánh đẹp vô cùng. Cũng từ trận đó, tôi nhận thấy các Giang-Đoàn Xung-Phong là những đơn vị thiện chiến, không thể thiếu được ở sông rạch.
Khi mặt trận miền Trung bột phát tôi mới thấy vai trò của Hải-Quân là quan trọng. Hải-Quân nặng về truyền thống. Truyền thống Hải-Quân rất đẹp và tinh thần kỷ luật của Hải-Quân rất cao. Tôi kính phục Hải-Quân từ đó.

Xin cảm ơn Trung Tướng.

____________

Ông HỒ VĂN KỲ THOẠI

Nguyên Phó-Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân
Vùng I Duyên Hải

Qua cuộc di tản miền Trung, xin Đô-Đốc vui lòng cho biết vài kinh nghiệm bản thân.
- Qua cuộc di tản đó ai cũng rút tỉa được nhiều kinh nghiệm. Nhưng về kinh nghiệm bản thân, tôi thấy khi lâm chiến, một cấp Tướng Hải-Quân không bao giờ nên chỉ huy từ trên bờ mà phải từ một chiến hạm hay chiến đỉnh. Một điều quan trọng nữa là không bao giờ cho phép sĩ quan tùy viên rời xa mình.
Thật ra không phải sau cuộc chiến tôi mới nhận thấy được những điều đó. Nhưng, lúc ở Đà-Nẵng, thấy những vị Tướng khác còn ở trên bờ và tới lui họp hành liên miên tại Bộ-Chỉ-Huy Vùng I Duyên-Hải, tôi không đành bỏ họ để ra tàu!

Xin cảm ơn Đô-Đốc.

* * *

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/