Tóc Mai
Truyện dài
Tác giả xuất bản
2013
Để kỷ niệm một đời
khóc cười theo vận nước nổi trôi.
vhp. Hạ Vũ
Trình bày: Đào Anh Dũng
Ảnh bìa: Duy Hy 1958
Copyright © 2013 By HONGPHI VO
All rights reserved
Printed in the UNITED STATES OF AMERICA
Mục Lục
Lời Giới Thiệu (đàoanhdũng)
Sáu Nhịp Trường Tiền
Giăng Mắc Tơ Bay
Có Trăm Lần Vui
Ước một bờ vai
Có vạn lần buồn
Ngã Rẽ Đường Tình
Thiên Đường Là Đây
Chút Nghĩa Cũ Càng
Còn Vương Tơ Lòng
Sòng Đời Trắng Tay
Sợi Vắn Sợi Dài
Phụ Lục:
Tóc Mai (nvs.Vũ Thuy)
Cảm Nghĩ Sau Khi Đọc
Tóc Mai (Ngọc Khuê)
Cám Ơn Tác Giả (Triệu)
Cảm Tưởng Khi Đọc Tóc Mai (Mai Uyển)
Cảm Tưởng Của Một Cựu Thiếu Sinh Quân (nvs.Vũ Thụy)
Chúc Mừng Tác Giả (Hoàng Đằng)
Cảm Nghĩ Sau Khi Đọc Tóc Mai (Huỳnh Trọng Tâm)
Lời Giới Thiệu
Được tác giả “Tóc Mai” nhờ trình bày quyển truyện dài này đã là một vinh hạnh cho tôi vì tôi thuộc thế hệ đàn em của tác giả. Lúc tác giả làm cô giáo dạy Việt Văn, tôi còn mài đáy quần ở trường trung học.
Nay tác giả lại đề nghị tôi viết vài dòng giới thiệu, quả thật tôi rất ngại. Ngại là vì tôi chưa hề làm việc này cho một quyển sách nào. Vì thế, tôi xin phép được ghi lại cảm tưởng một người thưởng lãm văn chương mà thôi.
Đọc truyện dài “Tóc Mai” của vhp. Hạ Vũ, tôi có cảm tưởng mình đang viễn du về miền quá khứ vàng son của tuổi trẻ, bước vào đời trong thời buổi nhiễu nhương của đất nước và sống sót qua những tháng năm hậu chiến “ai cũng muốn quên.” Với một văn phong bình dị, qua những nhân vật, những tình huống rất bình thường, tác giả đưa độc giả đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi hồn nhiên, lúc xót xa, khi mơ mộng, lúc nuối tiếc ... biết chấp nhận những gì đời đã trao, nhưng không yếm thế và luôn luôn phấn đấu để tồn tại, hướng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tác giả chỉ kể chuyện, không đưa ra một triết lý “sống đời” nào, nhường suy luận cho độc giả. Đó cũng là một trong những lý do khiến cho tôi thích thú khi đọc “Tóc Mai” của vhp. Hạ Vũ, và tôi không ngần ngại chia sẻ cảm tưởng của mình với độc giả bốn phương.
Xin kính mời quí độc giả lật trang, cùng vhp. Hạ Vũ hành trình về miền quá khứ của những năm tháng chưa quên... Minnesota, chớm Đông 2013
đàoanhdũng
Chương 1
Sáu nhịp Trường tiền
1.
Với một tâm trạng vừa lo âu vừa hi vọng, Hồng khóa xe đạp rồi bước lên cầu thang tìm đến Phòng Giáo Vụ của Bộ Quốc Gia Giáo Dục tọa lạc tại đường Lê Thánh Tôn để xem kết quả cuộc thi tuyển vừa qua. Trước cửa phòng, danh sách 60 thí sinh trúng tuyển đã được niêm yết. Danh sách không dài nên sự lo âu của nàng cũng được cắt ngắn, thay vào đó là niềm vui vỡ òa. Ngay khi thấy tên mình, Hồng vỗ tay reo lên vui sướng theo phản xạ tự nhiên. Một vài nhân viên trong văn phòng ngừng tay, nhìn ra, mỉm cười chia xẻ niềm vui với nàng. Hồng chợt thấy mình đang quấy rối sự yên tĩnh của mọi người, nên bẽn lẽn ngưng tay và ngậm miệng, nhưng niềm vui vẫn còn tràn ngập trên mắt môi. Nàng đang sung sướng với viễn ảnh huy hoàng sau khi tốt nghiệp. Cúi đầu chào mọi người nàng dời bước, tìm một gốc cây, một mình ngồi “ nhấm nháp” niềm vui riêng.
Nhưng niềm vui chưa trọn thì nỗi lo lắng đã xâm chiếm. Tháng trước khi nạp đơn dự thi vào khóa II/1960 của Viện Hán Học, nàng giấu cha mẹ vì thấy ngôi trường này ở mãi tận Huế, một nơi vừa xa vừa lạ với mình và cả gia đình. Thêm vào đó, thời gian học lại năm năm dài đăng đẳng, chắc gì cha mẹ nàng chịu cho đi. Nàng hăm hở nộp đơn đi thi chỉ vì bị nghề nghiệp sau khi ra trường quyến rũ. Đây là một ngôi trường do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ thị đặc biệt thành lập cho riêng Đại Học Huế vào năm 1959, và cũng là một thí điểm đào tạo giởi trẻ để tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, chống lại văn hóa ngoại lai đang xâm nhập nước ta. Viện Trưởng Đại Học Huế, Linh Mục Cao Văn Luận, kiêm nhiệm luôn Giám Đốc Viện Hán Học. Khi tốt nghiệp các sinh viên được bổ nhiệm vào một trong ba chức vụ sau:
1. Tùy Viên Các Sứ Quán Vùng Đông Nam Á.
2. Chuyên Viên Viện Khảo Cổ.
3. Giáo Sư Việt Hán các trường Trung Học.
Hồng đang là học sinh ban Toán của trường Nữ Trung Học Gia Long vì mê xuất ngoại và chức vụ Tùy Viên, tuy không biết Tùy Viên là chức vụ gì và làm những công việc gì, nên hăm hở dự thi vào một trường nghe đến tên là biết thuộc loại Văn Chương cổ. Thật là trái ngược nhau! Hồng không cần biết có hợp với khả năng của mình hay không, nàng tự trấn an bằng câu nói của ông Nguyễn Bá Học: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." Nàng không ngại núi e sông, nhưng bây giờ thì sợ bơ vơ nơi xứ lạ quê người! Sau giây phút vui mừng nàng đối diện với khó khăn: không có thân nhân ngoài đó thì ở đâu? Không có mẹ đi chợ nấu cơm thì lấy gì ăn mà học? Tiền sách vở, bút mực, và những món chi tiêu khác nữa. Trong thông báo có ghi rõ một số tuyển sinh đậu cao sẽ được học bổng toàn phần 500 đồng một tháng, còn lại chỉ được bán phần 250 đồng thôi. Nàng đậu khoảng giữa, được bán phần là chắc. Vậy thì làm sao đủ chi phí ăn ở học hành. Số tiền học bổng này so với học bổng của sinh viên Đại Học Sư Phạm thời đó thì thấp hơn nhiều, kiểu này phải nhờ đến cha mẹ trợ giúp thôi. Một gánh nặng cho gia đình đây!
Hồng thẫn thờ phân vân, "bỏ thì thương vương thì tội," tội cho cha mẹ và tội cho mình. Nàng đứng lên toan về rồi lại do dự ngồi xuống. Nàng tự nhủ "phải vượt khó," tìm gặp những người trúng tuyển kết hợp lại cùng mướn nhà, cùng nấu ăn chung, và đi dạy kèm trẻ tại tư gia để bổ sung vào số tiền ít ỏi đó. Hài lòng với suy nghĩ của mình, Hồng cương quyết đứng lên đi trở lại Phòng Giáo Vụ. Tới cửa rồi thì nàng lại thập thò, ngập ngừng, e ngại vì đây là lần đầu tiên trong đời nàng bước vào một công sở nên có hơi khớp. "Sợ gì chứ? Mình có phạm tội gì đâu, chỉ xin giúp đỡ thôi mà." Sau khi tự nhủ Hồng mạnh dạn bước vào, đúng lúc một ông to lớn bước ra. Nàng giật mình, khựng lại, nhìn lên. May quá gặp "người quen!" Nàng cho là quen là vì Ông này làm Giám Thị phòng thi của nàng cách nay hơn tháng, và đã từng "xin Thầy cho thêm giấy nháp." Hồng reo lên như gặp người thầy thân thương xa cách lâu ngày:
- Chào Thầy.
Ông thân mật hỏi:
- Đậu rồi phải không cô bé? Cần gì giúp đỡ không? Vô đây.
- Thưa Thầy, em cần địa chỉ của các bạn nữ trúng tuyển để liên lạc đi chung ra Huế.
Thế rồi nàng có được địa chỉ năm bạn nữ trong tay, cám ơn rối rít ra về. Ngọc ở Bình Dương, bỏ qua, Minh Tuyết ở Mỹ Tho, không dám ngó tới, còn hai người: Cẩm Vân ở Hòa Hưng, và Ngân Trang ở Vườn Chuối. Thế là Hồng lò dò đạp xe tới nhà Cẩm Vân trước, sau đó là Ngân Trang để kết "Đồng Minh." Còn một người nữ trúng tuyển nữa là Kim học cùng trường Gia Long và cùng lớp với nàng từ Đệ Thất đến Đệ Nhị B3. Nhưng người bạn này đã nói trước dù có thi đậu cũng không thể đi học xa được nên nàng không quan tâm tới.
Cẩm Vân có người quen ở Huế. Thế là: "Hi vọng đã vươn lên,” nàng hăm hở về nhà và tối đó trình cho hai "Đấng Tối Cao" việc vui này. Cha nàng có vẻ trầm ngâm, không dứt khoát, nhưng người mẹ vui với niềm vui của con. Bà khuyến khích:
- Má ủng hộ con đi học xa, nhưng con phải hứa với má trong suốt thời gian học xa nhà phải giữ mình cẩn thận, không nên có bồ bịch, và không được lơ là việc học. Má muốn con gái của má có một nghề vững chắc sau này để không lệ thuộc vào người chồng và lỡ có chuyện không may xảy ra thì có khả năng nuôi con một mình.
- Con hứa với má, làm theo lời má không sai sót điều nào cả.
- Có con gái lớn trong nhà như treo hũ mắm ở đầu giường, đầu giường nghe con chứ không phải đầu giàn như người ta đâu. Đừng để hũ mắm rơi, bể, đổ tùm lum, thúi cả nhà, má ngủ không được con à.
Mẹ Hồng ngừng một lúc, nhìn chăm chăm nàng rồi tiếp:
-Nói tới mắm má mới nhớ, thằng Vũ, con của bác Mười, đem tặng cho nhà mình kỳ này ba hũ mắm: một ruốc, một thái, một lóc của Bà Giáo Thảo. Nó nói để dành ăn dần, mai mốt không có mắm Bà Giáo Thảo nữa đâu, vì nó đã xong Tú Tài, không còn học trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu nữa. Mai nó đi Đà Lạt vô trường Võ Bị học, ít có dịp về thăm nhà. Bấy lâu nay tuần nào về, nó cũng mua tặng nhà mình không mắm này cũng mắm nọ, thấy thương hết sức! Nó tới từ giã gia đình mình, ở chơi chờ con lâu lắm mới chịu về.
- Má à, má ăn mắm một mình đi, con không ăn nữa đâu. Ăn riết rồi da mình toát ra mùi mắm, hôi rình!
- Nói bậy không hà. Nó rất lễ phép. Cả Xóm Gà của mình có mỗi thằng Vũ đàng hoàng, má coi được nhứt.
Hồng phản đối:
- Má không biết đó thôi. Ảnh đóng kịch đấy. Trước mặt má ảnh làm bộ nhu mì, hiền hậu chứ thực ra ảnh mèo chuột tùm lum. Có một lần con bắt gặp anh Vũ chở con Hoa bán sinh tố ở Ngã Tư Bình Hòa đi xem xi nê rạp Cao Đồng Hưng. Biết đâu còn nhiều lần với những người khác nữa mà con không gặp.
- Ai biểu con đỏng đảnh làm chi, thằng nào dám nhào vô? Con ra Huế cẩn thận nghen. Mấy đứa ngoài đó, mình đâu biết gốc gác, gia đình người ta như thế nào. Đừng dây dưa mà mọc rể ngoài đó.
- Má an tâm. Con lớn rồi(!) Con biết mà.
Cha của Hồng liên lạc được với một người đồng nghiệp gốc Huế, trước dạy cùng trường với ông, bấy giờ đã trở về Huế. Người này hứa giúp đỡ nàng bước đầu. Thế là mọi việc xuôi chèo mát mái. Sau đó Ngọc ở Bình Dương liên lạc với Hồng. Ba cô Cẩm Vân, Ngọc, và Hồng ráp lại thành bộ "Tam Sên" khắng khít từ đó.
Gia đình của năm cô gái này sau khi qua giai đoạn nhức đầu vì lo lắng cho năm "cái hũ mắm" xa gia đình để "lập công danh", cũng đành gồng mình cho con đi "du học". Năm cô gái "Xứ Nam Kỳ Quốc" tuổi trăng tròn lẻ khăn gói ra tận "Xứ Trung Kỳ"... "du học". Phải nói là vào thời điểm đó, con gái ở Sàigon xa gia đình đi học tận đất Thần Kinh xa xôi thì có lẽ năm cô này là những người tiên phong.
2.
Trước ngày nhập học một tuần, ba cô Cẩm Vân, Ngọc, và Hồng hành trang lên đường chung với nhau, còn Ngân Trang đi máy bay, Minh Tuyết nhập học sau. Tại nhà Ga Sài Gòn, sau khi nước mắt ngắn nước mắt dài chảy ướt cả khăn tay, ba cô đành tiến đến xe lửa. Đang quyến luyến với gia đình, chưa muốn bước lên cửa toa thì một bà mẹ miền Nam tiến tới hỏi thăm:
-Chào các cháu. Các cháu đi đâu vậy?
Chị Cẩm Vân, người lớn tuổi nhất trong năm đứa, được các cô "phong chức" Chị Hai, trả lời:
-Thưa bác, chúng cháu đi Huế học.
- Có phải các cháu học Viện Hán Học không?
- Thưa phải.
- Các cháu có ai quen ở Huế không?
Hồng mau mắn trả lời:
- Thưa bác, chị Hai Cẩm Vân của chúng cháu đây có người quen ở Huế.
- Vậy thì tốt quá!... Con trai bác cũng ra Huế học Viện Hán Học. Cháu Cẩm Vân cho bác gởi gấm con trai bác cho cháu nghen. Có gì cháu giúp đỡ nó. Nó tên Công Đức, đứng đằng kia.
Chị Hai sau một lúc “ngậm hột thị,” cũng trả lời, giọng yếu xìu:
- Dạ được.
Ngọc thúc nhẹ vào hông Hồng, cười hí hí và nói nhỏ:
- Chị Hai đùm bọc hai "em gái ngang hông", giờ có thêm một "em trai người dưng khác họ" để đùm bọc nữa.
Hồng hóm hỉnh thì thầm:
- Trông anh cũng lớn, cỡ tuổi chị Hai, chắc phải gọi là anh Hai. Chị Hai "đùm bọc" anh Hai! Gà mái thắng thế. Biết đâu chẳng là duyên trời dung rủi!
Còi tàu rúc vang, ba cô lên xe lửa ngồi chung một băng ghế dài. Sau khi khóc đã đời vì lần đầu tiên xa nhà, Ngọc và Hồng bắt đầu rù rì chuyện bà má miền Nam chân chất, thật thà gởi gấm con trai cho một đứa con gái cũng lần đầu tiên xa nhà đến xứ lạ quê người như con bà, và cười hi hí với nhau. Bà thương con quá mà quên mất nam nhi tính trong con người của anh Hai. Quay lại không thấy chị Hai đâu, hai nàng đứng dậy dáo dác tìm. Thì... ô kìa, ở cuối toa xe lửa chị đang nói chuyện với một anh khá bảnh trai, thỉnh thoảng chị cầm khăn tay chùi mắt.
-Ê Ngọc, ai vậy mậy?
-Làm sao tao biết được. Kiểu này có lẽ "kép chánh" rồi đây, trông có vẻ "xa chàng lòng dặc dặc buồn."
Chợt Hồng thấy anh Hai đang thả hồn ra ngoài toa xe ở băng ghế đâu lưng với các cô có lẽ cũng đang “mơ về quê cũ xa mờ" liền khều Ngọc ra dấu. Hai cô nín lặng ngồi xuống.
Tới ga Thủ Đức, chị Hai về lại chỗ ngồi, mắt đỏ hoe. Nhìn lại, “chàng” biến đâu mất. À thì ra anh đưa em một đoạn đường tình. Hồng và Ngọc đưa mắt nhìn nhau, miệng mỉm cười "lơ lửng con cá vàng"... Cẩm Vân nhìn thấy, xụ mặt. Hai cô biết mình bậy bèn im lặng. Một lúc sau Ngọc cười cầu tài và lấy điểm bằng cách mời Cẩm Vân và Hồng mỗi nguời một cái bánh ú đem theo ăn dọc đường, và... bỏ rơi anh Hai.
Suốt đường dài, cả ba cô không nói chuyện với Đức mà Đức cũng không làm quen với các cô. Tối hôm sau tới ga Huế, xuống xe lửa, chị Hai Cẩm Vân quên mất lời hứa miễn cưỡng chiều hôm trước. Cả ba theo người quen về nhà, bỏ anh Hai “tự mưu sinh thoát hiểm.”
Sáng hôm sau được người quen chỉ đường, từ Đập Đá ba cô lò mò đi dọc bờ Sông Hương, qua cầu Trường Tiền để vào Viện Hán Học đang đặt tạm tại Di Luân Đường (Thành Nội). Sông Hương và cầu Trường Tiền là hai địa danh đi vào thi ca dân tộc. Lần đầu tiên trong đời các cô rất sung sướng được nhìn ngắm tận mắt dòng sông thơ mộng và đặt chân lên cây cầu lãng mạn này.
"Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Anh theo không kịp, tội lắm o ơi..,"
Câu ca dao nghe sao mà tình tứ vô cùng, bảo sao các cô không mê Huế và quyết tâm ra Huế học?
Ngược hướng với các cô là các nàng nữ sinh Đồng Khánh, kẻ đi bộ, người đi xe đạp đến trường. Gió sông Hương mát lạnh thổi bay tà áo dài phất phơ trong gió như những cánh bướm trắng bay lượn ngợp Cầu Trường Tiền. Các anh học sinh Quốc Học chìm lỉm trong rừng tà áo trắng. Nữ sinh coi bộ thắng thế, hèn chi trong thơ văn chỉ ca ngợi các nàng với tà áo dài và mái tóc thề thả bay theo gió để cho mái tóc ngắn phải lò dò len lén chạy theo sau. Hồng tò mò đếm nhịp và vài của cầu, nêu thắc mắc:
- Này chị Hai, cầu có sáu nhịp, mười hai vài. Chị đếm lại đi, sao ca dao nói gì lạ vậy?
- Ừ nhỉ, sao lạ vậy? Mười hai nhịp thì phải có 24 vài mới đúng chứ?
Ngọc xen vào:
- Có mấy câu ca dao này có lẽ đúng hơn:
Chợ Đông Ba đem ra góc thành,
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bến đò Ghềnh bắc ngang.
Hay:
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua,
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khúc âu ca thái bình.
- Ừ nhỉ, sao có sự khác biệt như vậy. Có lẽ do vần điệu mà thay đổi cho thích hợp chăng? Thôi, gấp gáp làm chi. Mai mốt hỏi thầy.
Di Luân Đường là nơi thờ Đức Khổng Phu Tử được ngăn làm ba phòng làm thành ba lớp học bằng những tấm bình phong. Một phòng cho khóa I lớp đàn anh, khóa II vì sĩ số gấp hai nên chia ra hai lớp. Tất cả nữ sinh viên chọn sinh ngữ Pháp Văn hay Anh Văn cùng nam sinh viên chọn Pháp Văn vào lớp A; còn lớp B toàn nam sinh viên chọn sinh ngữ Anh Văn. Các cô chọn Anh Ngữ chỉ học vài giờ tiếng Anh một tuần chung với sinh viên lớp B mà thôi. Có hơi bất tiện, nhưng các thầy sắp xếp lớp kiểu này mục đích hạn chế tình yêu phát sinh giữa nam nữ mà quên lo học hành(!) Sinh viên lớp B than phiền nhà trường bất công, "lớp toàn lá không có một đóa hoa làm vốn khiến mấy chàng lớp A kênh kênh thấy ghét". Một tấm trướng to tướng giăng ngang với bốn đại tự bằng chữ Hán: Vạn Thế Sư Biểu. Các cột được treo câu đối sơn son thếp vàng. Nhìn chung quanh không khí cổ bao trùm. Hồng than thầm: Than ôi, chúng ta từ Sài Gòn hoa lệ đi vào thế giới Lều Chõng của Ngô Tất Tố rồi! Thầy của chúng ta là các cụ đồ nho vận khăn đóng áo dài đen. Ôi chao! Cổ thế này ư? Vậy thì đâu cần ra tận Hà Nội mới thấy được:
"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".
(Thăng Long Thành Hoài Cổ - Bà Huyện Thanh Quan)
Ba nàng rụt rè ngơ ngác bước vào. Một sư huynh khóa đàn anh nhân dịp tới trường có việc riêng thấy ba "con nai" miền Nam đang ngơ ngác liền bước tới làm quen, xưng tên. Lần đầu tiên nghe giọng Huế, chữ nào các nàng cũng nghe có dấu nặng và cứ ngớ ra tưởng như mình đang nghe tiếng ngoại quốc, Chàm có lẽ(!. Đúng là "du học xứ Huế" mà! Anh phải chậm rãi đánh vần các nàng mới biết tên anh là Lữ. Anh dẫn ba cô vào gặp thầy Phó Giám Đốc, người điều hành thật sự của trường. Thoạt nhìn thầy bệ vệ oai nghiêm trong bộ Âu Phục trắng làm các cô càng lúng túng. Nhưng khác với bề ngoài, Thầy niềm nở vui vẻ hỏi nơi ăn chốn ở của các cô. Sau khi biết các cô đang ở tạm nhà người quen và cần một chỗ trọ thì Thầy cho biết gần trường có một nhà dư phòng. Chủ nhà vì nễ nang Cha Nguyễn Văn Thích nên cho các cô gái xa nhà tạm trú ăn ở. Các thầy chu đáo quá "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu" (lo trước cái lo của thiên hạ). Các cô an tâm thu xếp tới nhà trọ.
Ngày đầu tiên nhập môn, Hồng mới biết trình độ chữ Hán của sinh viên không đồng đều. Cùng một lớp có nhiều người rất giỏi, có cả anh là người Việt gốc Hoa, còn đa số một chữ nhất cũng không biết. Tuổi tác cũng không đồng đều, có người vợ con đùm đề, ngồi học chung với đám nhóc trung học mới lên. Các sinh viên trong Nam ra nằm trong đám i tờ chữ Hán đó, nhưng không mặc cảm thua sút và lấy câu nói của Nguyễn Bá Học làm châm ngôn khuyến khích nhau. Những ngày đầu cầm bút lông tập viết vỡ lòng từng nét ngang, sổ, móc, mác..., Hồng thường ngắm quang cảnh các "cậu đồ, cô đồ" tân tiến ngồi trong ghế cá nhân của mình, chứ không phải khòm lưng trên chiếc chiếu mà viết "chi, hồ, dã, giả" để tự hào mình là một trong những người trẻ của thế hệ mới đang làm nhiệm vụ gìn giữ văn hóa dân tộc. Về trang phục của các thầy, chỉ có một vài cụ cử nhân, tiến sĩ nho học mặc áo dài đen, còn đa số đều vận Âu phục. Nơi đây, sinh viên được học đủ thứ môn thuộc về thơ, văn, lịch sử, địa lý, xã hội, triết học, sinh ngữ… từ Đông sang Tây, từ Cổ chí Kim. Chương trình học hình như quá bao la, muốn đào tạo đám sinh viên còn ham chơi này thành các nhà bác học thông kim bác cổ, quán triệt Đông Tây.
3.
Trước cửa Di Luân Đường, Hồng đang tần ngần cầm quyển thơ Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị chép tay ngắm nghía, ngắm nghía thôi chứ trình độ chữ Hán mới ABC đọc gì nỗi, thì đám nữ nhân "Nam Kỳ Quốc" đi tới. Ngọc hỏi:
- Ê Hồng, quyển gì đó, đưa tao coi với.
Không chờ Hồng trả lời, Ngọc chụp lấy sách trên tay nàng lật xem sơ sơ rồi phán:
- Sách viết tay bằng bút lông bản chữ Hán, có dịch âm, dịch thơ, và chú thích thật đầy đủ. Ở đâu mày có quyển sách quý như vậy?
- Ơ... ơ... ơ…
Minh Tuyết chen vào vừa chặn họng vừa vói tay lấy xem:
- Ơ a cái gì? Khó nói lắm hả? Chôm chỉa ở đâu đó. Chèn ơi, chữ viết chân phương đẹp ơi là đẹp. Mới học có hai tháng thôi, còn lâu mới đọc nỗi... em ơi!
Chị Hai Cẩm Vân điềm đạm, lúc nào cũng đáng mặt đàn chị, ngắt lời Minh Tuyết:
- Để nó trả lời cái đã, chưa chi kết tội người ta ăn cắp.
Được sự hỗ trợ của chị, Hồng đáp:
- Sư huynh Lữ mới tặng đó.
Chị Hai vói lấy xem . Cả bọn xúm nhau lật qua lật lại, rồi mỗi người một câu:
- Công phu dữ!
- Có sách cho tao không?
- Mất công như thế này, rỗi hơi đâu mà viết cho cả đám.
Ngân Trang từ nãy giờ im lặng đứng nghe cuộc đối thọai, lên tiếng:
- Sư muội lọt mắt xanh của sư huynh rồi...
Cuối cùng chị Hai cảnh cáo:
- Sư huynh đó lớn tuổi, đã có vợ con. Liệu hồn đó nghe... "cưng". Thôi, sắp tới giờ rồi, chúng ta vào lớp.
Đi ngang phòng học của sư huynh, Hồng liếc thấy anh đang ngồi lặng lẽ một góc. Thường thường bộ "Tam Sên" ngồi bàn đầu. Đây là giờ Pháp Văn của giáo sư Phạm. Thầy người Miền Nam lập gia đình với một cô người Huế. Xa quê hương ngộ đồng hương nên đám Nam Kỳ coi thầy như người cha, nhưng Thầy nổi tiếng khó khăn trong giảng dạy, cho nên các cậu các cô chỉ dám "kính nhi viễn chi". Quy định hình thức một bài luận của thầy là: Nhập đề và Kết luận, mỗi phần dài 20% chiều dài của toàn bài. Phần thân bài 60% còn lại, ít nhất phải có hai đoạn tương đương bằng nhau. Ai không theo đúng, thầy tặng cặp trứng ngỗng to tướng, no cành hông, khỏi ăn cơm trọn ngày. Tất cả sinh viên đều biết thầy khe khắt như vậy để tránh tình trạng viết luông tuồng từ đầu chí cuối chỉ một đoạn dài thòng, hoặc thiếu nhập đề, thiếu kết luận, nên thi hành rất đàng hoàng.
Hôm đó Thầy hoàn trả bài luận Pháp Văn. Hồng đang hồi hộp chờ giờ vào học, Ngọc đến bên cạnh thì thầm:
- Mánh của mầy chắc không qua khỏi mắt thầy đâu. Bị vạch mặt là cái chắc.
- Tao thực hành đúng quy định của thầy. Tao đếm từng hàng theo tỉ lệ đàng hoàng.
- Đừng ngụy biện. Bộ thầy không thấy chữ viết chỗ nhỏ xíu, khít rịt, chỗ to kềnh, thưa rỉnh thưa rảng hay sao?
Hồng cãi bướng:
- Thầy không quy định chữ viết phải đồng một cỡ, tao viết sao mặc kệ tao miễn đúng tỉ lệ thôi chứ.
Nói cứng như thế nhưng tim cô nàng đập thình thịch khi thầy bước vào lớp. Lúc tới bài của Hồng, thầy không nói gì cả, thoáng hiện một nụ cười kín đáo chỉ có hai người Hồng và Ngọc nhận ra. À thì ra thầy có dành ưu đãi cho đám môn sinh đồng hương của thầy.
Thầy giảng, sinh viên lấy tập vở ra ghi chép. Ghi tiếng Việt còn không xong, tiếng Tây chỉ có nước chào thua. Vốn từ ngữ tiếng Pháp của đám Nam Kỳ học trường Việt thuộc loại ‘ăn đong’, làm sao ghi chép cho nỗi! Ngồi gióng tai giương mắt nghe thầy giảng mà hiểu được lỏm bỏm là phước lắm rồi. Hồng liếc nhìn quanh xem các bạn gốc Huế có hơn không. Nàng thấy ai ai cũng giương mắt mà... nghe. Cùng trình độ!
Đây là lần đầu tiên trong đời xa tổ ấm, năm cô sinh viên gốc Nam Kỳ cảm thấy mình cô đơn và buồn ray rứt vì nhớ ngôi nhà thân yêu, nhớ Cha, nhớ Mẹ, nhớ anh em, nhớ trường cũ bạn xưa, lại gặp giọng trầm và ấm của thầy giảng về tác phẩm Les Misérables làm các cô xúc động. Hồng rơi lệ. Tưởng chỉ mình yếu lòng, nàng liếc nhìn các bạn đồng hương, bắt gặp người len lén quẹt nước mắt, người cúi gầm mặt giấu mấy giọt lệ ngọc ngà. Hành động của các học trò nữ này không lọt khỏi mắt thầy. Thầy chớp mắt, giọng ngập ngừng, và nhỏ lại. Cuối cùng thầy chấm dứt đột ngột bài giảng, bắt qua việc khác. Từ đó khi thầy giảng bài, Hồng nhận thấy thầy thường đưa mắt nhìn đám nữ sinh viên xa nhà, hễ có biểu hiện xúc động thẩy liền chuyển đề tài. Bên cạnh bề ngoài khe khắt, trái tim thầy nồng nàn tình cảm.
Mang cái "mác" sinh viên nhưng thực chất đám nam nữ này vẫn là những đứa trẻ con, vui đó buồn đó. Mỗi lần nhận được thư nhà thì nhảy cẩng lên reo hò, lúc không có lại buồn thỉu buồn thiu. Trước khi rời trường Gia Long, Hồng chỉ được mấy hũ mắm của anh chàng Vũ Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, chứ nàng chưa được hân hạnh "em tan trường về, anh theo Ngọ về!” Bây giờ anh chàng gặp gái Đà Lạt má đỏ môi hồng nên quên mất “cô hàng xóm” này rồi, không thèm gởi cho Hồng một lá thư an ủi để nàng lên tinh thần nơi xứ lạ quê người như chị Hai Cẩm Vân và người bạn tên Ngọc này. Giờ đây, mỗi khi ra về Hồng được một ánh mắt buồn buồn dõi theo mà ánh mắt ấy có một vài "cái đuôi" bám chặt. Hồng than thầm: "Ôi chao! Số tôi sao xui xẻo vậy!" Từ ngày tặng sách sư huynh Lữ không tới thăm hỏi chuyện trò với đám Hồng nữa và thường hay đến trường sớm về muộn để "ngắm dáng em thướt tha với tà áo bay bay phất phơ trong gió" theo lời nhận xét đầy chất cải lương của chị Hai Cẩm Vân. Tự dưng nơi đây Hồng có một người chị người dưng khác họ nhưng thân thiết như ruột rà. Chị đã theo dõi để kềm kẹp các "em nuôi" không cho vượt hàng rào lễ giáo. Do Hồng chưa có người yêu nên được coi như con nít, làm đứa em út trong nhóm. Vốn lý tưởng cuộc đời, xem tình yêu là một tình cảm tuyệt đối nên Hồng nghĩ rằng bạn bè nhận xét lầm về anh. Nghĩ rằng anh đã có mái ấm gia đình thì làm sao còn yêu người khác được nữa nên Hồng không để vướng bận vào lòng. Mọi người thấy anh không tìm cách liên lạc, hay thư từ với Hồng nên một thời gian ngắn sau cũng bỏ qua, không chọc ghẹo nữa. Đối với Hồng, anh có yêu hay không, nàng không cần biết. Dưới mắt nàng anh là một "ông già" có vợ con mà còn đi học là để lấy thêm kiến thức. Nàng coi anh là một sư huynh như mọi sư huynh khác. Bóng anh mờ nhạt, không có chỗ đứng trong trái tim nàng.
Các thầy của trường chẳng những quan tâm tới tinh thần lẫn tình cảm của đám sinh viên xa gia đình mà còn săn sóc sức khỏe nữa. Có lần Minh Tuyết đau bụng lăn lộn, thầy Phó Giám Đốc, còn là một người nghiên cứu về Đông Y, đã đến nhà chẩn mạch và kê toa. Sinh viên cần gì, kêu cứu là các thầy đáp ứng ngay. Để tạo bầu không khí ấm cúng cho môn sinh cuối tuần, các thầy thường hay gọi cả bọn nam nữ sinh viên xa nhà đến ăn uống, vui chơi cho đỡ nhớ nhà. Nhóm miền Nam được đặc biệt đối xử này. Một hôm ở nhà thầy Kháng, đám nữ Sài Gòn tới nhà thầy ăn trưa. Nhà thầy có ao nuôi cá, một bầy vịt đang bơi lội ung dung. Thầy hỏi:
- Con gì đó, các con?
Hồng láu táu trả lời giọng đặc sệt Miền Nam:
- Thưa thầy, con "dzịch."
Anh Đài, con trai của thầy, cũng là bạn học cùng lớp với Hồng, cười khúc khích. Từ đó hễ anh thấy con vịt là nhớ tới Hồng, thấy Hồng là nhớ "con dzịch". Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên anh nghe giọng miền Nam rặt nên cũng là việc lạ lẫm đáng chú ý chăng?
Đám sinh viên Nam Kỳ Quốc mượn tạm gia đình các thầy để giải sầu xa xứ. Các Thầy đã dang tay đón lấy những đứa con sớm rời tổ ấm này. Do đó người Thầy ở đây không chỉ là Sư mà còn là Phụ nữa và tình thầy trò khắng khít hơn ở những ngôi trường khác.
Chương 2
Giăng mắc tơ bay
Vào niên khóa đầu, đường xe lửa còn an ninh không bị gài mìn nên ngày Tết đám sinh viên Nam Kỳ lên xe lửa về nhà, sau đó mang xe đạp trở ra Huế. Mấy năm sau đành ở lại ăn Tết tha hương. Có xe đạp tiện việc đi lại nên các đám nam nữ này thường rủ nhau đi chùa hay đi chơi cuối tuần với nhau. Có năm vào ngày mùng một Tết, Cẩm Vân, Hồng, và Minh Tuyết theo gia đình thầy Phó Giám Đốc đi chùa lạy Phật rồi ăn cơm chùa, hôm sau theo xe của Cha Thích đi nhà thờ La Vang quỳ lạy Chúa và ăn cơm Chúa. Chúa và Phật các nàng đều thành kính tôn thờ như nhau. Bởi vậy suốt mấy năm dài nhờ Các Đấng Tối Cao thương tình che chở nên không ai gặp tai nạn hay bệnh hoạn nặng, chỉ sụt sịt ho cảm sơ sơ thôi.
Mỗi năm nhà trường đều có tuyển thêm sinh viên cho khoá mới, do đó số nam nữ Miền Nam ra Huế càng ngày càng đông. Các anh chị em tập họp thành một nhóm dân Sài Gòn nơi đất Huế. Vào những ngày nghỉ Lễ và Tết, đám nam nữ sinh viên Sài Gòn càng cảm thấy cô đơn và nhớ nhà nên tự tổ chức tiệc tùng riêng cho mình đỡ buồn. Đám nữ, ai tham gia thì đóng tiền cho chị Hai Cẩm Vân, đám nam đóng tiền cho anh Hai Công Đức để tổ chức ăn uống, ca hát vui vẻ với nhau. Đó là dịp đám em ngang hông chọc ghẹo anh Hai chị Hai tơi bời. Lý do là anh Hai biết mình xài tiền tùy hứng nên gởi tiền cho chị Hai cất giùm với lời dặn: đừng đưa tiền cho anh ngoài ngày quy định, dù anh yêu cầu cũng vậy. Chị Hai chấp hành lời dặn rất nghiêm nhặt. Một lần anh cần tiền khẩn thiết ngoài ngày quy định. Anh xin chị đưa tiền lại cho anh nhưng chị nhất định không đưa. Chị bỏ ngoài tai lời giải thích và năn nỉ ỉ ôi gần gãy lưỡi của anh. Không được, anh đành bỏ cuộc, xoay cách khác. Vài hôm sau, anh đến gặp chị, trách:
- Tôi cần tiền cứu mạng(!) mà gặp phải ly nước chanh không đường, nhiều đá lạnh, uống không vô.
Chị lòng tuy mềm nhưng miệng cứng, đáp:
- Tôi chỉ chấp hành lời dặn của anh. Thôi thì đừng gởi tiền cho tôi nữa.
Thế mà anh không tởn, vẫn tiếp tục gởi tiền cho người đáng tin cậy nhất thế giới của anh giữ giùm. Chuyện này bị tiết lộ ra ngoài. Thế là đám nữ quái Nam Kỳ có màn chọc ghẹo cho vui cửa vui nhà. Gặp anh, mỗi người một câu:
-Anh Hai, đưa tiền cho chị Hai đi chợ.
-Anh Hai, chị Hai nhất định nhịn đói, chờ anh về ăn cơm kìa.
- Anh Hai, chị Hai hết tiền rồi, đang kiếm anh kìa ...
Mỗi lần như vậy anh Hai không nói gì cả, chỉ lườm bọn "thứ ba" một cái mà thôi. Những lúc không có ai, Hồng còn bị anh cú đầu, và nói gọn lỏn năm chữ: “Con nhỏ này thiệt là...” Bị chọc như vậy, nhưng anh vẫn cứ gởi tiền đều đều cho chị Hai.
Suốt mấy năm trời học chung, đi chơi lăng tẩm, đền đài, hẹn nhau đi xe đò, xe lửa Saigon - Huế, đi lạc quyên cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt... chung với nhau, tình cảm của nhóm nhỏ sinh viên xa nhà này trở nên thân tình thắm thiết. Hồng và Ngọc là hai kẻ chọc ghẹo anh nhiều nhất, không chọc chị vì biết trái tim chị đã có chủ, và cũng kín đáo theo dõi phản ứng của anh Hai kỹ nhất. Không thấy gì khác lạ, chỉ có một đôi lúc bất chợt bắt gặp ánh mắt anh có vẻ xa vắng dõi theo bước chân của nhóm mình. Cả hai thắc mắc nhưng để bụng. Hôm ấy đám nam nữ "vô gia cư" gốc Sài Gòn mở tiệc Tất Niên tại nhà trọ, ngôi nhà các thầy đã mướn giùm cho đám nữ sinh viên của trường. Như thường lệ, cả bọn tập hợp để ăn uống và ca hát với nhau cho quên sầu xa xứ. Anh Hai ngồi tựa cửa sổ nắn nót phím đàn guitar mắt nhìn xa xăm. Minh Tuyết đến bên Hồng bỏ nhỏ:
- Ê Hồng, hình như anh Hai đang sầu tình.
- Ai vậy? “Thừa Thiên đi dễ, khó về. Trai đi có vợ, gái về có con”. Chuyện không lạ. O nào (cô nào) lọt mắt xanh của anh vậy?
- Không phải gái Huế, người trong nhóm bọn mình.
Hồng nêu thắc mắc:
- Đúng không đó? Mày giàu tưởng tượng thôi. Anh biết chị Hai đã có “kép chánh”, "dzô" sao được mà "dzô". Trễ một bước rồi!
- Là mày đó, Hồng.
- Nói bậy. Bịa thì phải có căn có cơ chớ.
Minh Tuyết giải thích:
- Dạo sau này tao thấy anh buồn lắm và hay lặng lẽ nhìn bọn mình.
Hồng cãi:
- Không phải. Anh chấm mày đó, Minh Tuyết à. Anh đâu dám cú đầu mày, chỉ cú đầu tao thôi, vì coi tao như em gái ruột, dù là ruột dư cũng là ruột.
Đang cù cưa cù nhằn với nhau thì Thu Sầu đến bên Hồng nói:
- Chị ra ngoài, em có chuyện cần một chút.
Hồng xin lỗi, bước theo Thu Sầu ra sân trước. Thật ra tên khai sanh của cậu sinh viên này là Tâm, tên ở nhà là Thu. Theo chữ Hán, Thu và Tâm kết hợp thành chữ Sầu, nên cậu có biệt danh là Thu Sầu. Tâm với Hồng rất thân tình, có thể nói thân như chị em ruột tuy không cùng chung máu mủ với nhau. Cha mẹ Tâm và cha mẹ Hồng là đôi bạn thân với nhau từ trẻ, thường xuyên thăm viếng qua lại với nhau. Tâm học dưới Hồng một lớp. Cậu này đang lúc học trường Pháp Jean Jacques Rousseau thì theo bạn bè con nhà giàu ăn chơi, vác dao búa đánh lộn. Mẹ cậu là Giám Học trường Gia Long, một bà "Mạnh Mẫu thế kỷ thứ hai mươi", quyết định bỏ mộng cho con du học Pháp, đẩy đứa con đi xa khỏi môi trường băng đảng. Vào Viện Hán Học Huế là cách tốt nhất. Bà ca tụng Huế và con gái Huế đẹp, dịu dàng, nết na, ai cũng có mái tóc dài thật quyến rũ... Cậu ta mê "tóc thề thả gió lê thê, em ơi đợi anh về", thế là mắc mưu bà mẹ. Có lẽ nhờ bài Pháp Văn được điểm cao bù lại cho bài luận Việt nên cậu trúng tuyển. Cậu trọ tại cư xá dành riêng cho nam sinh viên ở Nam Giao nên có nhiều tin nội bộ nóng bỏng. Cậu nào thầm yêu trộm nhớ cô nào, cô nào đi chơi tay đôi với cậu nào, Thu Sầu đều biết.
Ra tới sân, không chờ Thu Sầu lên tiếng, Hồng vội hỏi:
- Sao? Bộ có tin tức gì quan trọng hả, Thu Sầu?
- Cho chị một tin vui đây. Anh Văn lớp B yêu chị đấy. Anh ấy tài lắm, vấp một cái... ra được một bài thơ tặng chị nè.
- Cho mày đấy, tao không thèm đâu.
- Thôi mà chị, "chiều mưa đi với em làm tim anh rạo rực" còn chối làm gì? Chung đường, không biết có chung cây dù hoặc chung áo mưa hay không?
- Thằng quỷ, mày nói bậy bạ làm tao mang tai tiếng, tao “dợt” mày bây giờ.
- Trời, chị dữ quá! Vậy mà cũng có người ngu đút đầu vô yêu. Ai biểu chị đi cặp kè với anh dưới mưa phùn lất phất, tình ơi là tình, làm tim anh không rụng rời sao được.
Tiếp theo hắn vừa cười cười vừa đọc mấy câu thơ sau:
"Chiều nay anh đi thơ thẩn,
Màn trời giăng mắc mây mưa,
Lá cây gào trong biển lệ,
Con đường - đây phải đường xưa?"
(Trần Văn)
Xong, Thu Sầu phê ngay một câu:
- Thơ thất tình của anh ta đó. Tội chưa tề!
Bữa đó, xe đạp của Hồng bị hư, đang bỏ cho thợ sửa. Trời mưa, đi một mình trên con đường vắng nàng sợ ma sống, nên đứng chờ tạnh mưa ở sân trường. Anh Văn tiến tới hỏi:
- Răng Hồng còn đứng đây, chưa về? Thiên hạ về hết rồi tề.
- Chờ tạnh mưa, đường sá đông đúc, đi về cho đỡ sợ.
- Hồng ngồi lên xe, tôi đèo về.
Ở Sài Gòn mà anh nói câu này, Hồng ừ liền. Ở Huế thì chết với miệng thế gian nên Hồng ngần ngừ không trả lời. Anh biết ý, liền đưa đề nghị khác:
- Hay là như ri, tôi dẫn bộ xe cùng đi với Hồng một đoạn đường.
Nàng nhìn quanh, sân trường vắng bóng người, ở lại cũng không tiện nên gật đầu đồng ý. Song hành với anh trên con đường vắng giống như một cặp tình nhân, Hồng đâm ra thẹn thùng, ngượng ngập, vừa đi vừa kéo mũ áo mưa xuống che mặt để tránh người quen bắt gặp. Tưởng không ai biết, bây giờ cậu Thu Sầu này biết là do anh ấy tiết lộ làm Hồng vừa mắc cỡ vừa nổi giận. Xứ Huế này nhỏ bằng nắm tay, chuyện nhỏ cỡ cây kim, cả thành phố đều hay biết. Kiểu này thì hỏng bét, nàng có phải là người yêu của anh ta đâu. Văn tiết lộ như vậy dù vô tình hay cố ý là anh ta đã lập "hàng rào ấp chiến lược" để cô lập nàng và giành độc quyền cho anh ta. Hồng nổi nóng, nghĩ Văn có gian ý và bỗng dưng nhớ câu truyền tụng trong dân gian ở Huế: "Sơn bất cao, thủy bất thâm, nam đa trá, nữ đa dâm". Nàng từng đả kích kịch liệt câu này và cho rằng mấy ông phong thủy nói bậy làm mất đi hình ảnh thơ mộng của Huế. Bây giờ nàng lại cho là đúng vì anh chàng Văn si tình "đa trá" dưới mắt nàng. Hồng không thấy cái tình cảm đậm chất lãng mạn của bài thơ mà chỉ thấy thật là vô duyên thôi. Thêm nữa, Hồng đã hứa với mẹ nàng chỉ tập trung học hành, không yêu đương lăng nhăng, và cũng đã cùng với năm "đồng bọn Nam Kỳ Quốc" móc ngoéo với nhau nhất định chứng tỏ cho mọi người thấy câu ca dao đầy tự hào của Huế: "Thừa Thiên đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về có con" là sai nên nàng đe dọa Thu Sầu:
- Đừng nói bậy nghe, chuyện không đâu mà tiếng dữ đồn xa, mày chết với tao.
- Chị có ngon thì bịt miệng ảnh, biểu đừng làm thơ nữa và... "anh ơi, đừng làm em ốt dột". Ha ha ha...Gieo nhân nào gặt quả đó nghe chị...
Nói xong, hắn bỏ đi miệng cười cười trông phát tức. Hồng nghĩ có lẽ do cái gốc ban Toán, cộng thêm cái "gien" khoa học kỹ thuật của gia đình, cho nên nàng học không khá về môn văn chương. Cha nàng là giáo sư trường Kỹ Thuật, các em trai gái của nàng sau này đều theo những môn Khoa Học làm thầy dạy Toán, Lý, Hóa, duy chỉ mình nàng lạc đường vào văn chương. Hồng vẫn nhớ mãi vào năm trước, thầy dạy sử Trung Quốc rất sính thơ Đường, một hôm thử tài đám môn sinh, ra đề mỗi người làm một bài thơ Đường bằng chữ Hán. Hồng kêu Trời như bộng, thơ lục bát tiếng Việt nàng làm còn không xong, bảo sao làm được thơ Đường mà lại bằng chữ Hán!
Sau mấy ngày vắt óc Hồng cũng ráng “nặn” ra một bài Đường thi ngũ ngôn tứ tuyệt. Nàng không biết thơ mình có đúng niêm, luật, đối, vần hay không và "hay ho" như thế nào, chỉ nhớ đời hai câu cuối vì tội làm đạo chích, chôm từ bài Xuân Tứ nổi tiếng của thi sĩ Lý Bạch bên Tàu, chỉ đổi hai chữ "minh nguyệt" thành "hỏa xa" mà thôi. Nàng bị thầy cười hì hì khi đọc lên hai câu đó: "Cử đầu vọng hỏa xa, đê đầu tư cố hương". Xe lửa chạy trên trời cho nên phải ngóc cổ mà ngóng trông. Mặc mọi người cười, Hồng ngụy biện: đây là lời tiên tri cho nền khoa học kỹ thuật nhân loại mai sau mà Hồng là nhà Tiên Tri đại tài, có thơ văn để lại làm bằng chứng. Từ đó nàng từ giã mộng làm thi sĩ, văn sĩ. Bởi thế cho nên, ai "cua" nàng mà làm thơ là nàng bị “dị ứng” dù rằng thơ có hay cách mấy cũng không tránh khỏi thất bại.
Nghĩ tới đây Hồng tủm tỉm cười một mình. Ủa, tại sao lại cười? Thích chí bởi có người lụy tình vì ta hay sao? Đang lòng tự hỏi lòng thì chị Hai réo gọi ơi ới làm nàng tỉnh giấc... mơ hoa. Chị cằn nhằn:
- Đi đâu mất biệt nãy giờ, không phụ một tay gì hết. Vào đi. Mọi người đang chờ kìa. Hôm nay có món đặc biệt. Lát nữa rồi biết.
Hồng ngồi đối diện với anh Hai. Bản tánh anh nghiêm trang, ít nói, nên tuy các bạn và nàng dò xét mà cũng không biết thực hư thế nào. Bên trái nàng, Ngọc cũng lặng lẽ, khác hẳn ngày thường. Bên phải là Ngân Trang nổi tiếng ít lời xưa nay. Bầu không khí kỳ kỳ là lạ, thật mất vui. Thu Sầu ngồi cuối bàn đang nheo mắt chọc nàng.
Chị Hai tuyên bố khai mạc, xong đề nghị toàn thể hát bài Ly Rượu Mừng. Có khi nào chị hát hò đâu, sao bây giờ nổi hứng bất tử vậy? Thật đúng là chuyện lạ bốn phương!!! Bài hát không đem lại bầu không khí Tết như ý muốn vì Hồng đang quạu đeo, mặt khó đăm đăm, Ngọc đang ủ dột vắng nụ cười. À, cô nàng có lẽ không được thư người hùng Sĩ Quan Đà Lạt chúc Tết đấy mà. Bà chị Hai hôm nay đang rộn ràng ồn ào, có lẽ được thư hay quà của anh Cả. Đám nữ Sài Gòn này có chị Hai, anh Hai, cho nên người yêu của chị được "phong chức" anh Cả. Các cô tự động coi anh Cả như ông anh rể của mình. Tết nào anh cũng lì xì tượng trưng một đồng lấy hên cho mấy đứa "em dzợ" hờ tương lai. Tiệc tùng xong, ban Văn nghệ Nam Kỳ làm việc. Anh Hai lên dây, so phím hát bài Tàu Đêm Năm Cũ. Chị Hai khui hộp bánh ngoại hiệu Biscuit làm tại Pháp. Mùi bánh thơm phức thật hấp dẫn. Mấy khi được ăn bánh ngoại quốc, Hồng giơ tay toan nhón lấy một cái thì Ngọc khều nàng nói nhỏ:
- Bánh này không phải của anh Cả đâu, của anh chàng kỹ sư đang nạp đơn tuyển phu của bà chị mình đó. Tao không ăn để phản đối bà chị mình đang rắp tâm làm kẻ bội bạc với mối tình sáu bảy năm dài. Tao ghét kẻ bạc tình lắm.
- Ờ hén, tao cũng không ăn để cho bà chị giựt mình mà hồi đầu.
Hồng xẵng giọng với chị:
- Không ăn, chị ăn hết một mình đi.
Ngọc tiếp lời cay đắng:
- Không ăn bánh của kẻ bạc tình.
Chị xụ mặt, đưa hộp bánh về phía khác. Tiếng nhạc tiếng ca át tiếng nói của hai người nên chẳng ai nghe biết gì cả. Ngọc cáo lỗi bảo là đang đau bụng, nên vào phòng trùm chăn nghỉ mệt. Thừa dịp, Hồng theo Ngọc vào phòng để ngầm tẩy chay bà chị. Ngọc có tật hễ có chuyện gì không vừa ý là vào phòng, nằm trùm mền kín mít khóc lẻ loi một mình. Nghe tiếng khóc nho nhỏ của bạn, Hồng hoảng hốt hỏi rối rít:
- Bộ đau bụng dữ lắm hả? Có tiêu chảy không? Coi chừng đau ruột dư đó. Úy Trời! Ngày tết ngày nhứt, bác sĩ, y tá nghỉ ở nhà ăn Tết gần hết rồi, chỉ còn vài người trực thôi. Xe xích lô cũng nghỉ ăn Tết, làm sao vô bệnh viện đây? Ngồi xe đạp nỗi không? Hay là tao cho anh Hai biết để cõng mày vô bệnh viện?
Hồng dợm đứng dậy, Ngọc chụp tay nàng kéo lại, khóc to tiếng hơn làm nàng càng bối rối, hỏi tới tấp:
- Chuyện gì? Đau lắm hả? Đau chỗ nào? Có đau ở phần bụng bên phải không? Dầu cù là đâu, tao xoa bụng cho.
Ngọc nức nở:
- Không, không, tao không đau bụng, tao đau lòng lắm mầy ơi. Anh ấy phản bội tao, bỏ tao rồi, đang cặp với con bạn tao ở quê nhà. Xa mặt cách lòng, cái thứ bạc tình, cái thứ vô lương tâm, cái thứ bất nhân, bất nghĩa, cái thứ...
- !!!...
Ngơ ngẩn một hồi Hồng mới bình tĩnh khuyên một câu thật vô duyên:
- Cái thứ bạc bẽo đó, hơi sức đâu mà thương mà tiếc. Bỏ cho chó gặm đi.
Để yên cho Ngọc khóc, Hồng ngẫm nghĩ: đâu phải chỉ con trai Huế đa trá, con trai Nam Kỳ cũng đa trá, miệng nói yêu người này mà lòng lại kết với người kia như anh chàng Võ Bị Đà Lạt của Ngọc. Còn bà chị mình nữa, yêu anh Cả sáu bảy năm trời, gia đình cản trở thì phải cương quyết tranh đấu cho tới cùng, cũng phải "tam tứ núi cũng trèo, thất bát giang cũng lội, cửu thập đèo cũng qua" mới phải chứ, sao bây giờ lại kết với anh chàng kỹ sư nào đó. Anh Cả có biết hay không? Mình có nên báo cho anh Cả biết không hè? Còn anh chàng Vũ lúc ở Vũng Tàu thì tuần nào cũng đem mắm về lấy lòng mẹ mình và mình, bây giờ bị mấy cô gái Đà Lạt hớp hồn rồi nên cả năm không gởi được một lá thư. Cũng may Vũ còn nhớ tới nàng nên gởi một Thiệp Xuân với hàng chữ chúc Tết ngắn ngủn theo thông lệ. Chán ơi là chán! Mình phải trách ảnh keo kiệt chữ viết và nghèo nàn ý tứ mới được.
Có tiếng gỏ cửa, chị Hai bước vô. Ngọc nín khóc, quay mặt vô vách nói vói:
- Chị ra ngoài đi. Tôi ghét kẻ bạc tình.
Chị Hai đứng tần ngần một chút rồi đi ra. Hồng ngồi yên lặng, mặc cho Ngọc khóc trôi gối trôi mền. Nàng lẩm nhẩm đọc hai câu thơ của anh Văn: "Lá cây gào trong biển lệ, Con đường... đây phải đưòng xưa" lòng dâng lên một tình cảm khó tả, vui không ra vui, buồn không ra buồn, một chút bâng khuâng, một chút hờn giận...
Viện Hán Học (Huế) ngày Khai Giảng niên khóa 1960-1961 tại Di Luân Đường
Chương 3
Có trăm lần vui
1.
Trong lúc chờ tới giờ thi cuối niên khóa môn Sử Tây Phương của thầy Châu, Minh Tuyết và Hồng tìm một chút khí trời mát mẻ dưới tàng cây rậm nơi sân trường. Hai cây quạt giấy làm việc hết “công suất” mà hai nàng vẫn cảm thấy nóng như đứng trước lò than, phồng mang trợn má thổi lửa. Tiếng hát buồn lê thê từ máy truyền thanh nhà bên cạnh trường vẳng sang: "Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn..." Vậy mà hai nàng nghe không cảm thấy thi vị gì cả.
Minh Tuyết rất thực tế, cười khẩy rồi lẩm bẩm nói:
- Mấy ông nhạc sĩ chuyên phóng đại. Vui chỉ có một phần trăm của buồn thì tại sao thiên hạ cứ đâm đầu vào yêu? Mầy thấy đó "em" Ngân Trang là người mặt mày lúc nào cũng lạnh như cục nước đá, nhưng từ ngày có chàng sinh viên Luật Khoa kè kè bên cạnh, tao bắt gặp "em" cứ tủm tỉm cười một mình hoài, trông phát... ứa gan!
- Mầy không có ai rồi tức hả? Nó học thêm bên Luật chớp được anh Luật sư tương lai. Người xổ nho chùm, người xổ hết luật rồi lệ ra để đấu lý, coi bộ vui hỉ. Còn Văn Khoa với Viện Hán Học của ta giống như tay mặt tay trái. Hai tay này không đánh nhau đâu mà sợ vạn lần buồn. Kẻ thì ư ử:
"Thiên địa phong trần,
Hồng nhan đa truân,
Du du bỉ thương hề
Thùy tạo nhân..."
(Chinh Phụ Ngâm Khúc- Đặng Trần Côn)
Người thì ngâm nga:
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này..."
(Chinh Phụ Ngâm Diễn Nghĩa- Đoàn Thị Điểm)
Cả hai hạp nhau dữ đa! Mi kiếm một anh Văn Khoa cho có với người ta, khỏi ứa gan nữa.
Minh Tuyết đáp:
- Tao đã nói rồi, tao chỉ thích về quê Mỹ Tho ăn hủ tiếu thôi. Cơm hến, bún bò Huế cay lắm, tao sợ. Còn mầy, "chuyện tình dưới mưa" tới đâu rồi? Anh chàng Văn Thầy Đồ Nho làm thơ tình toàn nước mắt của mày đang ngồi ngắm ruồi làm thơ trong lớp kìa. Trông anh tội chưa tề!
- Anh ta rút êm rồi. Có lẽ bữa đó tao phản ứng hơi nặng, Thu Sầu báo cáo sao đó mà anh im hơi lặng tiếng.
- Còn anh chàng Mắm Bà Giáo Thảo của mày ra sao rồi, có gì hấp dẫn không?
- Tao mới được một lá thư hết xẩy. Thôi, không đưa mầy đọc đâu. “Quê” cho tao lắm.
- Từ trước tới giờ tao không giấu chuyện gì với mày cả. Sao mầy lại giấu tao? Không phải bạn hiền rồi nha.
Hồng ra điều kiện:
-Tao đưa mày đọc, nhưng phải hứa là không cười tao, không cho ai biết cả.
- Ừ, hứa.
Hồng mở cặp, đưa bức thư của Vũ mà nàng mang theo cả tuần nay cho Minh Tuyết đọc. Trong thư cũng chỉ là một bài thơ. Ôi chao! Sao ai cũng biết làm thơ duy một mình Hồng là dốt thơ quá!
Nhớ Người Gia Long
"Đêm nay ứng chiến, đêm mai gác,
Còn có đêm nào nhớ tới em...?"
Dù thư em trách êm đềm
Cũng là chua xót làm mềm lòng anh.
Ba lô súng đạn dã hành
Mang theo hình bóng người tình Gia Long.
Ai mong thỏa chí tang bồng
Anh tập canh giữ giấc nồng em say.
Một ngày rồi lại một ngày
Một hai ba bốn nhịp giày đều chân.
Tập cho quen với phong trần
Rèn cho chân cứng đá mòn là đây.
Những đêm dã chiến đọa đày
Bi đông hết nước môi mày héo khô.
Dáng em thấp thoáng mập mờ
Anh lao vút tới cơ hồ thiêu thân.
Đạn cày mìn nổ dưói chân
Mục tiêu đã chiếm thiên thần anh đâu.
Bập bùng ánh sáng hỏa châu
Mắt em tỏa sáng tình đầu mong manh.
Tương lai ước mộng bại thành
Tình anh vẫn mãi một mình em thôi.
nvs.Vũ Thụy
Đọc xong Minh Tuyết hỏi:
-Mèn ơi, mi làm hai câu thơ trách móc “tình” quá làm chàng không hồn xiêu phách tán sao được?
- Tao mà làm được thơ cho tao cùi sứt móng. Tao chỉ viết thư thôi, ảnh “hô biến” thành thơ đó.
Minh Tuyết trêu Hồng:
- Ôi chao! Thơ lãng mạn dễ sợ! Anh chàng này miệng ngọt như mía lùi. Thực tập ở quân trường, anh chàng biết đạn giả nên lì đòn kiểu đó, chứ đánh giặc thực sự mà không thấy giặc, chỉ thấy “em” ở mục tiêu thì… chỉ có từ chết tới bị thương thôi! Làm quả phụ sớm đó… em. Mày trả lời thư chưa?
- Chưa. Biết nói gì bây giờ? Chỉ là một bài thơ, chứ có phải một bức thư tỏ tình chính thức đâu mà trả lời trả vốn. Tao lại không biết làm thơ nên làm sao có thơ đáp lễ được? Không chừng ảnh đang vừa ngồi với một người đẹp ở phòng trà vừa làm bài thơ đó cho tao.
Minh Tuyết cười trêu tiếp:
- Hờn giận rồi hả bạn? Đừng lo. Ngồi với người đẹp thì còn hồn vía đâu mà làm thơ? Kiểu này là anh chàng bị giai nhân không cho “canh giữ giấc nồng em say” mới làm thơ được và vớt vát lại bằng câu “Tình anh vẫn mãi một mình em thôi” để lấy lòng em gái Gia Long. Xạo đó, đừng tin.
- Mày khó tính quá! Hèn chi có mấy cặp mắt theo dõi mày mà không ai dám bén mảng đến gần.
Bị chạm nhược điểm, Minh Tuyết bèn nói lảng:
- Mặc kệ tao! Lo chuyện thi cử đây nè. Hôm nay,ráng làm bài cho nhanh, ra về sớm một chút để hai đứa mình còn sang Văn Khoa xem lịch trình thi nghen.
Hồng chưa kịp đáp lại thì Minh Tuyết nháy mắt ra hiệu. Chị Hai và Ngọc, hai người đang "đường vào tình yêu có vạn lần buồn," bước vô cổng với vẻ mặt như hoa mùa hè thiếu nước. Minh Tuyết nắm tay Hồng bước tới, toan tìm cách nói vài lời thông cảm vừa lúc thầy Châu bước vào trường. Thầy còn trẻ, lớn hơn sinh viên không bao nhiêu tuổi nên đi dạy thầy luôn luôn vận côm-lê để ra vẻ một người thầy. Dáng thầy gầy và cao, đi xe đạp đòn dông cũ, áo vest ủi thẳng, sơ mi trắng toát, cà vạt hợp thời trang, giày bóng loáng, tóc tai tươm tất. Trông thầy rất đạo mạo, oai nghiêm nhưng lại là một ông thầy chịu chơi nhất trường. Chịu chơi ngầm thôi nhưng ai cũng biết! Có lẽ vì chịu chơi quá nên thầy không tiền mua xe gắn máy. Bốn mùa thầy đều ăn mặc như vậy, bất kể mưa rào hay mưa dầm, gió heo may hay gió bão, nắng ấm hay nắng đổ lửa.
Minh Tuyết nói nhỏ vừa đủ cho Hồng nghe:
-Mùa hè mà thầy mặc côm-lê, đi xe đạp đòn dông cũ dưới cái nắng toé lửa của xứ Huế, thật thảm làm sao! Hì hì hì...
Như đã hẹn trước hai cô kết thúc bài thi sớm, không cần điểm cao chỉ cần đủ điểm để lên lớp và có học bổng, còn dành thời giờ cho bên Văn Khoa nữa. Ra khỏi lớp, Hồng định tạt vào văn phòng để lấy thư (nhà trường ưu ái đám sinh viên xa nhà nên cho phép dùng địa chỉ trường để nhận thư) Minh Tuyết bỗng đề nghị:
- Hồng này, còn sớm, mày canh chừng để tao xì bánh xe đạp thầy Châu cho thầy te tua với cái nắng mùa hè một bữa.
Hồng nhìn quanh quất, sân trường vắng lặng, chỉ có hai cô. Có lẽ bị ma ám nên nàng hưởng ứng nhiệt tình, không chút do dự. Xong việc, cả hai vào văn phòng lấy thư. Hôm ấy Minh Tuyết được thư bảo đảm của gia đình gởi tiền cho xài nên rất hí hửng, miệng cười toe toét. Hồng được hai lá thư: một từ Quân trường Không Quân Nha Trang của Quân, một người anh họ thân thiết với nàng như anh em ruột, và một lá thư không đề địa chỉ người gởi, chỉ trơ trọi tên Lữ và con dấu bưu điện tỉnh Pleiku. Bấy lâu nay một số sinh viên lên đường nhập ngũ, trong số có sư huynh Lữ của những ngày Hồng mới đến đất Thần Kinh này. Sư huynh ra đi, không một lời từ giã. Bây giờ từ chiến trường anh gởi về cho Hồng một lá thư. Nàng cất thư của sư huynh vào cặp, mở thư của anh Quân ra đọc trước. Hồng và Minh Tuyết đứng tựa cửa sổ ở văn phòng vừa đọc thư, vừa ngó chừng ra sân. Minh Tuyết ghé mắt vào bì thư của Hồng, tò mò hỏi:
- Này "em", "em" có người yêu là Người Hùng Trên Không hả?
- Bậy mày, anh tao đó. Có muốn làm chị dâu tao, ăn mía Hiệp Hòa thả giàn thì hè này trên đường về, ghé Nha Trang một vài bữa ‘xem mắt’ anh tao. Ảnh đang thụ huấn quân sự nên than buồn, than cực khổ...cần người an ủi, khích lệ tinh thần đây nè.
- Ghé lại thì ghé, sợ gì. Tao có con bạn học Văn Khoa gốc Nha Trang, tụi mình có thể tá túc một vài ngày được. Mình du ngoạn, ngắm cảnh, xem di tích Chàm cho thỏa thích.
- "Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy".* Nhớ nghen.
Tiếng chuông reng báo hiệu hết giờ thi. Sinh viên túa ra, tụ họp bàn thảo chuyện bài thi. Minh Tuyết và Hồng nhào vô góp lời. Thầy Châu bước tới xe đạp, thấy bánh xe bị xì hơi, mặt thầy... hết đẹp trai. Thầy buồn bực và thiểu não dẫn xe đạp dưới cái nắng đổ lửa để tìm chỗ vá lốp. Minh Tuyết và Hồng đưa mắt nhìn nhau mỉm cười thú vị. Ngay lúc đó, chợt nghĩ tới Bến Ngự, nơi tọa lạc của Viện Hán Học mấy năm sau này, không có chỗ nào bơm vá lốp xe đạp, mãi tận Đông Ba mới có, Hồng liền bị mấy cái răng của lương tâm cắn cho vài phát đau điếng. Bước ra cổng, nhìn theo cho đến khi dáng thầy khuất ở khúc quanh cuối đường, Hồng mới nói nhỏ với Minh Tuyết:
- Thôi, hỏng rồi. Kiểu này có lẽ thầy phải dẫn bộ về nhà. Nhà thầy ở tận Đập Đá, xa đây lắm. Tụi mình chơi ác quá!
- Ừ nhỉ, tao quên mất ở gần đây không có chỗ nào sửa xe đạp. Bây giờ phải làm sao?
Hồng tiếp:
- Thì xin lỗi thầy chứ sao. Chờ vài ngày cho cơn giận của thầy dịu xuống, chúng ta đến xin lỗi thầy. Mầy là chính phạm, mầy nói trước nghe. Tao, tòng phạm, sẽ nói sau.
Hai cô lủi thủi về nhà. Hồng mở thư của sư huynh Lữ ra đọc. Trong thư anh gởi cho nàng một bài thơ ngắn tựa đề là Nhớ Áng Mây Hồng và hỏi thăm "Em đã đọc được Tì Bà Hành chưa?" Thế thôi.
Bài thơ được viết nắn nót đẹp mắt:
"Tình ta là một con sông
Vì em nghiêng bóng nghẽn dòng nước trôi.
Đời ta là cánh Chim Trời
Nhớ ngàn Mây ấy có đời nào quên!"
(Lữ)
Lá thư vỏn vẹn có mấy dòng mà nói lên thật nhiều tâm tư tình cảm làm Hồng xao xuyến cả lòng. Nàng ngồi ngẩn ngơ một lúc lâu, chợt nhận thấy mình biết cảm xúc khi đọc thơ. Khúc phim dĩ vãng lúc mới nhập học được quay lại. Nàng ân hận đã bỏ quên anh trong đống sách vở của nàng bấy lâu nay. Hồng bần thần lục tìm quyển Tì Bà Hành anh tặng năm xưa. Nhìn nét chữ vuông vắn, ngay ngắn, đều đặn của anh, bây giờ có học, có tập viết chữ Hán bằng bút lông nàng mới biết anh mất nhiều thời giờ và công sức mới hoàn thành được quyển này. Động lực nào thúc đẩy anh làm như vậy, riêng cho nàng, chỉ một mình nàng mà thôi? Vậy mà nàng không có một ánh mắt nhìn thông cảm khi thấy anh ngồi lặng lẽ theo dõi bước chân mình. Hình như nàng cũng không có một tiếng cám ơn khi nhận sách vì anh vội vàng quay đi trong khi nàng đang còn ngẩn ngơ. Một nỗi ân hận tràn vào tâm trí. Hồng thầm thì nói với bức thư: "Lúc đó em còn khờ và dốt lắm anh ạ. Cầm quyển sách mà có đọc được chữ nào đâu, còn cái tựa Tì Bà Hành thật lạ hoắc với em. Em đã phân vân tự hỏi không biết đến bao giờ mới đọc thông suốt. Tặng sách làm chi mà sớm quá vậy? Bây giờ sau ba năm học tập, em đã biết giá trị của quyển sách và tình cảm của anh biểu hiện qua công phu chép sách thì…chiến trường anh biệt tăm. Anh không cho địa chỉ, em biết đâu mà hồi âm?"
Nghe Hồng lầm bầm, Minh Tuyết tròn mắt nhìn, Hồng đưa thư cho Minh Tuyết đọc. Đọc xong, Minh Tuyết buông "một nhát dao lạnh lùng:"
- Muộn rồi! Chờ kiếp sau vậy. Ồ!...Nhưng kiếp sau biết có hay không để mà chờ!
Đợi kết quả thi cử xong xuôi, hai nàng mới dám tìm thầy Châu tự thú chuyện chơi dại của mình. Thầy không tin, vì có lẽ ở Huế lúc đó không có cô nào dám chơi trò nghịch ngợm như vậy và lời tự thú của hai nàng có lẽ thiếu chân thành chăng. Thầy nói: "Tôi biết không phải mấy chị mà là người khác". Chao ôi! Anh nào bị thầy nghi oan vậy? Tuy nhiên Hồng cũng vớt vát ba chữ "thiệt mà thầy" cho lương tâm ngừng cắn rứt. Thầy không tin, hai cô cũng không dại gì khăng khăng ôm tội vào người, lỡ bị lên văn phòng gặp thầy Giám Học cho một bài học Luân Lý Giáo Khoa Thư thì bẽ mặt lắm. Dầu sao đi nữa, lương tâm của cả hai cũng được ru ngủ bởi sự tự thú này.
Thi xong, kết quả khả quan, thoải mái trong lòng, Minh Tuyết và Hồng soạn vài chiếc áo dài đắc ý nhất, hớn hở lên đường quy cố hương sau hơn chín tháng ròng rã với sách đèn. Trên đường về, hai cô dừng chân hai ngày cuối tuần ở Nha Trang, trước là để ngắm cảnh, hưởng gió mát trong lành của biển cả, sau là ghé thăm anh Quân của Hồng đang thụ huấn ở Quân Trường Không Quân.
Chị Hai đang có "nội chiến" từng ngày không biết chọn ai, một người đã có nhiều kỷ niệm nhưng cha mẹ không bằng lòng, một người đang xây đắp từng ngày tình yêu và kỷ niệm với chị. Minh Tuyết chưa có ai tỏ tình và Vũ vẫn chưa phải là người yêu của Hồng nên có thể nói hai nàng chưa biết tình yêu mặn ngọt như thế nào. Hai kẻ ngu ngơ trong đường tình ôm quan niệm tình yêu tuyệt đối, "yêu ai yêu cả một đời" và không bắt cá hai tay. Bị hai cô nàng này phản đối, chị Hai có vẻ giận nên tách rời không đi chung. Với quan niệm kẻ phản bội không có đất đứng trong trái tim, hai cô đã làm kẻ "gỡ rối tơ lòng" cho Ngọc nên sau mấy tháng trùm mền khóc mùi mẫn, bây giờ Ngọc cũng đang có niềm vui mới. Ai cũng có mối tình giắt vai, chỉ hai kẻ cô đơn còn lại là Minh Tuyết và Hồng nên hai nàng hợp nhau cùng về chung. Vả lại, Hồng cũng muốn lãnh "đầu heo" của người anh Sinh viên Sĩ quan Không Quân của nàng.
Đến Nha Trang hôm trước, sáng sớm hôm sau vào ngày Chúa Nhật, hai nàng thả bộ dọc bờ biển vừa hứng gió mát vừa đi đến quân trường. Dọc đường các sinh viên sĩ quan trong quân phục thẳng nếp cùng với các tà áo dài muôn màu sắc bay phấp phới song hành trông tình tứ lãng mạn làm sao! Cổng quân trường đã có nhiều người hùng đang lượn qua đảo lại chờ giai nhân. Thấy anh mình từ xa, Hồng vừa cười, vừa líu lo kêu tên, vừa nhảy chân sáo tiến tới định nắm lấy tay anh, bỗng... nàng khựng lại. Bên cạnh anh, một anh chàng dong dỏng cao, đầu húi gần như trọc, da sạm nắng gió Nha Trang, đang nhìn nàng với ánh mắt cười cười một cách thú vị. Một cú giáng bất ngờ! Anh ta không chờ giới thiệu, lên tiếng trước:
- Chào cô bé, tôi tên Đông, hân hạnh được quen biết với Hồng. Tôi là bạn thân với anh cô, nên mạn phép gọi cô là em.
Một cú giáng thứ hai! Hồng tròn mắt nhìn anh ta, nàng vừa ngạc nhiên sao trong hai cô anh biết ai là Hồng, vừa giận trong lòng vì không những anh dám gọi mình là cô bé, mà còn đòi gọi là em nữa chứ. Hồng xẵng giọng trả lời cộc lốc: "Không dám!" Trả đủa được một, nhưng Hồng vẫn còn ấm ức vì anh ta vẫn dẫn đầu một bàn. Hồng quay sang anh Quân, hạ giọng ngọt ngào hơn ngày thường:
- Anh Quân nè, đây là Minh Tuyết người bạn ăn cùng mâm, ngủ cùng giường...ơ ...ơ, không phải...cùng bộ ván gỗ...thì đúng hơn, với em suốt mấy năm nay.
Anh chàng Đông vẫn với nụ cười mỉm trên môi, lịch sự xen vào chào trước.
- Chào cô Minh Tuyết, hân hạnh được làm quen với cô.
Thật là dễ giận, gọi Minh Tuyết là cô rất lịch sự, còn nàng là cô bé. Anh ta lại dẫn đầu hai bàn nữa rồi!
Sau màn chào hỏi ra mắt nhau, anh Quân ý tứ đi gần Minh Tuyết để Đông lúc nào cũng kè kè bên cạnh Hồng. Hai anh dẫn hai nàng ăn sáng, sau đó đi thăm viếng Hải Học Viện, Hòn Chồng Hòn Vợ, Tháp Chàm... Trong suốt hành trình du ngoạn trong ngày, Đông đã khéo léo kể chuyện quân trường cho hai cô nghe. Chuyện đi dây Tử thần của anh gay cấn, hồi hộp đã thổi bay mất cơn hờn mát trong Hồng. Tiếng cười dòn tan của nàng cùng nét mặt hổi hộp, ánh mắt lo âu theo dõi câu chuyện đã xóa tan bầu không khí xa lạ lúc đầu.
Khi chia tay, anh Quân và Minh Tuyết trao đổi địa chỉ. Hồng nói thầm: "Ôi chao! Anh tôi cũng khéo tán gái dữ! Không biết khi dự tuyển sĩ quan cho Không Quân, các anh có phải qua một cuộc khảo sát tâm lý không mà sao ông nào cũng được "lòng dân" hết vậy nè!" Bên cạnh Hồng, Đông xuống giọng:
- Cho anh xin địa chỉ của em.
Được dịp, Hồng vớt lại một bàn:
- Không biết. Xin phép anh Quân của em í.
- Keep in touch (Giữ liên lạc), nghe em.
Chua choa ơi, lại xổ tiếng Anh. Tuy học Anh Văn là sinh ngữ hai, nhưng Hồng không đến nỗi tệ để không hiểu được nghĩa câu nói đó. Nàng thừa thông minh để hiểu được cả ẩn ý của anh chàng nữa. Nàng vớt thêm một bàn để thủ huề, liền ra vẻ ngu ngơ hỏi:
- Anh Đông nói gì, em không hiểu. Em học tiếng Pháp mà.
Có lẽ anh ta hiểu con gái nói có là không, nói không là có, nói vậy không phải vậy, nên anh lại cười cười đáp:
- Để anh Quân giải thích cho em.
Anh ta lại dẫn đầu, tỉ lệ 5-4.
Về tới nhà không bao lâu, Hồng nhận được thư thăm hỏi của Đông. Lần đầu tiên phải đỏng đảnh làm cao một chút, chờ Đông viết lá thư thứ hai nàng mới chịu hồi âm. Nhất định phải thủ huề. Không biết Minh Tuyết như thế nào, cô nàng kín tiếng không nói và Hồng cũng không hỏi. Chuyện riêng tư của mình, nàng cũng giấu biệt bạn. Thế rồi mấy tháng hè thư qua thư lại, cũng chỉ được dăm ba cái, vì thư qua đường bưu điện không bao giờ nhanh. Mùa tựu trường của hai nàng cũng là lúc các anh lên đường sang Mỹ thụ huấn phần chuyên môn lái máy bay. Vì vậy, khi xe đò ngừng chạy đêm, nghỉ tại Nha Trang, hai nàng lòng xao xuyến, bâng khuâng nhớ người.
Lần này ở Huế, Minh Tuyết và Hồng lại có thêm mục chi tiêu mới: viết thư ra nước ngoài. Thế nên hai nàng phải tiết kiệm tối đa, lại nhịn ăn sáng, quà vặt để có tiền mua tem mà gởi thư. Thư từ cho nhau phải mất thời gian dài mới đến. Nơi quê người, nhớ quê hương, Đông đành làm người thua cuộc trước cái đỏng đảnh của Hồng. Anh viết thư thường xuyên dù có hay không có thư của nàng. Những lá thư tình chưa ngỏ đã cho Hồng một cảm giác ngọt ngào chi lạ và thổi bay mất bài thơ tình lãng mạn Nhớ Người Gia Long của Vũ mà Hồng đã thuộc nằm lòng.
Đông kể chuyện đời sống khác lạ, văn minh, tươi đẹp nơi quê người. Anh vẽ tương lai đẹp đẽ với ngày về góp phần bảo vệ Tổ Quốc, chặn làn sóng đỏ, để cho người dân xây dựng đất nước và Hồng an lành góp công sức đào tạo thế hệ trẻ cho Tổ Quốc. Hồng kể cho anh nghe nơi quê nhà đang như dầu sôi lửa đỏ. Sinh viên, đồng bào Phật tử Huế xuống đường chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm về vụ Phật Giáo. Cha mẹ Hồng đã thư từ khuyên lơn hầu như năn nỉ nàng đừng tham gia xuống đường với lý do gia đình ở quá xa, lỡ nàng có chuyện gì ông bà làm sao lo cho được. Đông cũng khuyên Hồng cẩn thận, coi chừng bị lợi dụng. Nhìn đám nam nữ sinh viên gốc Miền Nam không ai tham gia biểu tình hoan hô đả đảo cùng với sinh viên Huế, Hồng nghĩ họ có chung một lý do.
Vừa tới cổng trường, Cẩm Vân kéo Hồng ra một góc vắng nhỏ giọng:
- Thầy Phó Giám Đốc của chúng ta bị bắt bỏ tù cùng với toàn thể Khoa Trưởng các Phân Khoa Đại Học Huế. Nghe đâu hồi tháng 8 - 1963 vừa qua các vị cùng với các giáo sư đại học ra tuyên cáo chống Chính Phủ vụ Phật Giáo và đồng loạt từ chức để phản đối. Còn Linh Mục Viện Trưởng thì bị bãi chức.
- Mình làm sao bây giờ, chị Hai? Về Sài Gòn hay ở lại đây chờ?
- Từ từ, chờ xem sao đã.
Hồng góp ý với chị:
- Đám sinh viên đang xuống đường phản đối vụ bắt giam này. Chắc lần này bọn mình phải tham gia chứ.
- Ừ, phải tham gia để ủng hộ các thầy của mình. Mặc kệ, tới đâu hay tới đó.
Thế là đám sinh viên của trường nghỉ học, xuống đường rùm beng. Đại học Huế đang đứng chênh vênh trên miệng hố. Toàn thể sinh viên như rắn mất đầu, không biết tương lai đi về đâu.
Hai tháng trôi qua. Tiếp theo là cuộc Đảo Chánh xảy ra ngày 1-11-1963 lật đổ Chính Phủ Đệ Nhất Cộng Hòa. Hôm sau Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ bị thảm sát. Cuộc Đảo chánh thành công. Các thầy được thả ra. Đại Học Huế mở cửa trở lại. Sinh viên lại tung hô vang trời. Riêng Hồng lặng lẽ mặc áo dài trắng ba ngày, để tang cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cha đẻ của Viện Hán Học. Nàng không dám thố lộ cho ai biết, trước khí thế hăng say của người dân xứ Huế.
Trong mấy tháng xuống đường ủng hộ các thầy, không phải thức đêm học hành, Hồng được rảnh rổi mặc sức cho tình thư như bươm bướm bay. Khi Đại Học mở cửa trở lại, lễ Giáng Sinh cũng sắp đến. Không khí ngày lễ ở Huế năm ấy trầm lắng, không rộn ràng như mọi năm. Vừa xong một lớp ở Văn Khoa, Hồng vội vàng phóng xe về nhà để xem có thư không. Niềm vui của những sinh viên xa nhà là đọc thư gia đình và thư người yêu. Khi Hồng vừa bước vào nhà, Cẩm Vân đưa cho nàng tờ giấy báo lãnh quà:
- Có quà từ Mỹ nè! Sắp hết giờ làm việc rồi, chạy ra Bưu Điện gấp đi.
Chưa kịp nghỉ ngơi, Hồng lên xe đạp vọt lẹ. Bưu điện vào những ngày gần lễ lớn lúc nào cũng đông, nhưng vì gần hết giờ làm việc nên nàng không phải chờ đợi lâu. Sau khi nhân viên kiểm tra xong, nàng gói lại cẩn thận, lòng phơi phới vì được quà của Đông.
Vừa bước vào nhà, cả bọn xúm lại đòi xem. Chị Hai lên tiếng trước:
-Hồng này, mở ra mau, đừng sợ bọn tao xem rồi bị mất màu.
Ngọc xen vào:
- "Em" còn đang thưởng thức hương vị tình yêu đang quẩn quanh quấn quýt bên mình. Anh chàng này có cái tên nghe sao như có mùa Xuân với màu vàng rực rỡ của hoa mai lẫn màu vàng thơ mộng của lá mùa Thu đang len lén vào hồn... ai dzậy.
Một người chen vào nói:
-Xuân đâu mà Xuân, Đông mà.
Ngọc cãi lại;
- Đông là hướng Đông. Hướng Đông tượng trưng cho mùa Xuân.
Chị Hai xen vào:
- Đông Tây Nam Bắc, Xuân Hạ Thu Đông gì cũng được cả. Đừng cãi lung tung nữa, để nó mở ra xem.
Rồi cả đám hát ghẹo:
- "Mắc cỡ gì mà chẳng chịu lẹ giùm..."
Hồng đành mở hộp quà trước sự nôn nóng và tò mò của các bạn. Một sợi dây chuyền vàng nhỏ rức với mặt hình phụ nữ bán thân màu trắng ngà nổi bật trong hộp trang sức nền nhung đỏ. Hồng đang xúc động nói thầm: "Cám ơn anh, sao anh khéo chọn món quà thế" thì có tiếng cười rúc rích của Ngọc vang lên. Vẫn là Ngọc, người lúc nào cũng vui tính, dễ xúc động, dễ quên, dễ tha thứ, nói như reo:
- Sợi dây chuyền này nằm trên chiếc cổ nõn nà của... em thì... chao ôi... tuyệt!
Câu nói này làm cho Hồng thêm thích thú. Sợi dây chuyền vừa xinh đẹp, vừa lạ mắt, chưa chắc đám con gái trong lớp và ngay cả đám con gái trong xóm có được một sợi giống như vậy, vì nó được mua ở Mỹ mà dạo đó rất hiếm người được xuất ngoại. Đang sung sướng ngắm nghía món trang sức, Hà, khóa đàn em, tò mò hỏi:
- Anh chàng Không Quân này là người yêu của chị phải không? Bí mật dữ nghe! Em ở chung nhà với chị bao lâu rồi mà không biết.
Hồng e lệ đáp nhỏ:
-Không phải là người yêu đâu. Bạn thân của ông anh Không Quân của chị đấy. Anh ấy chỉ coi chị như em thôi mà.
Ngọc, lại là Ngọc, lém lĩnh cắt lời:
- Chao ôi! Anh mày cũng khéo kiếm người để... làm anh của mày dữ hén.
Chị Hai xen vào:
- Này, xạo vừa vừa thôi nhé. Coi như em mà tặng món quà như thế này. Vậy chứ ông anh mày tặng quà gì cho mày nào? Hay cũng tặng quà cho "người dưng khác họ"... coi như em gái, kẹt một chút là... lỡ "đem lòng nhớ thương?" Kể cho bọn tao nghe duyên kỳ ngộ của mày đi.
Buộc lòng Hồng phải kể sơ qua chuyện quen biết vừa qua ở Nha Trang, vừa liếc nhìn Minh Tuyết đang đứng im lặng nhìn nàng tủm tỉm cười. Trên ngực áo của "chị" có đính một tượng thiên thần làm bằng ngọc trai nàng mới thấy lần đầu. Minh Tuyết khôn lắm. Chị này - Hồng phải gọi hắn bằng chị cho quen miệng, cứ mày tao hoài có ngày anh nàng cho giập mỏ - mượn địa chỉ ở Huế của người bạn Văn Khoa gốc Nha Trang mà hai nàng có dịp tá túc mấy ngày kỳ nghỉ hè vừa rồi, để nhận thư. Do đó, không ai biết “chị” Minh Tuyết có quà để mà trêu.
Chao ôi, anh thật sành tâm lý. Con gái ai mà chẳng thích nữ trang chứ. Hồng đang xúc động vì được món quà như ý, lại thêm mấy lời chọc ghẹo của bạn bè làm nàng bối rối và ngẩn ngơ, chị Hai Cẩm Vân lại hạch hỏi:
-Này, làm gì mà ngẩn tò te vậy? Mấy anh chàng Không Quân như những cánh bướm chỉ lượn vành mà chơi. Không ai chung thủy cả. Cẩn thận nghe... em. Ai ngu thì chết.
Ngọc cầm sợi dây chuyền đeo vào cổ nàng, dí dỏm nói:
- Chàng khéo chọn thật, vừa với cổ của nàng. Từ giờ trở đi nàng mang theo chàng bên người. Hai ta trở thành "chim liền cánh cây liền cành."Ha ha ha... tình tứ quá!
Chị Hai Cẩm Vân xen vào:
- Đừng làm nó đỏ mặt chứ.
Hồng năn nỉ:
- Tội cho tao quá, Ngọc à. Thật sự là anh ấy đâu đã mở lời hay nói xa gần về tình yêu đâu mà bồ với bịch. Tình cảm giữa anh ấy và tao chỉ giới hạn ở mức bạn bè thôi. Xin đừng làm um sùm, tao "ốt dột" lắm. Tao hứa chừng nào có thư tỏ tình sẽ báo cho mày biết và nhờ mày làm cố vấn viết thư trả lời.
- Nếu không phải là bồ mày thì có ngon, hãy trả sợi dây "định tình" này lại cho chàng đi.
Chị Hai phản đối:
- Ông bà mình nói: "Bắc thang lên hỏi Ông Trời,‘tặng quà’cho gái có đòi được không?" Ngu sao mà trả. Đừng trả nghe, Hồng.
Nàng đã đeo sợi dây chuyền này hằng ngày và hãnh diện được những cặp mắt tò mò của bạn bè cùng lớp len lén nhìn, bên cạnh cũng không thiếu ánh mắt lém lĩnh của những người bạn thân chung nhóm. Nàng thầm nói: “Cám ơn anh, anh Đông!”
---------------------------
Chú thích:
*Một lời đã nói ra rồi thì con ngựa Tứ cũng không đuổi kịp. Tứ ở đây là con ngựa Tứ đời nhà Châu nổi tiếng chạy nhanh nhất, không con thú nào đuổi kịp. Chữ Tứ viết một bên chữ "tứ" có nghĩa là “bốn” để hài âm, một bên chữ "mã" nghĩa là “con ngựa” để diễn nghĩa.
Chương 4
Ước một bờ vai
1.
Năm ấy, mức độ chiến cuộc Việt Nam ngày càng gia tăng. Phương tiện đi lại bằng xe lửa và xe đò không còn an toàn nữa. Đầy dẫy trong báo chí tin tức xe lửa, xe đò bị giựt mìn, đường sá bị đắp mô, pháo kích, dân lành chết oan nhan nhản diễn ra hàng ngày. Nơi chiến trường, chiến sĩ VNCH gian nan chiến đấu bất chấp hiểm nguy; ở hậu phương các nhóm tướng lãnh chỉnh lý, đảo chính giành quyền lực, tín đồ Phật giáo vẫn tiếp tục xuống đường. Xã hội vô cùng bất ổn. Đường về quê nghỉ hè của đám sinh viên Miền Nam chỉ an toàn bằng phương tiện hàng không. Tuy nhiên, không phải ai cũng có tiền để mua vé máy bay dân sự, trong số ấy có Minh Tuyết, chị Hai, và Hồng. Nhìn các bạn ra về mà Hồng sốt ruột. Chị Hai lúc nào cũng đáng mặt đàn chị, đưa ý kiến:
- Để tao tìm cách cho ba đứa mình về an toàn.
Nghe chị nói vậy, Minh Tuyết im lặng, Hồng rụt rè hỏi:
- Anh kỹ sư đâu, không tặng chị một vé máy bay?
- Thôi bỏ đi, tao đã khước từ lời cầu hôn của anh ấy rồi. Đừng nhắc tới nữa.
- Còn anh Cả?
- Ba má tao phản đối quyết liệt quá, chắc không xong! Cũng xin tụi bây đừng nhắc tới nữa.
Hai ngày sau, chị Hai mang về ba tờ Sự Vụ Lệnh cho phép đi khứ hồi Huế - Sài Gòn bằng máy bay quân sự với danh nghĩa là thân nhân của các Tử Sĩ Quân Lực VNCH. Sự Vụ Lệnh ghi Hồng được phép đi tảo mộ thân nhân là Tử sĩ Trần Tạo, Trung Sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Hồng thầm cám ơn anh Trần Tạo, một người không quen biết, đã hi sinh để cho dân sống bình yên, và để nàng về Sài Gòn an toàn. Thế là ba nàng dẹp bút nghiên sang một bên, đi về nghỉ hè vui vẻ đầm ấm với gia đình suốt ba tháng. Những ngày hè năm ấy, Hồng có nhiều thì giờ để viết thư cho Đông, ông anh "người dưng khác họ," bỏ rơi mất ông anh Quân "mai dong" của mình vì biết rằng anh ấy đã có bạn mình chăm sóc về mặt tinh thần lẫn tình cảm rồi.
Chớp mắt đã đến ngày tựu trường, ba cô lục đục thu xếp quần áo, thức ăn khô cho mình, và ghi tên đi máy bay quân sự trở lại Huế. Năm ấy là năm học cuối cùng. Mới đó mà Hồng và các bạn sắp tốt nghiệp rồi. Thời gian sao quá nhanh! Đêm cuối cùng ở Sài gòn, Hồng lên giường sớm để chuẩn bị ngày mai lên đường, nhưng nàng chập chờn khó ngủ, mãi đến quá nửa đêm mới chợp được mắt. Sáng hôm sau, khi thức dậy nhìn đồng hồ Hồng thấy còn sớm, định nằm thêm năm mười phút nữa thì nàng nghe giọng chị Hai Cẩm Vân inh ỏi réo lên:
- Hồng! Mi đâu rồi? Lẹ lên! Hôm nay Chúa Nhật, coi chừng kẹt xe, trễ chuyến bay.
Hồng lật đật ngồi dậy, làm vệ sinh, mặc vội chiếc áo lụa Hà Đông. Khi nàng vói tay lấy hộp phấn hồng, định thoa lên má thì chị Cẩm Vân gạt ra:
- Thôi! Còn chưng với diện! Đi máy bay quân sự toàn cô nhi quả phụ, có ai ngắm đâu mà xí xọn!
Chị xách túi hành lý của Hồng để sẵn ở góc phòng, vội vã ra chiếc taxi đang neo, có Minh Tuyết ngồi chờ trong xe. Hồng vừa chào tạm biệt cha mẹ, vừa lật đật chạy theo.
Từ ngày quen biết Đông, Hồng bắt đầu làm đẹp, đi đâu nàng thường điểm tí má hồng, thế thôi. Tuy nàng là sinh viên nhưng vào thời điểm đó đa số con gái còn ngồi ghế nhà trường thường không son phấn.
Trong chuyến trở lại Huế cho niên học cuối này, vì không có chuyến bay quân sự nào bay thẳng đến phi trường Phú Bài (Huế), ba cô đành chấp nhận đi Đà Nẵng, rồi sau đó sẽ lấy vé xe đò đi Huế trong ngày nếu còn sớm; nếu trễ, ba cô sẽ bắt chuyến xe lửa chiều để kịp hôm sau dự lễ khai giảng. Đây là lần thứ hai các cô đi máy bay mà Hồng vẫn không biết thắt dây an toàn. Lần trước có người thắt giùm, lần này thì... nàng cầm sợi dây ngắm nghía lật qua lật lại, xỏ tới xỏ lui... cho vui. Nàng liếc qua chị Hai và Minh Tuyết thì thấy cũng giống mình. Cả ba tủm tỉm cười cho cảnh nhà quê lên tỉnh của mình. Chị Hai thầm thì: "Đừng cho người ta biết mình nhà quê, cứ làm bộ mình không cần thắt dây này." Cả ba bèn bỏ, không thèm thắt. Đi phi cơ quân sự, đâu có tiếp viên hàng không để giúp mình hay nhắc nhở mình thắt dây an toàn. Liếc nhìn chung quanh, mấy người thuộc gia đình quân nhân tử sĩ có người thắt, có người không. Thế là cũng có "đồng minh," không cô đơn!
Ở một góc phi cơ, Hồng để ý thấy một anh Trung Sĩ già theo dõi các cô, miệng tủm tỉm cười, nhưng khi các cô ngước mắt lên, anh ta liền quay mặt hướng khác. Gọi là già chứ thật ra anh ta khoảng tuổi trung niên, nước da sạm nắng, trông còn phong độ lắm! Ngón tay áp út của anh sáng chói chiếc nhẫn vàng. Minh Tuyết nói nhỏ:
- Cười thì cười. Nhằm nhò gì. Anh ta dư tuổi tác và dư chiếc nhẫn vàng. Còn lại, toàn là vợ con và thân nhân của quân nhân tử sĩ. Ba đứa mình cũng là thân nhân của tử sĩ đây, tuy dởm nhưng có giấy tờ xác nhận. Không ngại.
Chị Hai thêm vào:
- Máy bay quân sự mà không có anh chàng Không Quân hào hoa nào trong chuyến bay này cả!
Minh Tuyết cười cười, đùa một câu:
- Chuyến bay âm thịnh dương suy mà chị!
Hồng xen vào:
- Ơ... ơ...Đừng nói bậy, xui xẻo, mậy, ủa quên..."bà chị." Bà chị ngắm nghía cũng giỏi dữ đa. Bỏ ông anh tui đâu rồi mà ngắm tìm người khác vậy?
- Cả năm rồi mà anh mày không tiến được một bước, coi bộ bị đầm Mỹ hớp hồn rồi. Còn anh chàng "hướng Đông" của mày tới đâu rồi?
- Cũng giậm chân tại chỗ.
Chị Hai Cẩm Vân nghe đến đây, liền xen vào:
- Tao đã cảnh cáo tụi bây rồi. Mấy anh chàng Không Quân hào hoa, đào hoa nên không có anh nào chung thủy hết, chỉ là những cánh bướm lượn vành mà chơi. Ai ngu thì chết!
Nghe chị nói, Hồng đâm bâng khuâng. Đông chưa hề có một lời nói yêu nàng, chưa có một lời hẹn ước gắn kết đời nhau. Còn nàng, nàng có yêu anh không? Nàng không biết, chỉ biết rằng nàng rất mong đọc thư anh vì chuyện anh kể vui vui và rất có duyên. Giá mà anh là nhà văn, hay nhà giáo dạy văn chương thì hợp hơn. Tuy nhiên, anh không chiếm hết thì giờ của nàng. Nàng vẫn còn thì giờ để học, để ngủ, để đi chơi, sinh hoạt với bạn bè. Nghĩ đến đó, nàng bỗng thắc mắc: Vậy thì tại sao người ta tự tử vì tình? Nàng có thật sự yêu anh không?
Hồng còn đang tự vấn lòng mình thì máy bay đáp xuống phi trường Liên Khương (Đà Lạt). Mỗi lần máy bay cất cánh hay hạ cánh, Hồng luôn bị khó chịu, cứ nhộn nhạo trong người. Khi Hồng vẫn còn nhăn nhó, bỗng có sáu anh pilots vận áo liền quần bước vào cửa. À... thì ra đây là "máy bay xe đò,” trên đường đi tấp chỗ này một chút, tấp chỗ kia một chút để rước thêm khách cho đầy.
Minh Tuyết tinh nghịch thì thầm bên tai Hồng:
- Dương thịnh âm suy rồi mầy ơi! Không có tí vàng bạc nào lấp lánh cả.
Không chịu thua, Hồng đáp trả:
- Giỏi! “Khen cho con mắt tinh đời!” Quan sát kỹ dữ đa!
Rồi nàng nhìn sang chị Cẩm Vân, thấy chị đang sửa dáng ngồi. À... thì ra ngoài miệng chị cảnh cáo các chàng Không Quân là những cánh bướm chỉ biết lượn vành mà chơi, chứ thật ra chị cũng dành phần tình cảm đặc biệt với mấy "cánh bướm" này. Nàng cũng bắt chước chị sửa dáng ngồi và tạo bộ mặt dễ thương thay vào bộ mặt khó ưa vì đang chóng mặt. Nàng cằn nhằn chị nhưng vẫn giữ mắt-mũi-miệng tươi cười:
- Chị không cho em một phút để “sơn phết” tí màu hồng lên má.
- Xin lỗi. Tao có biết chuyện xảy ra như thế này đâu. Tao và Minh Tuyết đâu hơn gì mày. Thôi, lỡ rồi. Đừng cằn nhằn nữa!
Các chàng pilots vừa lên máy bay, thấy ba cô gái không giống ai trong đám đông hành khách thuộc gia đình quân nhân tử sĩ, liền ném những ánh mắt lém lỉnh về phía các cô và to nhỏ với nhau. Thấy các anh thắt giây an toàn, Hồng lại có dịp cười thầm: "Dân Không Quân mà sợ té trong máy bay! Ta đâu cần thắt mà có té đâu?"
Quang và các bạn là những Sĩ Quan Không Quân, đơn vị ở Đà Nẵng, cùng với các phi công khác được nghỉ dưỡng sức hằng năm ở Trung Tâm Phi Vân (Đà Lạt) hai tuần lễ. Đến nơi đây, tiếng là nghỉ dưỡng sức chứ thật ra là dịp các Sĩ Quan Không Quân độc thân ăn chơi thả giàn từ sáng sớm đến khuya để bù cho cả năm đùa giỡn với tử thần. Tối về có người còn kết bạn với "bác thằng bần." Trung tâm vắng như chùa Bà Đanh lúc ban ngày, còn người thì... phí sức nên được gọi đùa là "Trung Tâm Phí Sức" hoặc "Phi Vân Tự". Quang dự định ở chơi một tuần rồi vọt về Sài Gòn tiếp tục cuộc vui chơi, sau đó từ Tân Sơn Nhất bay thẳng về nhiệm sở Đà Nẵng. Không ngờ anh vung tay quá đà nên hết tiền, đành cùng với năm chiến hữu đồng cảnh cháy túi ở lại "tu" cho hết ngày phép tại “chùa Phi Vân” này.
Từ giã những ngày vui phung phí sức khỏe, Quang mệt mỏi cùng các bạn trở về Không Đoàn tiếp tục công việc chiến đấu căng thẳng và nguy hiểm ở chiến trường, nơi có các chiến hữu đang chờ đợi sự yểm trợ của Không Quân từng phút từng giây. Vừa bước vào cửa phi cơ, hình ảnh ba cô gái không phấn son, đơn giản trong những chiếc áo dài đập vào mắt Quang và các bạn: cô áo vàng hoa cúc, cô áo tím hoa sim, cô áo lụa trắng mây trời. Hoa đồng nội lạc giữa rừng gươm biển giáo! Mấy chàng Không Quân bắt đầu chộn rộn, xầm xì nhỏ to.
Quang không quan tâm đến ba cô gái "nhà quê" đang ngồi chung một nhóm. Anh đang tự trách mình vì một lúc bốc đồng, thiếu tự chủ, đã vung tay quá trán, vốn không phải là bản tánh của mình. Anh đeo kính mát lên, tìm một chỗ khuất, ngồi lim dim ngủ bù đêm rồi thức trắng. Cặp kính này không rời mắt anh mỗi khi ra đường từ ngày chia tay với Trang, người yêu đầu đời của anh, thuở cùng nàng đèn sách ở Đại Học Dược. Đây là quà tặng của Trang nhân ngày sinh nhật của anh. Ngày Trang lên xe hoa, anh bỏ học, ghi tên vào Không Quân. Anh muốn đi xa, thật xa ngôi trường đầy ắp kỷ niệm. Anh vùi đầu vào việc tập huấn gian khổ, rồi dấn thân vào chiến trường nguy hiểm để tìm quên. Nhờ vậy vết thương lòng của anh dần dần lành lại. Tuy nhiên, vết sẹo vẫn còn hằn nên anh không để bất cứ bóng dáng một người con gái nào lọt vào mắt mình. Quang đang chập chờn, chợt bị Hưng thúc nhẹ vào hông và bỏ nhỏ vào tai anh:
- Đố mày biết ba em này con cái nhà ai? Có đúng là con em của quân nhân tử sĩ không?
Bị phá giấc ngủ, Quang trả lời cộc lốc:
-Tới mà hỏi.
-Chém chết cũng không phải. Nếu phải, thì lúc này lo kiếm sống phờ phạc cả người, làm sao mướt mát mượt mà được. Làm sao có "áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc," làm sao có "áo luạ Hà Đông" để "anh đi mà chợt mát" như thế này! Còn nếu là con em của các ông lớn thì không đi máy bay hạng cá kèo, "air Ka-ki" của bọn mình đâu!
Sang đang đánh bài giết thì giờ với mấy người bạn nhưng tai thính mắt tinh, bèn xen vào:
- Con cái nhà ai, mặc kệ đi, biết tới cha mẹ làm gì. Chỉ cần biết tới “em” là đủ rồi. Đây là ba em "nữ sanh" trường trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), đi nghỉ hè ở Sài Gòn, Vũng Tàu. Bây giờ trở về nhập học để “lên đường, xuống đường” làm khổ thêm bọn chúng ta mà thôi.
Tiên đang đánh bài nhưng cặp mắt không quên theo dõi các em, nghe thế anh liền cảnh cáo:
-Coi chừng "bảng cấm." Biết đâu các em này là đào của mấy cha vận tải đang ngồi lái ở phía trước. Rớ vô mang họa!
Hưng lì lợm tiếp:
-Mặc kệ! Ba chục ngón tay không có chiếc nhẫn nào cả, tao có quyền.
Tiếp theo, Hưng nói một câu đã vô tình đưa hồn Quang "lỡ sa vào đôi mắt em":
- Cô bé mặc áo lụa Hà Đông màu mây trời, có mái tóc ngắn uốn úp kiểu ca sĩ Phương Hoài Tâm, và cặp mắt to đen, tao chấm rồi đó. Không đứa nào được léng phéng nghen...
Nghe Hưng nói, Quang mới nhìn kỹ lại cô gái áo lụa trắng. Đúng rồi! Đúng là cặp mắt của Trang! Cặp mắt này đã bắn những mũi tên xuyên thấu giữa tim anh, đánh thức trái tim đã ngủ vùi mấy năm nay.
Hưng lại tiếp tục châm thêm dầu:
- Trông kìa, tay em mân mê tà áo. Em đang tìm bùa bỏ cho tao đó. Trông em e thẹn, lúng túng thật dễ thương làm sao!
Hưng càng nói, dáng thanh thanh e ấp với cặp mắt nai tơ buồn buồn của cô gái áo lụa càng đi sâu vào hồn Quang. Nhờ cặp kính mát, anh giả ngủ mà tha hồ ngắm em gái hậu phương này. "Người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không?" Chưa chi mà anh có thắc mắc này với cô gái chưa quen đó. Lạ thật!!! Anh chưa từng có ý nghĩ này với bất cứ người con gái nào khác, ngay cả với Trang, bởi vậy nàng mới tìm bến đậu khác.
Bên tai anh, Hưng cứ lải nhải cô bé Áo Lụa Hà Đông thế này, thế kia... làm anh thật khó chịu. Quang tự hỏi: Không những Hưng mà cả anh cũng dính bùa của cô ta rồi hay sao? Ôi chao! Tiếng sét ái tình đến với con người dễ dàng như thế à? Có phải đây là chuyến bay định mệnh? Định mệnh đã xui khiến anh vung tay quá trán, hết làm chuyến "Sài Gòn du hí," đành ở lại Đà Lạt, đáp chuyến bay này về nhiệm sở để gặp nàng hôm nay?
Linh cảm mình bị "chiếu tướng" Hồng lúng túng, má và tai nóng ran, hai bàn tay nàng xoắn vào nhau không ngừng. Nàng tự giận mình, mặc chi chiếc áo lụa mỏng này để không thể giấu kín hai bàn tay, mặc tình cho hai anh chàng Không Quân này thấy chúng đang ngọ ngoậy. Chao ôi! Sao thời gian trôi chậm vậy! Nàng mong sao mau tới Đà Nẵng. Nàng sốt ruột liếc xem liên tục chiếc đồng hồ đeo tay của Minh Tuyết và rủa thầm: "Cái đồng hồ chết tiệt này, bộ Made in Cholon hay sao mà chạy chậm rì!" Nàng đếm từng phút một. Mỗi một phút qua dài bằng hai giờ kiểm tra bài Sử Tây Phương khó nuốt của thầy Châu… Rồi thì cũng tới bến bờ sau 45 phút dài như một thế kỷ. Hồng bật mỉm cười về sự so sánh này của nàng, sống chưa đầy một phần tư thế kỷ thì làm sao nàng biết một thế kỷ dài bao nhiêu!
Phi cơ đáp xuống Phi Trường Quân Sự Đà Nẵng. Mọi người lục đục rời máy bay. Mấy anh chàng phi công này còn ngồi lại, xuống sau. Để tránh cặp mắt của các chàng, ba cô đứng lên. Hưng cũng dợm đứng dậy liền bị Tiên kéo lại, chỉ chỏ lên phòng lái, bỏ nhỏ vào tai:
- Đừng vội, các em chạy đi đâu được mà gấp. Chờ xem có phải "người đẹp" của mấy cha vận tải không cái đã. Coi chừng bị mấy chả cự nự tội "xâm phạm chủ quyền" thì mất tình chiến hữu.
Các cô được anh Trung Sĩ "già" giúp mang hành lý, đỡ xuống máy bay. Trước khi đi, anh ta còn nháy mắt cười hóm hỉnh với các anh áo liền quần. Thái độ này làm sao qua được cặp mắt tinh tế của chị Hai đầu đàn này. Khi bước xuống đất rồi, Hồng nghe loáng thoáng tiếng cự nự của Hưng:
- Mấy thằng vận tải đi mất rồi. Mày cản tao, làm mất một dịp may. Uổng quá! Mà sao các em này không theo đoàn người ra cổng? Hay là đợi xe nhà ra đón. Con ông cháu cha đây mà ...
Sang lên tiếng:
- Tao nghe đồn em vợ ông Phi Đoàn Trưởng Trực Thăng là học sinh trường Trung Học Phan Chu Trinh, dễ thương hết biết. Chắc cô áo trắng này!
Tiên xen vào:
- Không phải đâu, cô áo tím đúng hơn, vì tao đã từng gặp bà ấy rồi, tao thấy em áo tím có dáng giống bà vợ của sếp hơn.
- Không phải, cô áo vàng giống hơn.
Thế là cả nhóm lao xao đòi làm anh em cột chèo với Ông Phi Đoàn Trưởng trong khi chờ đợi tài xế của phi đoàn đến chở về cư xá.
Lần đầu tiên trong đời đến Phi Trường Quân Sự Đà Nẳng, ba cô ngơ ngác nhìn quanh, thấy hàng hàng lớp lớp máy bay quân sự đủ loại đang đậu hoặc cất cánh, hạ cánh nhộn nhịp. Âm thanh rền vang. Không khí chiến tranh bao trùm. Minh Tuyết than:
- Chị Hai ơi, không thấy lối ra. Chúng mình bị vây khổn trong Bát Quái Trận Đồ của Khổng Minh rồi. Làm sao bây giờ?
- Đừng rối trí. Để xem nào.
Hồng tiếp:
- Sao mấy hành khách người thì đi lối này, kẻ lại đi lối kia? Theo ai bây giờ hả chị Hai?
Minh Tuyết ‘chuyên viên’ nghịch ngợm nổi cơn hờn mát:
- Mấy anh chàng Không Quân này cù lần thiệt. Không ai làm "hiệp sĩ cứu mỹ nhân" hết trơn hết trọi. Đứng đó xầm xì to nhỏ, liếc tới liếc lui. Thật dễ giận!
Chị Hai giọng cứng cỏi:
- Mấy anh này chờ xem có em gái hậu phương nào rơi nước mắt vì bị kẹt ở phi trường để các anh chạy lại lau giùm đây mà. Để tao tính. Tụi bây đứng đây chờ. Tao sẽ tìm xe cho tụi mình ra cổng.
Hồng nghĩ thầm: "Bà chị này giỏi thật, tìm đường ra là quý lắm rồi, còn tìm xe chở ra" liền hỏi:
- Chị có nói giỡn không đấy? Xe đâu mà có? Ai lái đây?
- Đừng lo. Đứng đây chờ.
Minh Tuyết nhanh trí, hiểu ngay ý của chị, phát ngôn một câu ranh mảnh hết chỗ chê:
- Cẩn thận! Bình tĩnh! Đừng run rẩy mà vấp té ngay bây giờ. Chờ tới nơi rồi vấp là đúng lúc nhất. Phải biết chọn cái vấp ngã nặng nghìn cân, đáng ngàn vàng mới là tuyệt chiêu!
Chị Cẩm Vân áo tím hít nhè nhẹ một hơi dài, rồi đi tới "mục tiêu" đang đứng chung một nhóm thì thầm to nhỏ nhỏ to. Bước chân chị không chút lấp vấp, lập cập.
5.
Quang bỏ mặc đám bạn muốn làm anh em cột chèo với sếp bằng miệng, tách đám đông, dợm bước tới bỗng thấy Cô Áo Tím đã đến gần liền dừng lại. Đám nam nhi này thua nữ nhi một bước rồi. Anh còn nghe mấy câu chọc ghẹo của các bạn tuy cháy túi nhưng vẫn tếu không ngừng:
- Ê tụi bây, ở đây nền của sân bay hiện đại nhất nhì Đông Nam Á hình như bằng đất thì phải, nên có cả "một rừng đầy hoa sim."
- Trời Đà Nẵng đang trong xanh biến thành "tím chiểu hoang biền biệt!"
- Để xem đứa nào trúng số ngày hôm nay nghe.
Cô Áo Tím tiến đến trước mặt Quang, cả đám đang ồn ào liền nín bặt như học trò tiểu học trường làng khi cô giáo bước vào lớp. Quang cười, nghĩ thầm: lúc nãy chúng nó ăn nói bạo mồm bạo miệng, sao bây giờ trước mặt cô gái xinh tươi, đứa nào cũng hiền lành, lịch sự, dễ thương cả. Nàng Áo Tím cất tiếng, giọng êm như ru:
- Tôi là Cẩm Vân, hai người kia là Hồng và Minh Tuyết. Mai là ngày khai giảng của trường. Chúng tôi cần ra cổng để kịp chuyến xe đò đi Huế. Trễ hơn nữa, quốc lộ 01 không an ninh. Xin các anh giúp đỡ phương tiện ra cổng.
Sau lưng Quang có tiếng của một ai đó vang lên:
- Được rồi, các em đừng lo, để các anh lo.
Quang lịch sự đáp bằng một câu sáo ngữ:
- Hân hạnh được quen biết cô. Cô an tâm về chỗ. Chúng tôi sẽ cố gắng giúp.
Quang bảo khéo Cô Áo Tím về chỗ để còn bàn tính riêng với "bộ tham mưu" đang đứng đây. Nếu không thì sẽ chết với các "quan" một bông mai vàng này.
Khi Cẩm Vân quay lưng, tiếng ồn ào lại nổi lên. Sang nói trước:
- Mắm lóc, không phải mắm ruốc, tụi bây ơi!
Tiên thêm:
- Nam Kỳ mà sao khôn lanh quá chừng, không chỉ hỏi đường ra cổng mà còn xin phương tiện chở ra nữa. Cua các em coi bộ khó đa!
Đột nhiên Hưng la lên nho nhỏ:
- Ôi chao! Hỏng bét! Vậy là tài xế đưa các em ra cổng à. Còn một chỗ ngồi để tao đi theo.
- Không được. Ai cho phép mày cái đặc ân đó. Oánh tù tì cho công bằng.
Quang bỏ mặc đám bạn đang lao xao dành đi theo làm cận vệ cho các cô. Anh biết đám bạn này chỉ đùa cho vui chứ thật ra chỉ có Hưng và anh là thật sự muốn làm quen các nàng.
Cẩm Vân về lại chỗ đứng dưới bóng cánh máy bay, thở phào một hơi dài thậm thượt rất đáng thương, rồi nói:
- Ối chào! Tim tao đánh như trống trường làng thúc giục vào lớp, miệng tao "niệm kinh:" Bình tĩnh, bình tĩnh... liên tu bất tận.
Minh Tuyết trách:
- Chị "chụp" nhầm anh chàng mang kính mát, trông mặt lúc nào cũng như sắp hành quân, ít nói ít cười. Chắc hỏng việc rồi!
- Tao run gần chết, có thấy gì đâu, "chụp" đại, trúng ai thì trúng.
Hồng bật cười:
- Hai chị dùng chữ "chụp" thật gợi hình không chê vào đâu được. Đúng rồi, mặc áo liền quần giống con ếch thiệt. Nhưng chụp ếch khó lắm nghe, coi chừng "giơ tay vói thử trời cao thấp, Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài." (Nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
Một lát sau có một chiếc Jeep đến rước các anh chàng Không Quân về cư xá. Quang biết đám bạn này chỉ lái giỏi máy bay, không ai lái rành xe hơi ngoài anh. Có đứa là "cậu ấm," ngày xưa đi học có tài xế đưa đón, chưa "lái" được xe đạp, lọ là xe hơi, nên anh đưa ra ý kiến:
- Ai biết lái xe hơi và có bằng lái thì chở các em ra cổng. Nếu không, Quân Cảnh hỏi thăm thì phiền phức lắm.
Thế là các chiến hữu của anh đành chịu thua. Riêng Hưng bắt anh hứa không được tán tỉnh em Áo Lụa Hà Đông, và xin địa chỉ của "em" cho hắn. Anh cười thầm, không cho tán tỉnh thì làm sao có địa chỉ. Anh lên xe, lái đến chỗ các cô đứng, bỏ lại tài xế cùng các bạn đi bộ về cư xá. Loáng thoáng anh nghe một bạn nói:
- Thằng Quang cho bọn mình đi bộ. Chưa chi mà đã vì các em gái hậu phương này vội liệng truyền thống của Không Quân "không bỏ anh em, không bỏ bạn bè" vào thùng rác rồi.
Sang nói vói theo:
- Muốn ăn mắm lóc thì ăn một con thôi. Để hai con lại cho bọn tao. Ăn hết, coi chừng uống nước chết vì bội thực.
Quang sắp xếp các cô lên xe, cố ý để cô áo lụa ngồi bên anh. Theo yêu cầu của cô Cẩm Vân, lúc đầu Quang dự tính chở các nàng ra cổng phi trường, nhưng khi tới cổng thì anh đổi ý. Thấy rằng từ cổng tới chỗ đón được chiếc taxi để đi cũng còn xa, bỏ ba "con nai" này ngơ ngác ngoài cổng anh không đành lòng. Vả lại, trời không còn sớm nữa, đi chuyến xe chiều e không an toàn cho các nàng. Có thêm một lý do cũng quan trọng không kém là anh chưa ngỏ lời xin địa chỉ của "em". Anh quyết định chở các nàng ra bến xe, Quân Cảnh có "hỏi thăm sức khoẻ" hay không cũng mặc kệ. May là không. Anh ở Đà Nẵng hơn một năm rồi nên thèm nghe giọng nói Miền Nam ngọt ngào, chất phác để cho đỡ nhớ nhà, nhớ quê. Cô Áo Lụa ngồi bên cạnh anh cứ im lặng, anh gợi chuyện:
- Xin lỗi cô nào là Hồng, cô nào là Minh Tuyết?
Cô Áo Lụa lên tiếng, nhẹ như gió thoảng nhưng anh vẫn nghe được:
- Dạ, em là Hồng.
- Cô học gì ở Huế?
Anh cố ý dùng chữ cô, không phải các cô để nghe em Áo Lụa nói, nhưng cô Áo Tím xen vào trả lời thay:
- Chúng tôi học ở Viện Hán Học.
- Ở Sài Gòn trường Văn Khoa cũng có ban Việt Hán. Sao các cô ra học tận nơi đây?
Thế là cô ấy liên miên kể về Viện Hán Học, về mộng xuất ngoại làm Tùy Viên Sứ Quán. Thấy cô lanh lợi, dạn dĩ, ăn nói hoạt bát, Quang nghĩ có thể xin địa chỉ được. Anh đánh đòn tâm lý:
- Các cô có thường đi Đà Nẵng không? Nơi đây có nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh chắc thích hợp với ngành học của các cô. Vào cuối tuần, nếu các cô muốn vào Đà Nẵng chơi thì điện thoại cho tôi. Ngày nào cũng có trực thăng sáng 7 giờ đi Huế, chiều khoảng 4 - 5 giờ về lại Đà Nẵng. Chỉ mất nửa giờ là tới nơi. Các cô muốn đi bất cứ ngày nào cũng được. Cứ liên lạc với tôi, đừng ngại.
Thế là "mã đáo thành công." Tới bến xe, Quang trao đổi số điện thoại và địa chỉ liên lạc với Cô Cẩm Vân Áo Tím. Mọi việc diễn ra tốt đẹp như ý anh và Hưng.
6.
Mùa tựu trường năm cuối này lại không có ngày khai giảng. Sinh viên ngơ ngác, bàng hoàng nghe tin trường bị đóng cửa vĩnh viễn chỉ vì trường được thành lập do Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị. Bây giờ Tổng Thống đã mất, chính sự rối reng, Bộ Giáo Dục cũng rối reng, tìm cách đóng cửa Viện Hán Học. Khóa đàn anh ra trường rồi, chỉ có một anh Thủ Khoa được bổ nhiệm trông coi Cổ Viện Chàm ở Đà Nẵng, còn lại không ai được bổ nhiệm. Hết mộng Tùy Viên Sứ Quán! Cả trường phản đối bằng cách cử đại diện vào Sài Gòn yêu cầu phải bổ nhiệm những người tốt nghiệp đi dạy các trường Trung Học. Để ủng hộ đại diện của mình, toàn thể sinh viên lãn khóa. Lãng khóa khác với bãi khóa ở chỗ sinh viên vẫn bám trường, bám lớp, có điều không học hành mà thôi. Bài vở không có, thì giờ rảnh nhiều, ba cô tính chuyện đi chơi.
Cẩm Vân lúc nào cũng vẫn là người chỉ huy, kêu Minh Tuyết và Hồng ra một góc, hỏi:
- Ngày mai Thứ Bảy, hai đứa bây có muốn đi Đà Nẵng, ở chơi ngày Chúa Nhật, sáng Thứ Hai về sớm kịp buổi lãng khóa không?
Minh Tuyết đáp:
- Muốn, chứ sao lại không? Câu hỏi... hơi thừa đó, bà chị.
Hồng hỏi tiếp:
- Làm sao sáng sớm Thứ Hai về kịp giờ?
- Mình đi bằng trực thăng, hai "cưng".
Minh Tuyết nịnh chị:
- Đáng lý Bộ Giáo Dục phải giữ lại trường để đào tạo những "Nhà Ngoại Giao" giỏi như chị.
- Muốn đi chơi thì đừng móc họng tao nữa.
Hồng hỏi:
- Tối ngủ đâu, bà chị?
- Nhà chú thím Cảnh, bộ quên rồi sao?
Thế là Cẩm Vân vào Văn Phòng của trường, mượn điện thoại gọi vào Phi Đoàn Trực Thăng ở Đà Nẵng liên lạc với Quang. Ba giờ chiều hôm sau, ba cô lấy chuyến xe đò Bến Ngự 3 đi Đông Ba, tiếp theo lấy xe đò Tây Lộc 14 để đến Phi Trường Trực Thăng Tây Lộc trong Thành Nội Huế cho kịp trước bốn giờ chiều. Đến cổng, xưng là người nhà của anh Quang các cô được vào ngay. Anh đã cẩn thận gởi gấm trước. Đất nước nghèo, phi trường cũng nghèo, Phòng Ghi Danh và Chờ Đợi chỉ là một phòng dài lợp tôn che mưa nắng cho quân nhân, thương binh, và thân nhân đứng chờ máy bay đến. Thấy các cô, Quang và Hưng tiến đến chào và đưa lên máy bay. Tới Đà Nẵng, Quang vẫn là người lái xe Jeep đưa các nàng đến nhà chú thím Cảnh.
Khi Hồng đi bên Quang, tà áo dài của nàng, dưới sức gió của cánh quạt trực thăng bay phần phật, quấn lấy bước chân anh. Mặc dù Hồng cố nắm chặn lại nhưng tà áo của nàng vẫn ngoan cố, cứ quấn quýt áo trận của anh không rời. Hình ảnh này làm cho nàng bâng khuâng. Thật lạ! Sao nàng lại mang vào lòng hình ảnh của Quang một cách lẩm cẩm, không bình thường như thế này trong khi lơ là sự nhiệt tình của Hưng, người hăng hái giúp đỡ các cô lên xuống trực thăng. Hình ảnh của Quang càng lúc càng đậm nét làm mờ dần hình ảnh ăn nói vui tươi dí dỏm của Đông trong tim nàng. Và trước mặt Quang, Hồng bỗng trở thành "thục nữ," mất đi tính tinh nghịch thường ngày của nàng. Từ đó, thỉnh thoảng cả ba cô vào Đà Nẵng chơi. Lần nào cũng được các anh mời đi thăm thắng cảnh ở Đà Nẵng: khi thì Cổ Viện Chàm, khi thì núi Non Nước, China Beach. Mấy chỗ này dù đến nhiều lần nhưng Hồng lại không chán, lần nào cũng cảm thấy vui chi lạ!
Một lần, Quang bận việc ở Văn Phòng, bảo các cô cùng đoàn người theo bạn anh ra phi cơ trước. Đang đi Hồng bỗng nghe văng vẳng tiếng anh réo gọi các cô dừng lại. Giọng anh chìm lỉm trong tiếng động cơ ầm ĩ của máy bay, vẻ mặt anh căng thẳng và lo lắng. Anh đến, dẫn các cô vào chiếc trực thăng bên cạnh. Sau khi tới Đà Nẳng, đáp xuống đất rồi anh mới cho biết:
- Xin lỗi các cô, tôi quên mất trên chiếc trực thăng kia có thi hài một chiến sĩ. Suýt chút nữa tôi đã để các cô sợ hãi.
Sự tinh tế của anh làm Hồng xúc động, nàng chưa kịp mở miệng cám ơn, Minh Tuyết hỏi trước:
- Người này tử trận bao lâu rồi hả anh?
- Hôm qua thôi, nay mới lấy được thi hài.
Hồng đáp:
- Nếu mới từ trần thì không sao đâu anh. Chúng em không sợ ma đâu. Chúng em chỉ sợ mình không chịu đựng nỗi mùi hôi thúi sẽ làm tủi vong linh người chiến sĩ đã hi sinh.
Cẩm Vân xen vào:
- Con nhỏ này lì lắm! Nó chỉ sợ ma sống thôi.
Quang nhìn Hồng mỉm cười, ánh mắt trìu mến như vừa khen tặng vừa thương yêu. Hồng tự hỏi mình có chủ quan không khi có nhận xét này. Nàng cảm nhận được một tình cảm đặc biệt anh dành cho nàng, bằng trực giác của người phụ nữ. Nàng cũng có một tình cảm đặc biệt với anh từ lần gặp gỡ đầu tiên trên chuyến bay Sài Gòn - Đà Nẵng. Nàng đã nhớ, nghĩ, mong, và chờ tin anh mỗi ngày. Từ trước đến nay không có một hình bóng thanh niên nào chiếm lĩnh được tim óc nàng như vậy cả. Kể từ hôm ấy, sự tinh tế của anh, nét mặt lo lắng, dáng đi hớt hãi gấp gáp đuổi theo của anh, đi vào tim óc nàng và trú ngụ tại đó mãi mãi không chịu rời.
Những khi các anh được biệt phái vài ngày ở Huế, Quang và Hưng lại đến chỗ trọ của các cô để nói chuyện. Có chuyện gì để nói, ngoài chuyện bay bổng của các anh và chuyện học hành của các cô. Ấy thế mà sao Hồng cảm thấy thú vị vô cùng. Trong câu chuyện, Quang và Hồng là người ít nói nhất, chỉ góp tiếng cười là nhiều. Người tạo nên sự hào hứng cho câu chuyện là Hưng, Cẩm Vân, và Minh Tuyết. Hồng biết Hưng yêu nàng qua lời nói cũng như cách săn sóc đặc biệt của anh dành riêng cho nàng nhưng mà nàng đáp lại Hưng bằng tình cảm như anh em. Còn Quang, nàng không biết được tình cảm của anh vì anh thật kín đáo, ít biểu lộ cảm xúc. Với ai anh cũng lịch sự như nhau, nhưng sao nàng vẫn có một linh cảm mình chiếm một vị trí không nhỏ trong trái tim của anh.
Từ ngày Quang xuất hiện trong đời nàng, cán cân phía Đông càng ngày càng nhẹ đi. Sợi dây chuyền Đông làm quà Giáng Sinh năm nào vẫn còn nơi cổ nhưng nhiều khi nàng tưởng chừng như nó không còn hiện hữu. Đông còn một năm nữa mới về nước. Thư anh càng lúc càng nhiều và lá thư nào anh cũng có một chuyện vui đem đến cho nàng sự thoải mái yêu đời. Nàng lại vui vẻ viết thư cho anh. Mỗi lần như thế nàng tự xấu hổ khi gặp mặt Cẩm Vân. Ngày nào nàng chê chị bắt cá hai tay, không thèm ăn bánh của anh chàng kỹ sư chạy theo tán tỉnh chị. Bây giờ nàng còn tệ hơn chị, với hai tay nàng đang bắt những ba con cá, ba con cá cứ chờn vờn quanh nàng. Đã có ai tỏ tình đâu để nàng có dịp nói "chúng mình có duyên không nợ, thôi thì đi chỗ khác kiếm người nào mắc nợ tiền kiếp mà trả nợ đời cho nhau". Vậy thì làm sao nàng bỏ bớt hai con cá đây? Người ta cứ ầu ơ ví dầu với mình thì nàng cũng cứ ầu ơi ví dầu trả lại... cho đến khi tốt nghiệp vậy.
7.
Trong năm học cuối cùng, nơi trường chánh Hồng lo lãng khóa cùng bạn bè, không học gì nhiều, nên nàng ghi danh hai chứng chỉ bên Văn Khoa. Một chứng chỉ thi khóa 1, còn chứng chỉ kia khóa 2. Vì vậy mấy tháng hè năm ấy Hồng và ba bạn khóa đàn em đành ở lại, chịu cái nắng nóng mùa Hạ của Huế. Nhìn chị Hai và Minh Tuyết sửa soạn để về, nàng nôn nao trong lòng nhưng vẫn quyến luyến không muốn rời Huế vì nơi đây có Quang. Minh Tuyết nhìn Hồng cười nói:
- Bọn tao về, mầy tự do dung dăng dung dẻ với anh Hưng. Anh ấy đẹp trai vui tính, ráng mà giữ nhá!
Hồng ậm ừ. Ai rõ được thâm tâm của nàng, nhưng nàng biết Quang hiểu. Khoảng thời gian này chỉ có nàng và anh, nhưng sao những buổi chiều cùng nàng đi dạo dọc dòng sông Bến Ngự hóng mát, anh vẫn tỉnh bơ coi nàng như một người em gái nhỏ. Hồng thắc mắc, quen nhau một năm qua rồi sao anh cứ giậm chân tại chỗ? Anh đang vướng bận chuyện gì? Vợ? Người yêu? Con rơi? Nếu không phải vậy, anh đến nàng với mục đích gì? Lời ăn tiếng nói, hành động cử chỉ của anh nghiêm túc như ông giáo già, không đùa giỡn cợt nhã, không đụng chạm sàm sở.
Rồi đến một ngày Hồng cũng phải rời Huế. Buổi tối trước ngày lên đường, Quang chở nàng trên chiếc xe Velo Solex đi qua chợ Đông Ba uống nước và hóng mát. Ở Huế khi trời sập tối, đường phố vắng vẻ, nhà nhà đóng cửa, các cửa hàng cài then khóa chốt, chỉ còn những quán cóc, gánh hàng rong bán cho thợ thuyền làm đêm, các cặp vợ chồng già, các cậu sinh viên học khuya. Những cô gái con nhà gia giáo không ai ra đường nữa. Thế mà Hồng ra đường với Quang. Nàng không ngại vì mai này nàng sẽ vĩnh viễn từ giã Huế, về Sài Gòn chờ nhận Sự Vụ Lệnh đến một nhiệm sở nào đó ở Miền Nam. Hồng buồn lắm vì nàng sắp phải xa anh, xa thật xa, không biết có còn gặp lại không? Phải lâu lắm, cả năm may ra mới gặp lại nhau nếu anh còn yêu nàng, không có bóng hồng khác. Ngồi sau xe, nhiều lần nàng muốn ôm lấy eo anh, nhưng rồi e ngại rụt tay lại.
Đến một hàng nước cạnh bờ Sông Hương, Quang gọi cho Hồng một ly nước cam vắt soda hột gà còn anh ly cà phê đen. Anh nhìn nàng với ánh mắt thật lạ, dường như muốn nói một điều gì quan trọng. Nàng e thẹn nhìn anh. Gió từ sông thổi vào mang hơi nước lành lạnh làm Hồng rùng mình, anh kéo ghế ngồi chắn gió cho nàng. Lúc nào Quang cũng tinh tế làm nàng xúc động, nước mắt sắp trào ra. May thay bà hàng mang hai ly nước đặt lên bàn, đon đả chào mời:
- Ông khéo gọi cho bà ly nước này thật bổ dưỡng. Tôi đã chọn cho bà hột gà mái tơ mới đẻ hôm qua rất tốt cho sức khỏe. Bà sinh mới dậy, khi ra ngoài nên mặc áo ấm.
Hồng thầm nghĩ, mình ra đường riêng lẻ với một thanh niên vào đêm như thế này là đã xâm mình lắm rồi, câu nói hiểu lầm của bà làm nàng ngượng chín cả người. Có lẽ bà thấy nàng xanh xao hốc hác sau kỳ thi, và ngồi co ro vì lạnh nên tưởng nàng vừa sanh con xong, còn trẻ nên chưa có kinh nghiệm. Giọng nói của hai người không phải giọng Huế làm bà nghĩ rằng hai người không có gia đình bên cạnh săn sóc nên bà tốt bụng truyền kinh nghiệm cho "cặp vợ chồng trẻ" này. Anh cười gật đầu ra điều đồng ý và cám ơn bà, anh nhìn nàng ái ngại, ngập ngừng như muốn nói điều gì, nhưng rồi lại im lặng.
Ly nước cam trông rất hấp dẫn ngon lành nhưng uống vào Hồng cảm thấy sao lạt nhách. Quang nhìn nét mặt và cử chỉ của nàng ngượng ngùng trông thảm quá nên anh bảo đi về, bỏ dở ly nước mới uống có vài hớp. Quang lúc nào cũng tinh tế. Điều này làm tăng thêm tình yêu thương và lòng kính mến trong nàng. Trên đường về, bên anh, Hồng cảm thấy sự ấm áp vây quanh, nhiều lần nàng muốn áp mặt vào lưng và ôm lấy anh, nhưng rồi e thẹn, ngại ngùng, lại thôi. Đưa Hồng về tới nhà, Quang móc bóp lấy ra một cuốn sổ tay hướng dẫn cấp cứu của Mỹ, đặt vào bàn tay Hồng. Đó là cuốn Medic First Aid - Wallet Skill Guide. Anh dặn dò:
- Em sắp làm cô giáo rồi. Trẻ em hiếu động, chạy nhảy không chừng, dễ bị té ngã. Đây là cuốn Hướng Dẫn Cấp Cứu, em cứ theo chỉ dẫn mà cứu học sinh nếu gặp trường hợp có tai nạn xảy ra. Sách viết bằng tiếng Anh, có hình ảnh chỉ dẫn, không khó hiểu đâu. Anh thuộc hết các cách cứu nạn rồi, không cần nữa. Em giữ lấy, coi như quà kỷ niệm của anh.
Hồng nghẹn ngào không nói ra lời. Quang tiếp:
- Em nhận nhiệm sở bất cứ đâu, nhớ cho anh địa chỉ. Keep in touch, nghe em.
Lại cùng câu nói của Đông khi chia tay với Hồng năm xưa. “Cùng một câu nói, cùng một chuyện tình giậm chân tại chỗ”. Hồng thầm nói, khẽ gật đầu thay cho câu trả lời, mắt ứa lệ. Quang vội vàng quay đi. Hồng nhìn theo dáng anh chìm dần trong bóng đêm mà nghe lòng mình tràn ngập nỗi buồn. Hồng mong ở anh một lời tỏ tình hay một lời đính ước. Đã có hai lần anh ngập ngừng định nói nhưng rồi thôi. Chuyện gì lấn cấn trong lòng để anh dừng lại? Dù sao đi nữa câu tiếng Anh đã gởi một tín hiệu cho nàng biết trong lòng anh có nàng, nó đã cho nàng một hi vọng làm hành trang lên đường.
Khi Hồng vừa quay lưng vào, Hà người bạn chung nhà trọ, học khóa sau, đứng im lặng bên cạnh, ái ngại đưa nàng một bao thư dán kín nói:
- Anh Văn nhờ em đưa tận tay chị.
Hồng mở ra. Lại một bài thơ đề tặng nàng, cuối bài ký tắt tên anh.
Tình Một Chiều
Em sắp đi xa rồi
Lòng anh buồn vời vợi...
Thôi mất người con gái
Yêu thương của một đời!
Em đi là đi mãi
Biết bao giờ trở lại
Lối xưa anh đi về
Trong nỗi niềm tê tái...
Ôm ấp một mối tình
Mà đành phải lặng thinh
Nhìn thôi không dám tỏ
Để hận mãi cho mình...
Em đương bước về đâu
Cho ai nặng gánh sầu?
Một trời ôi nhung nhớ!
Trằn trọc những canh thâu...
Ngàn trùng bao xa cách...
Ngàn trùng bấy cảm thương...
Ngàn trùng muôn hệ lụy...
Ngàn trùng vạn vấn vương...
Trần V.
Hồng tự hỏi bài thơ này nói lên tâm sự của anh Văn hay tâm sự của chính mình đây? Nàng lặng lẽ vào phòng nằm khóc một mình, ước sao có một bờ vai ấm áp để tựa đầu...
Chương 5
Có vạn lần buồn
1. Hồng nhận được Sự Vụ Lệnh bổ dụng về dạy học ở một trường trung học tại tỉnh lỵ Châu Đốc, một tỉnh ở biên giới nhưng tương đối an ninh, giáp ranh với Long Xuyên, quê nhà của Quang. Hồng vội thông báo cho Quang, nàng cũng không quên Đông và Hưng. Hai anh này lúc nào cũng thư từ nhắc nàng đừng quên cho các anh địa chỉ nếu có thay đổi.
Trước khi lên đường nhận nhiệm sở, Minh Tuyết tới thăm Hồng và tâm sự:
- Tụi mình bây giờ đã tốt nghiệp, có công ăn việc làm đàng hoàng vững chắc rồi nên nghĩ thực tế một chút. Ông anh của mày cứ ầu ơ ví dầu hoài, không đi tới đâu cả, có lẽ tao đành phải chia tay thôi. Đừng buồn tao nghe.
Hồng biện hộ cho anh Quân của nàng:
- Anh còn đang thụ huấn ở quân trường, chưa đâu vào đâu cả, làm sao dám có một lời kết ước với mày.
- Vậy thì khi ra trường về nước chiến đấu, sẽ có lý do: "Em ơi, tính mạng anh giờ như sợi chỉ treo mành. Cho anh thêm thời gian nữa vân vân..." Đã sống trong thời chiến, tao chấp nhận tất cả đau thương, bất hạnh đến với mình. Nay lý do này mai lý do kia, thôi thì buông cho anh mày tự do... bay.
Nghe bạn tâm sự như vậy, Hồng chợt nhớ đến chị Hai, thầm nói với chị: Chị Hai ơi, ba cánh bướm này cứ chờn vờn loanh quanh em. Em có nên buông tay mà ngồi đó ngắm bướm bay xa không? Nếu em buông mà bướm cứ lượn quanh thì làm sao đây hở chị? Xin chị “gở rối tơ lòng” giúp em nghen. Nghe nói nhiệm sở của anh Hai Đức cũng xa cách trùng trùng với nhiệm sở của chị, có duyên nợ gì với chị không đây? Hồng sắm sửa hành trang lên đường, bước vào thế giới tuy mới mà cũ, chỉ đổi vị thế mà thôi. Nhờ người quen giới thiệu, nàng trọ tại nhà của một gia đình nhà giáo đối diện trường. Nơi đây đã có một cô dạy Việt Văn tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn đến trước. Cô giáo này lớn hơn nàng vài tuổi nên nàng lại có một bà chị Hai mới. Ngày trình diện Hiệu Trưởng, Hồng diện chiếc áo lụa màu xanh da trời, cất áo lụa trắng vì sợ mọi người lầm mình là học trò, thêm chút phấn chút son lên má, lên môi để tạo dáng người lớn. Đứng ngắm mình trong gương nàng thấy mình cũng ra vẻ cô giáo lắm. Nàng cố ý đến trường vào giờ học để đừng bị chìm trong đám học sinh. Đến cổng nàng bỗng dưng hồi hộp, đứng ngoài dăm phút để hít thở sâu, lấy lại bình tĩnh, rồi sửa dáng yểu điệu bước vào. Một vài mái đầu đen từ một số lớp học nhìn ra làm nàng khớp và cảm thấy sân trường rộng chi lạ! Ông Hiệu Trưởng và Ông Giám Học -phải gọi là anh mới đúng vì còn trẻ- đón tiếp nàng niềm nỡ. Sau thủ tục trình diện là màn chuyện trò thân mật. Anh Giám Học nói:
- Cô Hồng này, tên cô như tên con trai, chúng tôi tưởng cô là Ông Đồ Nho làm nhiều người buồn lắm đó. Còn một cô Văn Khoa sắp tới trường ta nữa. Thế là năm nay trường ta được bốn cô giáo độc thân: một Lý Hóa, ba Việt Văn.
- Sao lại buồn?
- Ông Đồ Nho thì buồn chứ sao. Nếu biết là Cô Đồ lẽ dĩ nhiên là vui rồi. Trường cô học có tên lạ quá. Chúng tôi mới nghe lần đầu.
Thế là Hồng có dịp kể về ngôi trường của mình và mộng Tùy Viên Sứ Quán không thành. Bầu không khí vui vẻ đem đến cho Hồng tự tin và nàng nghĩ rằng mình sẽ nhiệt tâm trong nghề nghiệp.
Một tuần sau Phương, cô giáo mới gốc Văn Khoa, trình diện và được giới thiệu ở trọ chung với Hồng. Phương vóc dáng và tuổi tác tầm tầm ngang Hồng, được chị chủ nhà sắp xếp ngủ chung bộ ván gỗ cùng nàng. Thế là nàng có người bạn mới thế chỗ cho Minh Tuyết. Phương có mái tóc dài óng ả, giọng nói ngọt ngào, không đến nỗi làm xiêu thành đổ nước nhưng cũng thừa sức làm xiêu lòng một vài thầy trẻ. Hai cô giáo trẻ, nhỏ tuổi nhất trường năm đó là Phương và Hồng, không lớn hơn học trò mình đứng lớp bao nhiêu. Ở quê có những cậu khai sụt vài ba tuổi, đi học chung với trò nhỏ, mang mặc cảm, ngồi lặng lẽ cuối lớp trông tội nghiệp làm sao! Mấy cậu nhỏ nghịch ngợm ngồi bàn đầu thường khi tiết lộ: “Thưa cô, anh A… anh B... có vợ rồi đó, cô". Hồng phải tảng lờ giả bộ coi như mấy lời nói chơi không thật. Khi vào lớp nàng thường lập nghiêm, vì sợ học trò lờn mặt vào lớp để giỡn hơn học. Tuy nhiên, lúc về nhà nàng vẫn còn tính ham vui của tuổi trẻ. Cô và trò lại có dịp tổ chức cắm trại, thăm viếng lăng tẩm, chùa chiền với nhau. Một hôm Phương và Hồng đang chuẩn bị thức ăn nước uống để mang theo cắm trại ở núi Sam, thầy Kim dạy Việt Văn bước vào lỉnh kỉnh trái cây trên tay, xin gặp Phương. Phương ra tiếp khách, vài giây sau nói vói vào nhà sau cho Hồng:
- Hồng ơi, có anh Kim xin tháp tùng bọn mình cắm trại nè.
- Tốt quá, càng đông càng vui.
Thế là từ đó, mỗi lần hai cô đi cắm trại với học trò là có thầy Kim tham gia. Cô Tuyết có thế giới riêng của mình nên ít đi chơi chung. Thầy Kim lớn hơn hai cô cả chục tuổi nên được coi như một người anh lớn của hai nàng. Một hôm cô Tuyết, người cùng trọ chung nhà, nói với Phương:
- Này, tôi coi bộ anh Kim mết Phương rồi đó. Cẩn thận đấy. Anh ta có gia đình, và nghe đâu có đứa con gái năm sáu tuổi chi đó.
Phương cười đáp:
- Cám ơn chị. Em biết, anh Kim có kể với em về vợ con của ảnh rồi. Anh đang lo thủ tục li dị. Nhưng anh ấy đâu phải là mẫu người lý tưởng của em. Mẫu người của em phải là người hùng đẹp trai. Anh Kim "nhan sắc" dưới trung bình không hạp nhãn em, vả lại người cùng nghề, em không thích. Đi đâu em cũng phải dẫn Hồng "cận vệ kiêm cố vấn" của em theo kè kè để làm kỳ đà cản mũi đây nè.
Hồng nghe tâm sự của Phương và nghĩ tới anh họ Quân của mình, người hùng đẹp trai sắp về nước, rồi nàng than thầm: Ôi chao! Chúng ta ở tận vùng ven biên như thế này coi bộ khó có duyên "tương ngộ" dữ à. Làm sao mình làm mai Phương cho anh mình được! Anh Quân sắp về nước có nghĩa là anh Đông cũng sắp về. Làm sao mà gặp nhau đây!
Đông và Hồng chỉ gặp một lần duy nhất lúc ở Nha Trang rồi sau đó chỉ "gặp" nhau qua những cánh thư màu... trắng đã hơn hai năm rồi. Thời gian đi nhanh thật! Còn Hưng, mấy tháng nay Hồng không được thư anh, nàng nghĩ có lẽ anh thấy nàng viết thư quên bỏ thêm “muối” nên kém mặn mà do đó anh buông tay, hoặc biết đâu anh đã có người khác đem đến niềm vui cho anh rồi. Nếu vậy thì cũng là một điều đáng mừng cho Hồng: một "cánh bướm" đã bỏ cuộc, bay qua vườn nhà khác.
Vì yêu một người phi công nên Hồng yêu luôn tác phẩm Đời Phi Công của tác giả Không Quân Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Nàng đem tác phẩm này trích giảng một vài đoạn trong giờ Kim Văn của các lớp nhỏ. Khi Hồng kể cho Quang nghe, anh bảo: "Thực tế cuộc đời của người phi công thời chiến không lãng mạn như trong sách đâu. Em đừng làm cho học trò của em vỡ mộng". Và nàng đã hồn nhiên trả lời anh rằng “Vỡ mộng là chuyện của học trò em, còn ôm mộng là việc của em". Tuy nói cứng vậy nhưng nàng cũng giảm bớt những đoạn văn trích trong tác phẩm ấy. Một hôm vào giờ ra chơi, vài ba học trò bước theo trò chuyện cùng nàng. Điền, một trong những em học sinh chững chạc trong lớp, đánh bạo hỏi:
- Cô ơi, có phải người yêu của cô là phi công?
>Ngập ngừng trong giây lát... Hồng mới trả lời:
- Cô cũng muốn lắm chứ nhưng e rằng không được.
- Em cũng thích trở thành phi công. Khi đủ tuổi, đủ điều kiện em sẽ vào Không Quân.
- Vậy thì cố gắng học cho giỏi. Chúc em đạt thành tâm nguyện.
Đúng vào lúc đó anh Giám Học đến bên nói:
- Cô Hồng này, cô có muốn về phép Sài Gòn vài ngày không?
- Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng về cũng không biết làm gì?
Anh dọ chừng
- Thì đi ăn, đi chơi, đi xi nê, đi Vũng Tàu tắm biển với người yêu. Thiếu gì chuyện vui!
Nhớ tới Quang và Hưng đang đối mặt với tử thần hằng ngày ở tuyến đầu khói lửa, Đông đang còn tít mù tận trời Tây, Hồng chán nản trả lời)
- Không có ai chờ ai đợi tôi ở Sài Gòn cả, anh à! Tôi cũng đâu có lý do chính đáng để được nghỉ phép. Nghỉ mấy ngày, bài vở của học trò tôi bị khiếm khuyết, dạy bù mệt lắm và mất thì giờ của cả thầy lẫn trò.
- Cô đừng lo, có anh Luận sẵn sàng dạy thế cho cô mấy ngày cũng được, không tính công đâu.
Qua ánh mắt và cử chỉ của Luận, một bạn đồng nghiệp, Hồng nhận ra anh ta có cảm tình đặc biệt với nàng. Nhưng tim nàng đã hướng về "cánh bướm" đang bay lượn đùa giỡn với tử thần ở Đà Nẵng.
- Ủa, nảy giờ tôi quên hỏi lý do anh bảo tôi lấy mấy ngày phép về Sài Gòn. Hiệu Trưởng cấp phép hay ông ấy bận họp hành đâu đó, anh xử lý thường vụ nên đặc ân cho tôi nghỉ phép vậy?
Anh Giám Học cười ra vẻ bí mật:
- Nếu cô muốn thì Hiệu Trưởng phải cấp phép cho cô thôi. Yên chí!
- Anh đừng đùa, tôi làm gì mà oai dữ vậy?
Anh Giám Học cười cười ra chiều bí mật và bảo nàng theo anh vào Văn Phòng Hiệu Trưởng thì ắt biết.
Hồng bước theo anh ta. Sau khi nàng an tọa, anh Hiệu Trưởng cất lời:
- Chúc mừng cô Chuẩn Úy tương lai của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hồng mở tròn mắt ngạc nhiên, nhìn hết anh Hiệu Trưởng tới anh Giám Học. Một lúc sau, anh Hiệu Trưởng mới rút trong hộc bàn một tờ giấy đưa nàng đọc.
- Đây, lệnh nhập ngũ của cô.
Anh Giám Học cười nói:
- Chúng tôi nghĩ chỉ có mình tưởng lầm cô là một nam nhân, ai dè Nha Động Viên cũng lầm luôn. Thôi, đề nghị cô đổi tên đi. Tên Trần Phi Hồng của cô giống tên đàn ông quá. Bây giờ nếu cô cầm tờ Sự Vụ Lệnh này về Sài Gòn khiếu nại thì được nghỉ vài ngày đó.
Nhớ tới bức thư vừa rồi của Quang hẹn rằng: "Anh có một chuyện rất quan trọng muốn nói với em" nên Hồng không muốn về Sài gòn. Nàng đang chờ bức thư quan trọng đó, bức thư mà nàng dệt không biết bao nhiêu mộng đẹp hằng đêm. Nàng đáp:
- Mất công lắm, trong khi đó học trò tôi sẽ mất bài mất vở. Tôi nghĩ các anh viết công văn trả lời, xác định tôi là nữ thì được rồi.
- Cô đừng lo, chúng tôi chỉ muốn đùa với cô một chút thôi.
Vào đầu niên khóa, Hồng thường đem tên mình ra giới thiệu với học trò của mỗi lớp đồng thời giải nghĩa chữ "hồng." Đây là chim Hồng, không phải hoa hồng, cũng không phải màu hồng. "Cánh hồng bay bổng tuyệt vời" là ý nghĩa tên nàng, do người thầy dạy Sử Trung Quốc, người đã ra đề cho nàng làm thơ Đường bằng chữ Hán đầu tiên trong đời, đã chọn cho nàng. Nàng yêu ý nghĩa này. Chim hồng là chim trống, chim nhạn mới là chim mái. Có lẽ vì vậy mà Trời xui Đất khiến nàng có những hai lần được lệnh gọi nhập ngũ.
2.
Hôm ấy tan trường, Hồng về nhà ngay và nhận được thư của Quang. Nàng vô cùng hồi hộp, tay toát mồ hôi, run run mở thư mà lòng mừng khấp khởi. Tuy nhiên, đó không phải lá thư nàng mong đợi. Quang báo cho nàng biết anh bị thương, đồng thời trấn an nàng là anh đã bình phục và được nghỉ phép năm mười ngày. Vì vậy anh sẽ về thăm cha mẹ ở Long Xuyên, một tỉnh lân cận nhiệm sở của nàng.
Hồng cảm thấy như tim mình bị một con dao nhọn đâm xuyên qua. Ngày ngày súng đạn bủa vây anh, tính mạng anh quá mong manh. Nàng thầm nói: đi, mình phải đi thăm anh ngay. Trong những lá thư trước, có lần Quang kể nhà cha mẹ anh ở Long Xuyên. Ngôi nhà mái ngói đỏ, cách thị xã khoảng hơn một cây số, ven đường liên tỉnh lộ Long Xuyên - Châu Đốc, xe đò chạy ngang hằng ngày. Nhà bên phải trong vườn cây ăn trái trước khi đến ngã ba đi Núi Sập, có đèn Bốn Ngọn. Vậy là mình có thể tìm được nhưng mình đâu có ai quen ở bên đó để tá túc, còn ở khách sạn thì ngại vô cùng.
Phương rất tinh tế. Nàng thấy Hồng ủ rũ nên vội hỏi:
- Có chuyện gì không vui hả, Hồng?
- Ừ... Mình muốn đi Long Xuyên hai ngày để thăm anh Quang. Đi một mình nên sợ vì bên đó mình không có nhà ai quen để ngụ lại một đêm.
Phương mỉm cười, hăng hái nói:
- Tưởng gì chứ bên đó mình có nhà bà con ở ngay tại thành phố. Đi thăm “người ta” phải không? Mình có thể đi với Hồng nếu Hồng không ngại mình làm kỳ đã cản mũi. Yên chí! Phương này là người lịch sự có thừa, biết lúc nào cần phải lặn thì lặn, lúc nào trồi thì trồi.
Thế là sáng sớm thứ bảy tuần đó, Hồng cùng Phương lên xe đò đi Long Xuyên. Ngồi trên xe lòng Hồng nóng như lửa đốt, thêu dệt biết bao câu hỏi trong đầu. Quang không cho nàng biết vết thương như thế nào, anh bị cụt chân? cụt tay? mù mắt? phỏng mặt? sứt môi? trụi tóc?... Hình ảnh nào cũng làm lòng nàng như bị ai xát muối. Yêu người lính chiến, nàng tự nhủ thầm mình sẵn sàng chấp nhận bất cứ hoàn cảnh nào, dù xấu đến đâu. Vì đất nước, người yêu của mình hi sinh một phần thân thể thì mình cũng phải hi sinh gánh chung với anh cho trọn tình.
Phương kêu xe ngừng lại và đập nhẹ vào vai Hồng, kéo nàng trở về thực tại.
- Này Hồng, đèn Bốn Ngọn phía trước kìa, ngôi nhà ngói đỏ bên phải đó.
Hai cô đến trước nhà, thấy cửa khoá trái, hai bên cạnh không có nhà hàng xóm. Đang đứng xớ rớ nhìn quanh, không biết hỏi thăm ai, chợt thấy một thanh niên đi tới, Hồng đánh bạo hỏi:
- Chào anh, xin anh làm ơn cho biết, ở đây nhà nào là nhà của gia đình Trung Úy Phi Công Bùi Thanh Quang vậy anh?
Anh chàng này nhìn hai cô một chập rồi cười hóm hỉnh đáp:
- Ở đây không có ai là trung úy phi công. Chắc các cô bị cho leo cây rồi. Thôi về đi.
Câu nói nghe sao quá phũ phàng! Thật là xấu hổ, cọc đi tìm trâu bị người ta cười! May mà anh chàng này không biết hai nàng là cô giáo của một trường trung học lớn ở tỉnh lỵ kế bên, nếu biết thì còn quê đến cỡ nào. Hồng liếc nhìn Phương xem phản ứng nhưng thấy cô bạn của mình tỉnh bơ, không đỏ mặt, không khó chịu chút nào. An tâm, Hồng đề nghị hai người kêu một chiếc xe lôi đi đến khu thương mại Long Xuyên để tìm kiếm, hi vọng Quang đang dùng điểm tâm hay "cà-phê, cà pháo" hoặc đang "đi loanh quanh cho đời thôi mỏi mệt" ở khu này.
Hồng và Phương đi loanh quanh khu thương mại hết mấy tiếng đồng hồ và mỏi mệt thật sự. Hai cô theo mốt thời đại, mang guốc gót nhọn cao cả tấc nên mỏi chân, mỏi lưng, mệt tấm thân "liễu yếu đào tơ"... là chuyện bình thường, đàng này còn bị phồng chân mới khổ thân chứ. Mỗi bước đi là một bước cà nhắc dưới cái nắng đổ lửa của Miền Nam hai mùa mưa nắng! Không lẽ giữa đường giữa chợ đông người ở Hậu Bán Thế Kỷ 20 mà có hai cô Lý Toét mặc áo dài tha thướt, đi chân đất, guốc cầm nơi tay? Hồng tội nghiệp cho thân mình một, thương bạn gấp hai. Hôm nay bạn của nàng bị "lạc đạn" vì người bạn đang ôm mối tình si và câm này. Hồng càng cảm mến và thương Phương hơn nữa ở chỗ bạn cứ lẳng lặng đi bên cạnh, không có một lời than van hay bàn thối lui, cũng không tò mò hỏi chuyện thầm kín khó nói ra lời của nàng. Đến trưa, Hồng nhắm Quang có lẽ đã về nhà nghỉ ngơi, liền tìm xe lôi quay lại căn nhà ngói đỏ. Thật là buồn! Vẫn không gặp được anh nhưng may thay Hồng đã tìm đúng nhà, gặp được cha của Quang. Ông kín đáo nhìn Hồng rồi nhìn Phương. Hồng nghĩ thầm, thế nào ông cụ cũng lẩm bẩm: "Cái thằng thiệt là đào hoa! Về mới có mấy ngày mà đã có đến hai cô tới tận nhà kiếm nó rồi!" Hồng cũng cảm thấy “quê cơ” với sự việc "cột đi tìm trâu" này, nhưng mặc kệ, nàng đang sốt ruột vì Quang bị thương. Nàng không dám hé môi hỏi ông cụ về thương tích của anh, để rồi cứ phập phồng lo lắng, không biết anh đang vui vẻ với bạn bè hay đang bi phẫn vì thương tật của mình mà nằm rũ một nơi nào đó để hận đời? Hồng để lại lời nhắn và địa chỉ người quen ở khu thương mại, rồi cùng bạn ra về.
Có lẽ còn có chút duyên nợ nên Trời xui khiến chiều hôm đó Quang về nhà sớm, nhận tin nhắn, và tìm gặp nàng, không đi "lang bạt kỳ hồ" hai ba ngày. Nếu không thì... "vô duyên đối diện bất tương phùng," công nàng trở thành công cốc. Phải chi thời ấy có điện thoại cầm tay hay email thì khoẻ biết bao! Phương thật tế nhị, cô nàng ở nhà để Hồng đi chơi với anh.
Hồng không biết nói sao cho hết sự mừng vui của nàng khi gặp lại Quang. Nàng kín đáo quan sát "dung nhan" của anh, xem có gì khiếm khuyết không. Không sao, lành lặn. Đêm ấy, giữa hai người vẫn còn một khoảng cách mà sau này nàng mới biết đó là một nghiệt ngã của số mệnh con người trong thời chiến loạn. Sau bữa ăn chiều, cả hai vào quán Gió nghe nhạc. Được một lúc, dường như Quang không thích lắm nên anh dẫn nàng tới công viên cạnh bờ sông ngồi hóng mát. Nơi đây nhiều lúc Hồng muốn hỏi trong lá thư trước Quang định nói gì với nàng, bây giờ hãy nói đi, nhưng nàng ngại miệng, lại thêm mắc cỡ nên không hỏi. Nàng vẫn chờ anh mở lời trước như phần đông phụ nữ thời đó. Anh trầm lặng, hình như có chuyện gì không vui, ngập ngừng một lúc thật lâu, mới nắm lấy bàn tay Hồng siết nhẹ rồi nói:
- Anh định sáng mai Chúa Nhật đi Châu Đốc thăm em và cho em biết một tin quan trọng nhưng em đã đi trước anh một bước. Cám ơn em. Hứa với anh rằng em sẽ không khóc anh mới cho em biết tin...
Hồng lo lắng hồi hộp, mở to mắt nhìn anh chờ đợi. Bên ngoài anh trông lành lặn, phải chăng bên trong nội tạng anh có bị tổn thương? Nàng gật đầu và khe khẻ đáp:
- Có anh bên cạnh, không chuyện gì làm em khóc được, ngoài chuyện của anh...
Quang đặt vào tay Hồng một gói nhỏ và nói nhanh, dường như nếu không nhanh thì anh không còn can đảm để nói ra.
- Hưng tử trận rồi em à. Máy bay nó bị bắn cháy, xác nó cháy đen thui, rơi tung tóe, gom lại được một bọc. Nó yêu em. Đây là quyển nhật ký của nó đầy hình bóng của em và mấy bức thư của em. Em giữ lấy làm kỷ niệm.
Hồng bàng hoàng, nàng run run cầm lấy gói thư, cố gắng không khóc nhưng sao lệ cứ ướt mi. Nàng ân hận vì mấy tháng nay vắng thư Hưng, nàng khấp khởi mừng thầm, tưởng anh tìm được đóa hoa khác đẹp hơn, thanh lịch hơn nên đã quay lưng với nàng. Hình ảnh cặp mắt "chiếu tướng" của Hưng nhìn nàng trên chuyến bay ngày xưa hiện về cùng với hình ảnh những ngày vui vẻ chung nhóm với nhau ở Đà Nẵng chập chờn trong đầu càng làm tăng nỗi ân hận nơi Hồng. Chờ cho cơn xúc động của nàng dịu xuống, Quang mới quàng vai nàng, lay nhẹ khuyên:
- Đã hứa với anh không khóc mà lại rơm rớm nước mắt kìa. Đời trai thời chiến là như vậy đó, em à.
- Sao anh không cho em biết ngay?
- Anh cũng như em, cần thời gian để tâm tư lắng xuống.
Chợt nhớ tới tình trạng của Quang, nàng hấp tấp hỏi:
- Còn anh ... anh nói thật cho em biết đi. Thương tích anh như thế nào?
- Không sao. Anh bị thương nơi chân, không trúng xương, không trúng gân. Em đừng lo cho anh.
- Không lo sao được! Tính mạng người trai thời chiến mong manh quá. Phúc đức dày bao nhiêu mới đủ, may mắn lớn thế nào mới vừa, để che chắn cho anh khỏi lằn tên mũi đạn vây bọc hằng ngày, hằng giờ?!
Nói tới đó, tim nàng đau quặn thắt. Nàng nghẹn ngào gục vào vai anh thút thít. Quang ngồi bên lặng lẽ vuốt tóc... Chập sau, anh dịu dàng an ủi:
- Sao em mít ướt quá! Thầy bói nói mạng anh lớn lắm, bị thương không chết, anh sẽ trường thọ. Nhất định là anh sẽ không sao mà ... Thôi, tối rồi, mình đi về, em!
Quang dìu Hồng đứng dậy, anh chợt ôm lấy nàng, đặt một nụ hôn say đắm. Hồng run rẩy trong vòng tay của anh, trao cho anh nụ hôn đầu đời của nàng nơi bờ sông thơ mộng quê nhà anh. Anh thầm thì bên tai nàng:
- Anh sẽ viết thư bàn với em một chuyện quan trọng...
Hồng sung sướng vùi đầu vào ngực Quang. Đủ rồi, đủ rồi, anh ơi. Một nụ hôn bằng cả ngàn lời nói. Nàng ôm chặt anh để nghe từng nhịp đập rộn ràng của trái tim mình, cảm nhận từng hơi thở đang bủa vây nàng, sự rung động của da thịt mình dưới bàn tay chàng đang ve vuốt mái tóc, bờ vai mà ngất ngây mê đắm... Nhưng rồi, Quang nhẹ nhàng đưa nàng qua cơn mê. Trên đường trở lại nhà người quen, Hồng nắm chặt tay anh lặng lẽ đi, thầm mong thời gian ngừng trôi, để đừng bao giờ có chia ly. Nàng cay đắng nhận lấy một hạnh phúc bấp bênh, đầy đe dọa bởi chiến tranh…
3.
Phương đứng nơi đầu bàn, chung quanh có hai người bạn đồng nghiệp cùng trọ một nhà là Tuyết, Hồng, và gia đình anh chị chủ nhà. Trên bàn có đĩa gỏi bắp cải trắng trộn cà rốt vàng cam, được trang trí màu xanh của rau, màu đỏ của ớt, màu vàng của đậu phộng trông thật hấp dẫn, thêm đĩa chả giò thơm phức cùng bún, rau rất bắt mắt, và tô bánh canh đang bốc khói. Phương đang tuyên bố hôm nay sinh nhật của mình xin mời mọi người nâng ly... nước ngọt thì thầy Kim bước vào với bó hoa hồng và một hộp nhỏ gói giấy hồng, nơ đỏ. Nét mặt Phương đang tươi bỗng xụ xuống. Người khách không mời mà tới. Chị chủ nhà lăng xăng kéo ghế và lấy thêm chén đủa. Thầy Kim trao cho Phương bó hoa và gói quà. Sau giây phút bất ngờ không như ý, Phương lấy lại bình tĩnh, không niềm nở cũng không lạnh nhạt, nàng cám ơn đoạn mở quà. Đó là một sợi dây chuyền với viên ngọc trai sáng lấp lánh. Nét mặt Phương thoáng nét bất mãn, nàng đặt hoa và quà vào một góc tủ, không nói một lời nào. Buổi tiệc diễn ra tốt đẹp, vui vẻ. Tiệc tàn, khi thầy Kim chào ra về Phương nói với thầy:
- Xin cảm ơn món quà sinh nhật của anh. Phương không dám và không thích nhận món quà đắt giá này, chỉ xin nhận đóa hoa, còn món trang sức cho phép được hoàn lại.
Thầy Kim nhất định không nhận lại sợi dây chuyền, Phương cương quyết trả. Cuối cùng không ai ngờ thầy nói:
- Em không nhận thì liệng xuống sông đi!
Thường ngày, Phương rất tế nhị trong việc xã giao. Hôm nay, có lẽ vì thầy Kim nói hơi quá đáng nên nàng cầm sợi dây chuyền đi thẳng ra nhà sau. Nơi trọ là một ngôi nhà sàn, phía sau doi trên bờ con rạch nhỏ. Thấy tình hình căng thẳng, Hồng vội chạy theo cản bạn và “cố vấn”:
- Bỏ chi uổng vậy. Cứ nhận đi.
Xong, Hồng nói nhỏ vào tai Phương một "chiêu" để giải quyết vấn đề. Cô nàng quay lại, nhẹ nhàng nói với thầy Kim:
- Quà anh tặng cho em, nếu em nhận thì thành của em, em sử dụng cách nào, đó là quyền của em, phải không?
Thầy Kim sơ ý nên gật đầu. Phương gọi con gái của anh chị chủ nhà:
- Bé Châu ơi, đến đây, cô cho con sợi dây chuyền này.
Vừa nói Phương vừa đeo sợi dây chuyền vào cổ cho con bé. Bé Châu sung sướng, lí nhí câu cám ơn Phương trong khi thầy Kim giận đỏ mặt nhưng không nói được lời nào, đành ra về không vui. Thầy Kim đeo đuổi Phương quá kỹ, cả trường ai cũng biết, làm những người khác có cảm tình với Phương, trong số có thầy Hùng dạy Pháp Văn, đành chùn bước. Phương rất bực mình, tỏ thái độ lạnh nhạt mà vẫn không có hiệu quả. Phương hi vọng sự việc xảy ra hôm nay làm thầy tỉnh ngộ.
Vậy mà sau đó vài ngày, vào khoảng chín giờ tối, có một đứa bé gõ cửa xin gặp cô Phương, báo tin thầy Kim bệnh, ói mửa nhiều lần, mời cô Phương đến nhà cạo gió giùm. Nhìn ra ngoài, trời tối thui, đèn đường mù mờ, nhà nhà lên đèn, mọi người đã rúc vào nhà, đường phố vắng vẻ, Hồng thấy ngại cho Phương, điệu này một cô gái đi ban đêm đã nguy hiểm, lại tới nhà của một thầy độc thân, học trò hay phụ huynh biết được thì mất hết danh dự. Hồng vừa thấy tội nghiệp cho Phương vừa nhớ tới cái tình của bạn ngày nào cùng đi Long Xuyên với mình nên bảo bạn:
- Nếu Phương chịu đi thì mình sẽ đi với Phương.
- Không! Mình không đi đâu hết!
Nói xong, Phương vào phòng định ngủ nhưng anh chủ nhà lại nói vói theo:
- Cô Phương à, sinh mạng của một người đấy. Chịu khó một chút đi, cứu người mà cô. Tôi sẽ đi với hai cô.
Nghe anh chủ nhà hứa đi theo, có đông người, có nhân chứng, Phương mới chịu đi. Tới nơi, Phương cạo gió qua quýt, xong cả ba ra về. Trên đường về, Phương cằn nhằn:
- Bệnh gì mà bệnh. Hôi rượu thấy mồ. Trời ơi, già mà nhỏng nhẽo, tính chơi chiêu này lại bị Hồng và anh Tư chủ nhà làm kỳ đà, còn giở trò gì được.
Hồng bật cười, góp ý:
- Già gì mà già, mới ba mươi mấy thôi mà, còn trẻ chán! À... sao tụi mình "thông minh mà chậm hiểu" quá vậy? Sao không gọi một chiếc xe lôi bảo chở vô nhà thương cấp cứu cho anh chàng quê một cục chơi?
Phương hưởng ứng:
- Ừ nhỉ, anh chàng mà còn tái diễn trò này thì mình chở vào nhà thương cấp cứu cho tởn tới già!
Hồng đùa thêm:
- Thầy giáo cua gái cũng giở lắm trò!
4.
Hồng vào phòng soạn quần áo chuẩn bị tuần tới về nhà ăn Tết với gia đình. Lá thư của Đông rơi ra từ quyển tự điển. Anh cho biết đã mãn khóa huấn luyện và sẽ về nước vào đầu năm dương lịch. "Anh chưa biết anh ở đơn vị nào, nhưng anh hứa sẽ tìm mọi cách để thăm em". Anh khẳng định như vậy trong thư. Hồng thắc mắc làm cách nào anh thăm trong khi chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật như dầu sôi lửa đỏ? Quang vừa mới cho nàng biết Sang, một người bạn thân trong bộ ba của anh vừa tử trận, bỏ lại người vợ quá trẻ và đứa con còn nằm ngửa. Thế là hai người bạn thân của Quang đã hi sinh vì Tổ Quốc, chỉ còn mình anh. Hồng nhớ tới Sang, dáng người anh cao ráo trắng trẻo, khuôn mặt hiền từ, phúc hậu. Trong lúc trò truyện, anh rất vui vẻ, dùng những tiếng lóng dí dỏm và mang tính đặc trưng của từng địa phương làm Hồng nhớ mãi. Tiếng lóng “Mắm Lóc” để chỉ các cô Miền Nam và “Mắm Ruốc” cho các cô Miền Trung Hồng được nghe anh nói lần đầu lúc ở Phi Trường Quân Sự Đà Nẵng. Nàng đã thích thú với sự ví von ngộ nghĩnh đó liền bắt chước và sử dụng chúng trong câu chuyện với nhau giữa bạn bè. Tướng anh phúc hậu mà sao anh yểu mạng! Tin buồn này làm Hồng mất ngủ hết mấy đêm. Nàng lo sợ cho Quang. Anh viết thư báo tin cho nàng với một lối viết bình tĩnh lạ thường. Đó mới là điều đáng ngại. Nàng ngồi thừ người. Một anh Quang câm nín khó hiểu, một anh Đông hăm hở nhiệt tình.
Thấy Hồng thẫn thờ, Phương hỏi:
- Có chuyện gì không?
Hồng kể sơ chuyện khó xử của nàng, Phương góp ý:
- Hãy để trái tim chọn.
- Trái tim mình chọn rồi, nhưng người ta không chọn mình thì làm sao? Người ta cứ lững lơ như con cá vàng mình làm gì bây giờ?
Phương đùa:
- Thì bạn đem cá ra chiên dòn.
- Trời ơi, mình rầu thúi ruột mà Phương cứ giỡn hoài.
- Từ từ, chuyện đâu còn có đó, đừng gấp. Hồng còn trẻ mà, lo gì. Dây tơ hồng của Nguyệt Lão xe ai thì chạy trời cũng không thoát.
- Ôi chao! Phương nói chuyện như cổ tích vậy. Hậu bán thế kỷ thứ hai mươi rồi bạn ơi. Phương đừng nói với mình là sợi dây tơ hồng xe bạn với “ông già Kim xí trai” đó nghen.
- Nhắc tới anh Kim, mình mới nhớ, anh ta đòi cùng đi về Sài Gòn một lượt với chúng mình đó. Mình từ chối khéo rồi. Đừng lo. Kỳ này về Sài Gòn, hai đứa mình đi dạo quanh các cửa hàng tìm mỗi đứa một chiếc áo dài thật đẹp nghe.
Nghe bạn để nghị, Hồng hưởng ứng đáp:
- Đồng ý. Mình dở chuyện ăn mặc lắm, cứ mấy cái áo lụa mặc hoài, mỗi lần mặc phải ủi, cực quá đi. Mình sẽ mua vài cái áo "xoa" để khỏi ủi.
- Đừng chê áo lụa trắng nghe bạn. Nhờ nó mà bạn lọt mắt xanh của chàng áo liền quần đó.
Hồng biện hộ:
- Ngày xưa mình là học trò, bây giờ là cô giáo, cho cô giáo xanh xanh, đỏ đỏ một chút chứ.
- Về Sài Gòn đi, rồi xanh đỏ tím vàng, hoa lá cành có đủ cả, mặc sức mà chọn. Mặc vào cho các chàng lé mắt.
- Được rồi, bọn mình sẽ gặp nhau tám giờ sáng tại bến xe buýt Sài Gòn ngày 25 tháng Chạp. Đi tới chiều luôn, chịu không, Phương?
Phương hăng hái đáp:
- Đồng ý, "nhất ngôn ký xuất Tứ mã nan truy."
Hồng cười trêu bạn:
- Có người bắt chước mình xài chữ nho. Ha ha ha...
Ngày về Sài Gòn nghỉ lễ Tết, hai cô thức sớm đi chuyến xe đầu tiên. Tới bến xe đã thấy thầy Kim đứng chờ, đưa ra ba vé xe. Thầy hào phóng, mua luôn cho "em gái kỳ đà" này một vé. Hồng thầm réo trong đầu: Thầy Hùng ơi, thầy có nhiều ưu điểm hơn thầy Kim mà sao thầy chùn chân? Cứ tiến lên cạnh tranh công bằng, xem ai chiến thắng. Thầy học trường Tây mà hành xử kiểu quân tử Tàu, coi bộ không êm rồi đây. Anh Quang của tôi có lẽ cũng giống thầy: vì người bạn thân mà chần chừ. Nhưng bây giờ anh Hưng đã hoàn tất bổn phận của người trai thời loạn với Tổ Quốc và từ giã trần thế rồi, vì sao chỉ một cái thư như đã hứa mà ảnh cũng khó viết vậy?
Suốt thời gian đi đường, bầu không khí không được vui lắm. Đến các bến phà thầy Kim mua hết món này đến món khác mời ăn, chỉ có "em gái kỳ đà" thưởng thức ngon lành, còn hai nhân vật chánh hình như cổ họng bị đau(!) nên ăn uống như mèo.
5.
Đến ngày hẹn, Hồng đi cùng với Phương dạo khắp cửa hàng ở Sài Gòn tìm mua vải may áo. Khi hẹn với Phương, nàng quên mất những ngày cận Tết nhà nào cũng rất bận rộn, nhưng là con gái cưng lâu lâu mới về, cũng cần chưng diện cho đẹp mặt nên được mẹ thông cảm khuyến khích nàng cứ đi, việc trang hoàng nhà cửa và sắm sửa tiệc tùng cho ngày Tết một mình mẹ lo được.
Sài Gòn vào những ngày sắp Tết thật đúng như cụ Nguyễn Du miêu tả: "Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước, áo quần như nen." Những cửa hàng trang hoàng bắt mắt. Hàng hóa phong phú, đa dạng. Hai nàng mê man ngắm nghía, mua sắm, quên cả giờ giấc, đến trưa mới chọn xong vải may áo. Sau khi ăn uống no nê, hai cô đến chợ hoa vì đó là điểm quan trọng thứ hai. Hoa đua sắc thắm thu hút hai cô. Tới gian hàng hoa nào các cô cũng đứng ngắm, hoa nào cũng muốn mua, nhưng mỗi người chỉ có hai tay nên tới lui mấy lượt mới đành quyết định mỗi người chỉ mua một chậu hoa mà thôi. Phương chọn một cành mai rất đẹp, nhiều nụ còn búp, có thể đến ngày mùng một Tết mới nở rộ khoe sắc. Cành mai có hơi lớn, vào taxi cũng khó nên Hồng chọn chậu lan màu tím để tiện cầm tay đi xe buýt.
Trên đường về Phương vừa đi vừa tránh né người qua kẻ lại, giơ cao cành hoa khỏi đầu vì sợ người đi đường đụng phải làm nụ hoa rơi rụng. Tội thân cô nàng, vì yêu hoa nên khổ vì hoa, đem thân bảo vệ hoa! Hai nàng đi, một cậu bé vuột khỏi tay mẹ, chạy lăng xăng, va vào người Phương. Phương mang guốc cao cả tấc mất thăng bằng, lảo đảo, cành hoa lắc lư. Hoảng hốt, Hồng vội vàng chụp cành hoa vì sợ hoa rơi rụng, bầm giập thì mất đẹp. Hồng cũng thuộc loại yêu hoa, lấy thân che chở cho hoa và quên mất bạn mình có thể té giập mặt. Nàng cũng quên mất hai tay mình đang cầm lỉnh kỉnh mấy túi vải may áo và chậu hoa lan. "Bộp"... lọ hoa lan trong tay Hồng rơi xuống nền xi măng, bể tan tành. Lo cứu Mai mà quên Lan! Nàng nhìn hoa mà đau lòng, vừa xuýt xoa vừa lui cui nhặt hoa, đếm xem hoa rụng mất mấy nụ, quên luôn Phương. Chừng sực nhớ, nhìn ngó chung quanh vì tưởng bạn nằm dài giữa chốn chợ đông, ai ngờ khi nhìn lên... thì thấy cô nàng đang e lệ, đỏ mặt tía tai, lập bập cám ơn một người hùng đẹp trai, cao to, nước da sạm nắng, tóc hớt cao kiểu nhà binh. Kiểu này có lẽ là một anh sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang nghỉ phép đây. "Người hùng cứu mỹ nhân" đúng tiêu chuẩn người lý tưởng của cô nàng. Giữa trưa nắng nóng của Sài Gòn hoa lệ, “tiếng sét” giáng xuống Chợ Hoa Nguyễn Huệ trúng phải nàng Phương! Anh lịch sự tự giới thiệu tên Lưu, đỡ lấy nhánh mai, và giúp Hồng đứng lên. Nhìn người lại ngẫm đến ta, Hồng cảm thấy tủi thân. Nàng không vô duyên đến nỗi không có lấy một người để lọt mình vào mắt xanh. Có ít nhất hai người đang đeo đuổi kỹ nhưng sao nàng lại trơ trọi, cô đơn giữa mùa Xuân đang tưng bừng mở hội! Nhìn Lưu đưa bạn mình lên taxi về nhà, nàng nhớ chuyến xe định mệnh ngày nào ở Phi trường Đà Nẵng, chuyến xe đưa nàng vào mộng ước rất bình thường của người con gái, nhưng sao nàng cảm thấy mong manh vô cùng.
Hồng thui thủi về nhà, cảm giác mỏi mệt chợt ập tới. Khi bước vào nhà, nàng thả mình xuống ghế, gạt đồ đạc trên bàn qua một bên, đặt mấy túi vải mới mua lên đó, xoa đôi bàn chân tội nghiệp của nàng. Hai đứa em gái chạy đến xem mấy xấp vải. Chúng reo lên:
- Vải đẹp quá, cho em xấp vải màu thiên thanh này nghe.
- Em cái màu lá mạ non.
Hồng cười:
- Được, nhưng chờ vào đại học đã. Bây giờ mặc đở màu trắng đi. Hai xấp vải xoa trắng của hai em đó.
Chợt Hồng thấy một gói quà được bọc giấy hồng (lại là hồng, tên nàng) nơ đỏ nằm chễm chệ trên chồng sách đặt trên bàn. Vậy mà nàng vô ý, không nhìn thấy lúc nảy. Đứa em nhỏ thấy nàng nhìn, liền nói:
- Hồi sáng có một anh đến tìm chị mà không có chị ở nhà. Quà của anh ấy tặng chị đó.
- Anh ấy tên gì vậy?
Nàng hỏi với hi vọng là Quang đã đến tìm mình và than thầm: "Sao mà xui dữ vậy nè! Anh tới tìm em đúng vào lúc em đi chợ Tết. Sao chúng ta ‘vô duyên’ đến thế này!"
Đứa em nhỏ liếng thoắng đáp:
- Anh Đông ở bên Mỹ mới về. Ảnh chờ chị cả tiếng đồng hồ làm má bắt em nói chuyện với ảnh lâu bắt chết. Ảnh nói chuyện vui lắm, kể chuyện bên Mỹ, chuyện lái máy bay, chuyện mấy người bạn Mỹ, Tàu, Phi... Hấp dẫn lắm.
Một sự thất vọng ụp tới, đồng thời một tia vui len lén đi vào tâm tư Hồng. Đứa em lớn góp lời:
- Chị à, sao chị đi lâu quá! Sau khi ở nhà mình ra, em thấy ảnh đứng ở trạm xe buýt xế trước nhà mình lâu lắm, bỏ qua không biết bao nhiêu chuyến xe. Em chắc ảnh đợi chị đó!
Nghe em nói, Hồng bứt rứt khôn tả. Tuy biết là đã muộn lắm rồi nhưng từ trong vô thức, một động lực nào đó thúc đẩy khiến nàng bước ra cửa nhìn về trạm xe buýt rồi ngó quanh quất tìm Đông nhưng không thấy dáng anh. Chán nản, nàng hỏi:
- Ảnh có nhắn gì với chị không? Có để lại địa chỉ không?
Hồng hoàn toàn thất vọng khi thấy hai đứa em của mình đứng lặng thinh. Nàng mở hộp quà hi vọng có địa chỉ của Đông, nhưng không có gì ngoài món quà anh mang về cho nàng kỳ này là một máy sấy tóc và một lọ nước hoa Chanel 5. Lúc nào Đông cũng điệu nghệ, chọn đúng ý thích của con gái. Sợi dây chuyền anh tặng Hồng nhân dịp Giáng Sinh năm nào nàng vẫn còn đeo nơi cổ. Nàng thầm mong ngày mai anh sẽ trở lại để được một ngày dung dăng dung dẻ với anh. Cuốn phim ngày gặp mặt đầu tiên ở Quân Trường Không Quân Nha Trang quay lại rõ nét trong đầu nàng. Nàng mong nhìn lại dáng cao gầy, miệng cười mỉm trêu chọc nhưng lại biểu lộ một sự thân mật của anh. Những khó khăn gian khổ anh gặp phải trong quân trường dưới cách kể của anh đều biến thành chuyện vui. àng tự hỗ thẹn vì mình trẻ con, đã đỏng đảnh với anh ngay trong lần gặp mặt đầu tiên. Nàng đã hờn dỗi vì nụ cười trêu chọc của anh, đồng thời cũng bị nụ cười đó cuốn hút vào cuộc đấu "võ mồm" với anh để hôm nay vương vấn khó rời. Sau hơn hai năm xa cách, nàng muốn nhìn lại anh xem nụ cười vừa dễ giận vừa đáng yêu đó còn trên khuôn mặt của anh không, dáng cao gầy của anh có bị hamburger Mỹ làm biến dạng không? Do đó, suốt mấy ngày nghỉ Tết nàng không đi đâu nữa cả, ngồi nhà chờ Đông. Vậy mà anh không quay lại.
Mấy ngày Tết Hồng mất đi cái vui Xuân! Nàng thắc mắc không biết Đông nghĩ gì? Có phải anh nghĩ nàng đang tay trong tay đi chơi với người yêu? Anh là một người chậm bước vì trong thời gian hơn hai năm qua xa mặt nên cách lòng? Nếu anh nghĩ vậy thì vừa oan cho nàng mà cũng vừa đúng, nàng đang yêu Quang nhưng vẫn có cảm tình thân thiết với Đông. Bây giờ nàng rơi vào hoàn cảnh "nội chiến" giống Cẩm Vân nên đâm ra ân hận năm xưa đã trách chị. Quân, người anh họ của nàng, không được về phép Tết này nên nàng đành viết thư nhờ Quân tìm địa chỉ của Đông. Hồng đã viết đi viết lại, xóa tới xóa lui mới hài lòng một lá thư cám ơn và xin lỗi Đông đã để anh chờ. Nàng đợi khi nhận được địa chỉ của Đông sẽ gởi đi ngay. Nàng tự trách và than thầm: Sao mình không về nhà sớm, sao anh không đến trễ một ngày. Có phải chăng "vô duyên đối diện bất tương phùng?"
Sau cái Tết không được vui lắm, Hồng trở lại trường trông ngóng ba lá thư từ KBC: thư của Quang, Đông, và anh họ của nàng. Từ ngày báo tin Sang, người bạn thân thứ hai đã vĩnh biệt cõi đời, Quang viết thư từ cho nàng rất thưa thớt. Chiến tranh ngày càng leo thang, càng khốc liệt. Nàng theo dõi tin tức chiến trường rồi sốt ruột và viết thư liên miên cho Quang. Thư đi thì nhiều, thư về lại hiếm. Nàng buồn vô cùng và có lúc nghĩ vẩn vơ, thỉnh thoảng thoáng qua đầu nàng hình ảnh một cô gái Huế tóc thề mượt mà dài ngang lưng, tay trong tay với anh dạo bờ Hương Giang. Nàng chắc lưỡi than thầm: mình ở xa quá, không đem đến niềm vui từng ngày cho anh nên tình cảm nhạt phai dần theo thời gian và không gian!
Về phần Đông, Hồng thắc mắc sao anh không viết thư cho mình dù là một lá thư trách móc nàng cũng hài lòng, để nàng có dịp thanh minh và cám ơn tấm lòng của anh qua hai món quà ngày Tết. Nàng không sai hẹn, nàng không có lỗi mà sao anh giận dai thế? Đó đâu phải bản tánh của anh, một người rất vui tính? Hồng tự trách, tự biện hộ, rồi thắc mắc: Hay là mình gặp phải "hai cánh bướm chỉ lượn vành mà chơi?". Nàng ôm lấy tâm sự này mà ưu sầu một mình, không dám thố lộ cho đồng nghiệp ở chung nhà là Tuyết và Phương biết, chỉ sợ hai người đó lại cười nàng bắt cá hai tay nên vuột mất cả hai. Nàng cũng không dám viết thư tâm sự với chị Hai Cẩm Vân của nàng, vì sợ "câu kinh nhật tụng" của chị: "Tao đã nói rồi mà, mấy anh chàng Không Quân là những cánh bướm chỉ lượn vành mà chơi. Ai ngu ráng chịu". Nàng cũng giấu ông anh họ Quân của nàng vì nghĩ anh có lẽ cũng là một cánh bướm lượn vành, sẽ cười nàng thúi đầu, nên không dám thúc giục anh tìm địa chỉ Đông. Thế là nàng đành chờ đợi trong âm thầm câm nín!
Giờ đây Hồng mới thấm thía câu "Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây" trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm. Có chờ có đợi mới thấy thời gian trôi sao quá chậm!
6.
Để thoát ra khỏi nỗi buồn chờ đợi tin nhạn gởi về, Hồng sống hòa mình với thế giới học đường của nàng. Hồng may mắn hơn người chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm ở chỗ cuộc sống của nàng có thế giới bên ngoài song hành với thế giới tình cảm riêng tư nội tại. Hồng có bạn bè, đồng nghiệp, và học trò. Bận rộn với học đường giúp nàng đỡ ủ dột hơn người chinh phụ. Phương và Hồng được bầu vào trong Ban Giáo Sư Cố Vấn của trường. Đây là một sự bầu cử có tính cách o ép của các thầy vì họ muốn đưa hai cô giáo trẻ vào làm việc chung cho vui. Hai nàng biết "ý đồ" đó và phản đối nhưng vô hiệu quả. Các thầy đông quá, toàn thể giơ tay biểu quyết tín nhiệm. Thế là cuộc bầu bán "độc diễn" thành công. Hai cô đắc cử với số phiếu tuyệt đối và không có tiếng bấc tiếng chì hậu bầu cử. Hai cô chiến thắng vẻ vang hơn nhiều lãnh tụ các quốc gia khác, nhưng... hình như hai nàng là bù nhìn. Và, năm nào cũng được tái đắc cử với số phiếu (bằng tay) đa số tuyệt đối. Hai cô chỉ có lấy một buổi họp đầu niên khóa với Ban Đại Diện Học Sinh để hoạch định chương trình cho cả năm. Sau đó các thầy làm tất cả mọi việc. Khi đề cử, hai cô giẩy nẩy lắc đầu, các thầy đã hứa sẽ giúp đỡ mọi việc, cho nên mấy thầy phải gánh mà thôi.
Cô Phương lãnh chức Cố Vấn Văn Nghệ & Báo Chí, chỉ có việc đọc và chọn bài đăng vào Đặc San Tết, còn những việc trang trí, quảng cáo, in ấn... các thầy lãnh hết. Văn Nghệ cuối năm cũng vậy, Phương không cần biết tới, có người lo vẹn toàn. Riêng Hồng với chức Cố Vấn Xã Hội chỉ mỗi việc làm “Bang Chủ Cái Bang” dẫn đám "đệ tử," đứng mấy chỗ có đông ông đi qua, bà đi lại như ngã ba, ngã tư, chợ búa, tiệm ăn để xin tiền giúp đồng bào thiên tai, địch họa, thương binh tử sĩ. Hồng hơn Bang Chủ Tổ Tiên của nàng là Hoàng Dung trong truyện kiếm hiệp Kim Dung ở chỗ nàng không bị buộc ăn mặc nghèo nàn, rách rưới, mà phải mặc áo dài xinh xắn, tha thướt, mượt mà đi ăn mày đầu đường xó chợ. Vậy mà thiên hạ đã ưu ái cúng nhiều tiền lắm. Đem thùng tiền về, giao Hiệu Trưởng hay Giám Học xong hai nàng phơi phới ra về. Việc của Hồng có Phương tình nguyện làm phụ tá, việc của Phương có Hồng tình nguyện giúp. Thầy trò bỏ tiền túi ăn cơm nhà vác ngà voi, vậy mà vui vô cùng. Ở tỉnh nhỏ tình người rất dễ thương vô cùng!
Tình thầy-trò càng ngày càng thêm thân thiết. Vườn cây trái của trò lại được hai cô giáo trẻ này thăm viếng. Thế là hai cô được ăn, được thương yêu, còn được gói mang về. Học trò của một trong hai cô nếu có bài vở gì không thông suốt thì hỏi bất cứ cô nào cũng được nhiệt tình giúp đỡ. Dần dà rồi không biết tự bao giờ không còn phân biệt học trò riêng hay cô giáo riêng của ai nữa. Học trò của hai cô tự dưng đông gấp đôi, tỉnh lỵ lại nhỏ nên nhất cử nhất động của thầy cô giáo không lọt khỏi cặp mắt đông đảo của học sinh.
Vào một buổi sáng Chúa Nhật, Phương, Hồng, một vài cô giáo trẻ về trường niên khóa sau, và hơn chục học trò đang tập họp chuẩn bị đi cắm trại tại Núi Sam, anh chàng người hùng Lưu bỗng đến thăm Phương. Thầy trò của bọn Hồng lịch sự có thừa, cùng nhau đi cắm trại, bỏ lại giai nhân Phương cho người hùng Lưu săn sóc. Anh là lính đi bộ, quen đi xe Jeep nên bắt xe đò đổ đường từ Sài Gòn xuống thăm nàng, còn hai cánh bướm của Hồng quen "bay" nên không quen ngồi xe đò, để cho nàng nhìn bạn mà tủi thân. Buồn ơi! Chào mi!
Thầy Kim kỳ này vắng mặt trong cuộc vui cắm trại vì thầy bận về Sài Gòn lo giấy tờ ly dị. Thế mà khi trở về trường thầy lại biết được tin cô Phương có người yêu đến thăm. Tin "tình báo học trò" rất chính xác và vô cùng nhanh chóng. Thầy tới nhà trọ tìm Phương đúng vào lúc Phương và Hồng đang trò chuyện vui vẻ với dăm em học sinh. Thấy gương mặt thầy sa sầm xám ngắt, Phương giữ học trò ở lại chơi, Hồng thì ra dấu bảo về. Các em biết ý nên lần lần rút lui êm. Phương nắm tay Hồng giữ lại không cho vào phòng. Hồng là "đồng minh" trung thành của Phương nên quyết tâm bảo vệ cô nàng. Hồng ngồi lại làm con kỳ đà. Để làm giảm cơn buồn giận của thầy Kim, Hồng lên tiếng trước:
- Về Sài Gòn kỳ này, anh lo xong giấy tờ chưa?
- Xong rồi. Anh mất nhiều công sức mới lo xong sớm. Không ngờ vắng mặt có mấy ngày, ‘người ta’ xoay lưng lại với anh.
Nghe vậy, Phương nổi nóng nên nói thẳng:
- Phương chỉ coi anh như một người anh thôi. Anh không giống mẫu người lý tưởng của Phương chút nào cả. Chuyện riêng của Phương, anh không có quyền xen vào. Nếu còn xen vào, mất tình anh em đó.
Vậy mà thầy Kim cố nói:
- Không có em, anh sống không nỗi nữa.
- Sống nỗi hay không là việc của anh, tùy anh.
Nói xong cô nàng quầy quả đi vào nhà sau. Thầy Kim đứng dậy nói vói theo:
- Anh chết trước mặt em cho em hài lòng.
Nói xong thầy rút con dao xếp thủ sẵn trong túi áo. Trong khi thầy mở dao thì Hồng nhanh tay đoạt lấy, bỏ vào túi áo của nàng và an ủi thầy:
- Anh à, anh muốn cảnh sát tới đây rần rần, làm liên lụy tới anh Tư chủ nhà, mang tai tiếng khắp trường, khắp tỉnh hay sao. Bình tĩnh đi, duyên ai nấy gặp, cưỡng cầu không được, mà nếu được liệu có hạnh phúc không? Anh suy nghĩ lại đi. Nó không yêu anh, làm sao sống với nhau có hạnh phúc? Anh nói anh yêu nó, vậy anh muốn nó vui vẻ, hạnh phúc hay anh muốn thấy nó buồn rầu, héo hon?
Nói xong, Hồng cảm thấy mình như một bà cụ non. Sao triết lý... vụn hay như vậy!
Thầy Kim ngồi phịch xuống ghế, thừ người, ôm đầu một lúc lâu, rồi đứng dậy cám ơn Hồng, ra về.
Nàng vào phòng tường thuật cho Phương nghe. Cô nàng cười khen:
- Giỏi! Bạn học võ hồi nào mà ra chiêu "tay không cướp vũ khí"(!) tuyệt vời, không bị trầy tí da nào cả?
- Mình biết ổng chỉ hù dọa thôi, nhưng nếu ổng biết mình không tin, sẽ làm nư, lỡ có xây xát thương tích thì thiên hạ biết, đồn tùm lum ra, mắc cỡ chết.
Phương trêu Hồng:
- Ôi chao! Hôm nay Hồng lập được công "giai nhân cứu người hùng" ổng sẽ mang ơn cứu mạng(!) này suốt đời. Cám ơn bạn đã nói lên giùm mình những điều khó mở miệng.
Mỗi lần thầy Kim "ra chiêu" Hồng lại nhớ tới sư huynh Lữ của nàng ngày xưa. Khi gặp Hồng, anh cũng đã có vợ con như thầy Kim, nhưng cách hành xử của anh khác. Một người động, một người tĩnh. Bây giờ anh ở đâu? Trong vòng vây lửa đạn, anh có an lành không? Anh có tìm được hạnh phúc bên vợ con không? Hay anh bất hạnh như thầy Kim? Những câu hỏi không có câu trả lời mà vẫn được Hồng hỏi đi hỏi lại mãi. Còn Quang của nàng, ba lá thư gởi đi rồi mà chưa có hồi âm. Nàng tự an ủi thời buổi chiến tranh anh bận hành quân liên miên không rảnh thì giờ và tâm trí để viết nên chậm thư. Ngày nào nàng cũng hồi hộp theo dõi tin tức thời sự và chiến trường qua báo chí và truyền thanh. Vùng I Chiến Thuật đang dầu sôi lửa bỏng. Tuần nào đi cắm trại ở Núi Sam, nàng cũng vào Chùa Tây An và Chùa Bà Chúa Xứ để cầu phước lành cho anh. Nàng cầm cuốn sổ tay Hướng Dẫn Cấp Cứu anh đã tặng để nhớ tới anh, để thấy anh trong đó. "Anh cần cuốn này hơn em mà, học trò của em ít khi gặp tai nạn hơn chiến hữu của anh. Cám ơn anh. Mỗi lần nhớ tới anh, em đọc nó. Nó đã sờn gáy rồi, nhưng em sẽ giữ nó mãi mãi như giữ tình yêu của em với anh". Hồng lẩm bẩm với mình.
7.
Phương về, từ ngoài cửa nàng đã nói như reo:
- Này Hồng, có tin vui. Bạn có quà từ KBC gởi. Công mình từ trường mang về, đãi mình một bữa chè nghen!
- Chuyện nhỏ, mấy bữa cũng được.
Phương nhá một bao thơ lớn dày cộm trước mặt Hồng, xong giấu sau lưng
- Thôi mà, làm khó mình chi vậy. Làm ơn đưa gấp đây, mình đang đợi mấy tháng nay rồi.
Phương ra điểu kiện để trêu:
- Nói đúng tên người gởi thì mình đưa ngay.
- Quang.
- Sai.
- Đông.
- Sai.
Mặt Hồng kém tươi, ưu tiên 1, ưu tiên 2 đều không phải. Vậy là thư của anh Quân. Anh Quân đã tìm được địa chỉ của Đông?
- Cho nói lần cuối.
Hồng hớn hở nói:
- Kỳ này mình nhất định trúng lô an ủi khá lớn đây. Thư anh Quân
- Đúng rồi. Chèn ơi, gì mà tới ba KBC lận. Đào hoa dữ đa!
Hồng hí hửng mở gói quà ra. Trong đó một lá thư của anh Quân, và một hộp giấy nhỏ hình chữ nhật được bọc kỹ và dán kín. Nàng để hộp quà sang bên, mở thư của anh Quân ra đọc, mong sao có địa chỉ của Đông trong đó.
Nha Trang, ngày...tháng... năm...
Em gái thân yêu của anh,
Việc đầu tiên anh xin lỗi em vì đã chậm việc em nhờ. Cho anh trăm ngàn lần xin lỗi em. Mọi lý do bây giờ đều là ngụy biện, không thể tha thứ được. Chính anh cũng không thể tha thứ cho anh. Anh thiếu trách nhiệm với em, với Đông, anh không sốt sắng, không tích cực hỏi tìm địa chỉ của nó cho em. Anh đã dần dà lần lữa, hẹn nay hẹn mai. Anh đã làm mất đi mấy tháng vàng ngọc của Đông và em.
Đông yêu em, yêu ngay lúc đầu gặp gỡ. Anh biết và xác nhận là đúng. Đông mang tình yêu nồng nàn tích lũy mấy năm trời về nước để trao cho em. Không gặp được em, nó nghĩ rằng em ra trường gặp người xứng đáng hơn nó. Nghĩ lại thân mình sinh mạng mong manh, sáng ra đi còn yêu đời, khỏe mạnh, chiều về có thể xác nằm trong poncho hay rơi vung vải trong rừng, núi nên nó cứ chần chờ không gởi thư cho em. Anh thông cảm với nó vì cũng cùng một tâm trạng. Trong đời anh, nó là người bạn thân nằm xuống đầu tiên cho Tổ Quốc. Bạn bè cùng đơn vị của nó gom hết mấy lá thư của em viết và lá thư cuối cùng của nó viết cho em còn dang dở gởi đến anh nhờ chuyển cho em. Em đọc thư sẽ rõ tình yêu của nó....
Mắt Hồng nhòe đi, không đọc tiếp được nữa. Hồng gục xuống bàn nức nở. Phương ngỡ ngàng nhìn bạn, liếc qua bức thư, thừ người ngồi im lặng bên cạnh. Phương đang nghĩ tới Lưu, chợt rùng mình. Tương lai của mình, của tuổi trẻ Việt Nam đi về đâu...? Mọi lời nói an ủi bây giờ đều vô ích. Phương nắm lấy bàn tay Hồng siết chặt biểu lộ sự cảm thông. Nàng cảm thấy căn phòng vắng lặng, lạnh ngắt mặc dầu có tiếng khóc thút thít của Hồng vang lên từng cơn.
Sau buổi gặp gỡ tình cờ đầu tiên ở Chợ Hoa Nguyễn Huệ dịp Tết, Lưu đã tận dụng những ngày nghỉ phép đến gặp Phương. Cô nàng đã cùng anh hưởng trọn những ngày vui Xuân cùng nhau. Anh đã gác qua một bên những ngày gian nguy nơi chiến trường để tận hưởng những ngày vui ít ỏi của mình với Phương. Đơn vị anh đóng ở Lai Khê (Biên Hòa) cũng là một cái may, khoảng cách không gian giữa hai người không quá xa để vượt khỏi tầm tay với. Từ tình cảm quý mến lúc ban đầu dần dà phát triển thành tình yêu. Nhưng, lại chữ nhưng quái ác! Cha của Phương tỏ ý không muốn có chàng rể là lính trận. Ông sợ con gái cưng độc nhất của mình sớm làm góa phụ, trong lúc ông có nhiều bạn bè ngỏ ý muốn ngồi xui với ông. Những người bạn này có con trai là bác sĩ, kỹ sư trong các ngành dân chính.
Giờ đây thấy Hồng ngồi khóc vì Đông đã hi sinh cho Tổ Quốc, Phương thương cho bạn và đau lòng cho mình. Cha nàng có lý khi phản đối tình yêu này. Đó cũng là do tình cảm của người cha đối với con. Mẹ nàng mất sớm, bỏ lại bầy con cho ông. Ông không tái hôn, nuôi con nhọc nhằn cho đến giờ. Ông lấy hạnh phúc của các con làm hạnh phúc của mình, bất hạnh của các con làm bất hạnh của mình. Nàng không muốn làm cha mình buồn bã lo âu, đồng thời cũng không muốn phải xa Lưu. Trái tim có những lý lẽ không giải thích được. Biết rằng kết hôn với Lưu là đánh đu với số mệnh, nhưng chỉ mới nghĩ tới ngày nào sẽ mất Lưu trong đời nàng không thể chịu được.
Để tránh cho cha nàng khỏi buồn phiền, Phương giấu cha và hẹn hò với Lưu ở Châu Đốc. Một vài khó khăn và bất tiện xảy ra. Vì thời giờ eo hẹp, những cuộc gặp gỡ giảm xuống và ngắn lại. Đường bộ thiếu an toàn dù anh "tam tứ núi cũng trèo" thì sá chi mô mìn dọc đường, nhưng cũng là một vấn đề khó nghĩ cho Phương. Cặp mắt học trò khắp nơi làm giảm đi tự do, giảm đi tình tứ lãng mạn, một nắm tay, một nụ hôn cũng không dám, và thầy Kim nữa... Ôi chao, nhắc tới thầy Kim là nhắc tới rắc rối cuộc đời. Sau màn tự tử hụt, thầy không buông bỏ hi vọng, vẫn tới lui thường xuyên, và vai trò kỳ đã cản mũi của Hồng vẫn phải tiếp tục. Ngày mai Chúa Nhật, Lưu có hẹn sẽ gặp Phương. Phương sợ thầy Kim chạm trán với Lưu, lùm xùm, tai tiếng không đẹp ở một tỉnh lỵ nhỏ, nơi mà hình ảnh thầy cô giáo được phụ huynh đem ra làm tấm gương mẫu mực cho con em noi theo. Chưa biết giải quyết cách nào Phương nghe Hồng tức tưởi nói:
- Anh Đông còn quá trẻ. Quá trẻ!... Anh mới về nước có hơn bốn tháng thôi, Phương ơi!
Phương nghe nói, tự dưng cũng nhói đau và ứa lệ. Hồng tiếp:
- Mình mắc nợ anh một lời xin lỗi và một lời cám ơn. Làm sao bây giờ! Làm sao bây giờ!
Phương không thể trả lời được, nàng ôm lấy bạn, chỉ biết an ủi một câu mà nàng biết bạn mình không tin:
- Anh ấy không trách đâu. An tâm đi.
Phương biết Lưu đã đến tỉnh lỵ, ở tại khách sạn độc nhất của tỉnh nhưng không thể đi găp anh được. Nằm bên cạnh Hồng, Phương trằn trọc suốt đêm, thỉnh thoảng tiếng nấc của bạn trong giấc ngủ mệt mỏi làm nàng thêm bứt rứt.
Sáng sớm hôm sau, Phương lấy khăn nóng đưa cho bạn chườm hai mắt cho bớt sưng, ái ngại nhờ bạn:
- Hồng à, giúp giùm mình một việc. Mình đi Long Xuyên với anh Lưu để tránh cặp mắt của mọi người, chiều về. Nếu anh Kim có tới, Hồng tìm cách nói khéo giùm mình nghen.
- Hãy vui vẻ khi có dịp. Đừng để lỡ như mình, rồi ân hận mãi...
Phương đi rồi, Hồng mở thư của Đông ra đọc. Nơi hàng ghi ngày tháng hai chữ Đà Nẵng đập vào mắt nàng. Vậy là Đông về cùng Phi Đoàn với Quang. Anh là một đàn em chiến hữu của Quang mới về nước mấy tháng đã vĩnh biệt cõi đời. Chuyện này thế nào cũng gây sốc cho Quang. Vậy là tình hình chiến sự nơi địa đầu giới tuyến rất gay cấn. Hồng mới đọc vài hàng, nước mắt lại ứa ra, nàng gấp lại, đọc sau vậy. Hồng lấy những lá thư của Đông và thư của nàng sắp xếp chung lại với nhau theo thời gian và cất vào hộp. Nàng không có can đảm đọc lại, chờ thời gian cho tâm tư lắng đọng rồi đọc sau. Không đọc nhưng quá khứ cứ quay về, quà anh tặng còn đây, kỷ vật còn đây. Nàng chua chát nhớ tới lời của Ngọc đã chọc ghẹo khi đeo sợi dây chuyền vào cổ nàng: "Từ giờ trở đi nàng mang theo chàng luôn bên mình. Hai ta trở thành chim liền cánh cây liền cành." Ngọc ơi, cánh gãy, cành rơi mất rồi!
Hồng còn đang mân mê sợi dây chuyền nơi cổ thì bé Châu thông báo có thầy Kim tới tìm Phương. Hồng bước ra, thấy mặt thầy Kim méo xẹo, mặt nàng cũng không tròn. Chưa kịp ngồi xuống ghế, thầy Kim đã lên tiếng:
- Phương đi rồi phải không?
Hồng nghĩ "tin tình báo học trò" nhanh thiệt, liền đáp:
- Phải. Nó có chuyện riêng, đi khỏi rồi.
- Anh đi kiếm Phương.
Hồng vờ giận dỗi:
- Anh chỉ biết có nó thôi. Còn đứa em gái nuôi này chết sống thế nào anh không cần biết tới, phải không? Anh nhìn kỹ lại em đi, xem có gì khác lạ hơn mọi ngày không?
Thầy Kim dừng bước, nhìn kỹ Hồng, thấy mắt nàng còn sưng mọng, đoạn kéo ghế ngồi xuống hỏi:
- Có chuyện gì vậy? Em với Phương gây lộn hả?
- Nếu chỉ có gây lộn thì làm sao em rơi nước mắt? Em buồn lắm. Đừng hỏi nữa, chỉ làm em khóc thôi. Anh ngồi lại đây kể chuyện đứa con gái dễ thương của anh cho em bớt buồn.
Bị gợi đúng vào yếu huyệt, thầy Kim huyên thiên kể chuyện đứa con gái của thầy từ lúc mới chào đời, giai đoạn chập chững biết đi, bập bẹ biết nói, cho đến ngày cắp sách đến trường. Thỉnh thoảng Hồng chêm vào một câu hỏi “câu giờ” để thầy Kim kể tỉ mỉ hơn. Nàng phòng hờ nếu Phương gặp trường hợp phải đợi lâu xe đò mới khởi hành thì cũng đủ thoát nạn. Yêu nhau mà như tội phạm, phải lén lút. Thật tội nghiệp cho người bạn này của Hồng!
Nhìn dáng thiểu não của thầy Kim ra về, một nỗi thương cảm tràn vào tâm hồn Hồng. Nàng chợt cảm thấy mình có một thay đổi lớn trong tính tình. Ngày xưa nàng dễ vui dễ cười, bây giờ dễ buồn dễ khóc. Cuộc sống biến đổi nàng hay là nàng đã giã từ tuổi thơ? Nàng thẩn thờ đứng lên ngồi xuống, đi tới đi lui, không biết làm gì. Đọc thư không vô, viết thư không được, chấm bài học trò không xong. Nàng bước ra cửa ngắm nhìn mông lung, chợt thấy Điền, cậu học trò nuôi mộng làm phi công, đang thập thò trước cửa. Hồng ngoắt tay mời Điền vào nhà và mở đầu:
- Em còn nuôi mộng làm phi công không vậy Điền? Nếu còn thì đừng, nghe em. Cô đang hối hận vì đã trích giảng mấy bài trong quyển Đời Phi Công, gieo vào đầu các em hình ảnh thơ mộng. Thực tế bẽ bàng và đau buồn lắm. Em hãy mộng làm bác sĩ để cứu dân, làm luật sư để binh vực cho người nghèo, làm thầy giáo để đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai dân tộc, học ngành khoa học để xây dựng đất nước tiến bộ, giàu mạnh bằng người. Nhiều ngành nghề lắm. Đừng, đừng bao giờ đi Không Quân...
Nói đến đây, Hồng khựng lại, chợt thấy mình có tư tưởng lệch lạc. Cả một thế hệ trẻ làm theo lời nàng thì lấy ai bảo vệ Tổ Quốc chống Làn Sóng Đỏ, bảo vệ Tự Do? Không có những người chiến sĩ Hải Lục Không Quân đổ xương máu giữ an lành cho dân chúng thì nàng và đám học trò này làm sao đến trường dạy và học hằng ngày? Nàng lật đật tiếp:
- Thôi, bỏ đi. Coi như cô không nói mấy lời vừa rồi. Xin lỗi em, hôm nay cô nói lung tung quá.
Ấp úng một lúc, Điền dè dặt hỏi:
- Cô đang có chuyện buồn?
- Đúng.
- Để em hát một bài cho cô nghe đỡ buồn.
Không đợi Hồng trả lời, Điền cất cao giọng bài ca vinh danh Phạm Phú Quốc, (một phi công bị bắn rơi trên bầu trời Miền Bắc), mà thầy trò thường hay hát khi đi cắm trại với nhau. Điền mới hát được vài câu đầu, Hồng lật đật ngăn lại:
- Thôi, thôi, em đừng hát nữa. Cô mệt lắm. Cô cần nghỉ một lúc. Cám ơn em đã đến thăm cô. Hẹn ngày khác.
Điền đứng lên, ngập ngừng một lúc rồi ấp úng nói:
- Em đến đây để nhờ cô giảng cho bài này. Nhưng cô mệt, thôi để hôm khác. Em để lại đây, khi nào rảnh cô xem cũng được.
Điền ra về, Hồng cầm lấy xấp giấy Điền đưa, cất ngay vào tủ. Nàng đâu còn tâm trí để mà đọc bất cứ gì. Nàng vào phòng nằm vùi, thả hồn về quá khứ. Hình ảnh bãi biển Nha Trang với Đông, bãi biển Đà Nẵng với Quang quay cuồng lẫn lộn trong đầu nàng, và nàng mệt mỏi thiếp đi trong tiếng sóng ầm ì và tiếng cười nói rộn ràng của quá khứ... cho đến lúc một bàn tay mát lạnh sờ trán làm nàng giật mình tỉnh giấc. Phương đang đứng trước mặt nàng, nói:
- Hồng sốt cao quá. Ngồi dậy uống miếng sữa và viên thuốc hạ sốt này.
- Chiều rồi à? Mấy giờ rồi?
- Cũng còn biết chiều là thời gian mình về hả? Vậy chưa sao.
Hồng nhìn bạn, ánh mắt nàng tỏ vẻ cám ơn. Nhìn mặt Phương tươi tắn, nàng chúc mừng bạn được một ngày vui, rồi thuật lại chuyện thầy Kim tới nhà hồi sáng. Nàng kết thúc bằng câu: "Việc Phương cần làm tiếp theo là phải làm sao cho thầy Kim tuyệt đường hi vọng mới xong".
Sau một lúc suy nghĩ, Phương nói với giọng cương quyết:
- Chỉ còn cách xin thuyên chuyển nhiệm sở đến tỉnh khác để tránh gặp mặt hằng ngày và sự phiền phức. Mình sẽ xin về quê nhà ở Mỹ Tho trong niên khóa tới. Thời gian phục vụ ở đây cũng đủ để mình xin chuyển đi tỉnh khác rồi, từ từ đổi về Sài Gòn sau.
- Như vậy tốt đó. Rút ngắn không gian lại để Phương và anh Lưu tiện gặp nhau hơn.
Linh Mục Cao Văn Luận đọc diễn văn
trong buổi lễ Khai Giảng Viện Hán Học Huế niên khóa 1961-1962
vhp Hạ Vũ
Chương 6
Ngã rẽ đường tình
1.
Hồng bệnh nên được nghỉ dạy vài ngày. Có thời giờ rảnh nàng lấy giấy viết thư cho Quang, nhất định không để lỡ việc nữa. Bình tĩnh, nàng lấy hết can đảm viết đòi Quang cho nàng biết chuyện quan trọng mà anh đã hứa sẽ nói với nàng là chuyện gì. Thư nàng vừa bỏ bưu điện, tin của Quang lại tới. Lá thư dài gấp đôi mọi lần khiến nàng mừng thầm được một bức thư dài để đọc cho phỉ những ngày vắng thư anh. Sau những câu thăm hỏi, khích lệ thông thường anh bắt đầu nói về những cảm xúc của anh khi chở những chiếc poncho có thân xác không toàn vẹn của các chiến sĩ tử trận về hậu cứ, tiếp theo là đoạn trọng tâm sau:
"... Mặc dù anh đối diện với chết chóc hằng ngày nhưng tim anh vẫn bằng thịt, máu anh vẫn đỏ thắm nên anh đau lòng vô cùng khi thấy những người vợ trẻ, người yêu vật vả, rũ người bên xác người thân, những cặp mắt mở tròn của trẻ thơ ngơ ngác nhìn quanh không biết chuyện gì xảy ra, miệng mếu máo khóc theo mẹ. Như em đã biết Hưng và Sang ra đi trong khi tuổi đời còn tươi thắm. Sang bỏ lại người vợ mới rời ngưỡng cửa học đường một năm và đứa con còn nằm ngửa. Vừa mới đây, trong chính Phi Đoàn của anh, một đàn em mới về nước vỏn vẹn có bốn tháng mười ngày đã nằm yên trong lòng đất mẹ, xác nó cháy đen co quắp. Bạn bè thân của nó cho anh biết nó đang viết một lá thư gởi cho cô gái nó yêu, cũng là cô giáo như em, vẽ ra một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Vẽ chưa xong tương lai đời mình nó vĩnh biệt cuộc đời. Một mơ ước đơn sơ mà cũng không thành. Những người bạn này đã gom tất cả thư từ của cô gái cùng lá thư viết dang dở đó làm kỷ vật cuối cùng của nó và gởi cho cô ta. Anh cầu chúc cô ấy đủ nghị lực để vượt qua nỗi mất mát này.
Anh yêu em nhưng anhkhông muốn em rơi vào hoàn cảnh đau buồn như thế. Em quên anh đi, hãy tìm một người chồng dân sự để được sống trong một gia đình hạnh phúc, không phải trông đứng trông ngồi, hồi hộp từng giây từng phút mỗi khi người chồng bước chân ra cửa. Ngày nào anh được tin mừng của em, tất nhiên anh sẽ buồn nhưng sẽ thật sự mừng cho em, và không còn ray rứt nữa..."
Đúng là một lá thư không mong đợi! Không còn can đảm đọc tiếp nữa, Hồng buông rơi lá thư trên bàn, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn khoảng không gian trước mặt. Nàng không muốn tin đây là lá thư Quang gởi tới nàng. Không, không... Nó chỉ là lá thư trong tiểu thuyết và nàng đang đọc một truyện tình lãng mạn. Hồng nhặt lá thư lên, vuốt nhè nhẹ, nhận ra rằng đó là một tờ giấy, không phải quyển sách. Nàng thẩn thờ ngồi bất động, không khóc nhưng nước mắt cứ trào ra. Bóng tối dần dần phủ ngập căn phòng, phủ trùm luôn hi vọng của nàng. Phương về, rón rén bật đèn, bước đến gần Hồng. Nhìn bạn, Hồng nói như than van:
- Phương ơi, bức thư này không thật. Anh ấy chép từ trong tiểu thuyết ra, phải không?
Phương đọc nhanh bức thư, đoạn nàng đặt tay lên vai Hồng vỗ nhè nhẹ, ngập ngừng một lúc rồi nói:
- Thuốc đắng giã tật, lời thật mất lòng. Mình nói ra những gì mình nghĩ nghen. Ý kiến của mình chưa chắc là đúng nhưng có thêm một ý kiến để rộng đường cho Hồng nhận xét và suy nghĩ. Theo mình thì anh ta yêu Hồng chưa đủ nặng để “mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua."
Hồng nhìn bạn, cầm bức thư đọc lại, cảm nhận sự bẽ bàng của mình, nàng bật khóc thành tiếng. Phương ngồi bên cạnh, để mặc cho bạn khóc, thả hồn về với chuyện tình cũng nhiều trắc trở của mình. Hồi lâu sau Phương siết tay Hồng, cất tiếng với giọng cương quyết:
- Không đầu hàng khó khăn trở ngại. Phải vượt qua cho bằng được. Bạn cần giải tỏa cái gút mắc trong lòng của anh ta trước đã. Nếu anh ta cứ khăng khăng giữ ý định xa nhau thì có chuyện không ổn rồi. Bây giờ đã có gì đâu mà bi quan.
Được bạn khích lệ, Hồng lấy lại bình tĩnh, viết thư bày tỏ tâm tình, cho Quang biết nàng sẵn sàng chấp nhận mọi thương đau, và gởi bảo đảm cho chắc chắn thư không bị thất lạc. Điều nàng lo lắng nhất là anh bị thương tật, trở thành người tàn phế có thể mang tâm bệnh rồi xa lánh tất cả mọi người thân yêu. Thư của Hồng không bị bưu điện hoàn trả nhưng nàng cũng không nhận được hồi âm. Điều này có nghĩa là Quang còn sống, nhận được thư Hồng nhưng vẫn quyết định chia tay. Tình huống ấy càng làm cho nàng lo lắng không yên. Hồng kiên nhẫn, mỗi tháng gởi một lá thư. Những lá thư mang tình yêu của nàng chìm trong vô vọng. Hồng quyết định vào kỳ nghỉ hè sắp tới nàng phải đi Đà Nẵng một chuyến để tìm hiểu sự thật.
2.
Phương bước vào nhà miệng cười rạng rỡ, líu lo nói:
- Hồng này, ngày mai đi lạc quyên. Hai nhóm ở chợ, mình phụ trách. Còn một ở bến đò và một ở Chùa Bà, Hồng lo nghen. Hồng là "Bang Chủ Cái Bang" nên chịu khó đi xa vậy, còn mình là “Phụ Tá” đi gần gần thôi.
- Ôi chao, mi bắt ta đạp xe đi đi về về tới Núi Sam mấy lượt thì làm sao tấm thân liễu yếu đào tơ này kham cho nỗi!
- Đừng lo, có xe hơi. Anh Phó Quận Hành Chánh cho mượn xe nhà kìa. Hồng lái đi.
- Giỡn mặt với luật pháp hả? Mình mới tập lái có hai lần, lái chưa thẳng, bộ muốn ngồi đếm lịch sao?
- Đùa với bạn thôi, anh Trưởng Ty Xuân tình nguyện làm tài xế đưa đón bọn mình đây này. Đừng lo, mọi việc sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
- Vậy thì cũng được.
Thấy bạn còn phân vân, Phương nói tiếp:
- Nếu không chịu đi xe hơi thì ngồi xe Mobylette của Điền, học trò lớp Hồng đấy. Nó trong nhóm ở Chùa Bà.
- Điền còn nhỏ, lái xe gắn máy có vững không? Eo ơi! Mình không dám ngồi đâu.
Phương trêu bạn:
- Tui biết mà... Bà Chúa Ăn Mày, đi công xa vẫn ngon hơn. Xe gắn máy chỉ là trường hợp dự phòng, bất đắc dĩ mới tạm sử dụng thôi.
Trong vòng một năm nay, các thầy cô giáo thường hay có những buổi cắm trại chung với các anh chị trưởng ty, trưởng ban tòa Hành Chánh tỉnh rất vui vẻ và thân mật. Các cô giáo độc thân đều là tầm ngắm của các chàng dân sự lẫn quân sự độc thân vui tánh. Phương và Hồng cũng không thoát khỏi các cặp mắt ấy nên có rất nhiều bàn tay đưa ra khi trường cần giúp đỡ. Phương và Hồng là cặp bài trùng, vì thế ai chấm cô này cũng phải lấy điểm với cô kia. Anh Xuân để mắt xanh tới Hồng, tìm cách làm quen, dạy nàng lái xe, và dạy luôn Phương, nhưng hai nàng mới học được hai buổi, lái đường thẳng còn chưa xong, làm sao mà dám cầm lái một mình. Hồng không sợ leo lề, không sợ hư xe (xe "chùa" mà!), chỉ sợ gây tai nạn chết người, ủi sập nhà của đồng bào mà thôi. Xuân đã nhiệt tình chở hai cô tới từng nhóm học sinh để động viên, giúp đỡ, và đưa đón các thiện nguyện viên này. Cuối buổi anh mang thầy trò và thùng tiền toàn vẹn về nộp cho Hiệu Trưởng để chuyển giao cho Ban Xã Hội của tỉnh.
Lâu ngày sự giao thiệp, liên hệ này đã giúp tình cảm giữa hai người trở nên thân thiết hơn. Vậy mà tận sâu trong trái tim Hồng, hình ảnh Quang vẫn còn chờn vờn, không mất hút, những kỷ niệm với Quang vẫn hiện diện rõ nét, không phai. Và, Hồng vẫn có linh cảm rằng Quang còn yêu nàng. Trí óc của nàng cho biết linh cảm là chủ quan, mà chủ quan thì không chính xác, nhưng trái tim của nàng nói khác cho nên nàng quyết định kỳ nghỉ hè sắp tới đây sẽ đi một chuyến ra Đà Nẵng tìm gặp mặt Quang hỏi cho ra lẽ. Nàng đã từng đi suốt từ Bến Hải tới biên giới Việt-Miên thì ngại gì một chuyến Sài Gòn - Đà Nẵng.
An tâm, Hồng thu dọn đồ đạc chuẩn bị cho chuyến "vạn dặm tìm chàng" của nàng. Nàng gom góp thư từ của Quang được cất kỹ trong tủ bấy lâu nay mang ra đọc lại, cố tìm và đánh giá tình yêu của Quang được cất giấu trong những lá thư đó. Ô hay, sao lại có một sấp giấy là lạ đây! À, thì ra là của cậu học trò Điền. Hồng nhớ lại hôm ấy Điền đến nhờ nàng giảng một bài thơ trong lúc nàng có nhiều chuyện bối rối, buồn, thương nên đã quên mất. Hồng mở sấp giấy ra đọc, thấy bốn câu thơ của thi sĩ Xuân Diệu: "Yêu là chết ở trong lòng một ít, Vì mấy khi yêu mà đã được yêu, Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu, Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết" kèm theo là một bức thư.
Ngày... tháng... năm...
Cô yêu quý của em,
Em biết viết bức thư này cho cô là không nên không phải nhưng em phải viết, vì nếu em không nói ra những tâm tư tình cảm của em thì em không thể nào chịu nỗi. Cô có giận em, em chịu, nhưng đừng ghét bỏ em. Ngay từ ngày đầu cô bước vào lớp, em đã bị đôi mắt cô, nụ cười của cô hút hồn em. Em biết cô yêu thích các chiến sĩ Không Quân nên em quyết tâm sau này đăng vào binh chủng Không Quân. Cô chờ em ra trường, em cưới cô. Em thật lòng yêu cô. Điền
Hồng ngỡ ngàng, không ngờ sự việc có thể xảy ra như thế này. Từ lâu, trong những lần thầy trò sinh hoạt xã hội chung với nhau, thỉnh thoảng nàng bắt gặp ánh mắt trìu mến của Điền nhưng nàng cố tình bỏ qua, nghĩ rằng đó chỉ là một tình cảm bất chợt, đến rồi đi của tuổi học trò. Nàng nhắm mắt lại, nghĩ đến mối tình ngang trái của mình, thầm thì than thở:
- Quang ơi, anh có thấy không, học trò của em gan cùng mình, không sĩ diện hão, "Yêu ai cứ bảo là yêu." Nó bảo nó sẽ cưới em kìa. Chờ nó thành pilot phải mất gần cả chục năm nữa. Khi ấy, em đã thành một cô gái già, không biết chừng đó, được các hồng nhan vây quanh, nó còn nhớ tới em không hay là giống như anh vậy, quên mất em rồi! Ông Trời ơi, trêu ngươi chi lắm Ông ơi! Em chờ thư người này lại nhận được thư người khác, chờ một lời đính ước của người này lại nhận được của người kia. Chao ôi! Từ giờ trở đi làm sao em đối mặt với nó đây! Cũng may sắp sửa tới hè, sang niên khóa mới nó lên lớp, em không còn dạy lớp nó nữa, khỏi phải đối mặt thường xuyên. Hi vọng xúc cảm bồng bột ban đầu của tuổi dậy thì theo thời gian và sự trưởng thành sẽ tàn phai.
Hồng còn đang than thở cho thân phận mình bỗng nghe tiếng Phương về tới nhà. Nàng vội vã giấu bức thư. Nàng cảm thấy mình bị xúc phạm vì cậu học trò này đã ngang nhiên “yêu” chứ không xem nàng như một người Thầy. Nàng đâm ra xấu hổ với Phương, sợ bạn cười mình dạy dỗ thế nào để học trò coi thường cô giáo như vậy. Hồng xuất thân từ một ngôi trường rất trọng luân lý Khổng Mạnh. Trong nền luân lý này người Thầy (Sư) được xếp hạng trên cha mẹ (Phụ) một bậc, vậy mà Điền dám “yêu” nàng, xem nàng ngang hàng với cậu ta. Nàng xấu hỗ vì "bị" học trò yêu và bị người mình yêu khước từ tình yêu, chứ nàng không nhận thấy thầy và trò có cùng tâm trạng bị người ta “phụ hoặc thờ ơ chẳng biết" để mà đồng cảm với nhau. Từ đó, nàng đâm ra cáu gắt, trở nên lầm lì, vào lớp mất đi nét tươi vui hằng ngày. Nàng lập nghiêm, vẽ lằn ranh giới rõ rệt giữa thầy và trò, để bọn nhóc ngồi dưới nhận ra chúng là “trò” và chúng hãy đứng yên trong vị trí “trò” của chúng. Khi ấy, Hồng nhớ tới thầy Châu dạy Sử Tây Phương của mình, nàng mới hiểu tại sao ngày xưa lúc nào thầy cũng "đóng bộ" và nàng thấy mình cảm thông với thầy nhiều, thật nhiều.
3.
Trên đường về Sài Gòn nghỉ hè, Hồng ghé thăm cha mẹ Quang, tiện thể hỏi thăm ông bà về cuộc sống hiện tại của anh. Sau khi biết anh vẫn còn ở đơn vị cũ, Hồng mua vé máy bay đi Đà Nẵng. Nàng đến nhà chú thím Cảnh, một gia đình quen thân ngày xưa. Mỗi khi Hồng và các bạn từ Huế vào Đà Nẵng chơi đều được chú thím dang tay tiếp đón. Cảnh vật Đà Nẵng không thay đổi, phi trường vẫn nhộn nhịp, ồn ào. Cảnh vật đã kéo tâm tư Hồng trở về chuyến bay quân sự định mệnh ngày xưa thật rõ nét. Hình ảnh Hưng, Sang vui vẻ đượm chút cợt đùa, phong cách nghiêm trang như một ông giáo già của Quang làm lòng nàng xao xuyến, những lần nàng theo Quang quá giang trực thăng đi Tây Lộc - Đà Nẵng - Tây Lộc, những ngày cùng chàng dung dăng dung dẻ ở Bến Ngự, Đà Nẵng, ngày cuối cùng ở Huế, và lời khuyên lầm lẫn của bà hàng nước chợ Đông Ba.... Ôi, kỷ niệm tràn về như nước lũ làm Hồng nghẹn ngào, nghẹt thở.
Thím Cảnh là một phụ nữ rất tinh ý. Thấy thần sắc của Hồng không được tươi tắn lắm, thím nhận biết ngay nàng có chuyện không vui cần giúp đỡ. Nhân dịp hai người ngồi riêng với nhau, thím khơi mạch sầu của nàng và nàng trút bầu tâm sự, nhờ chú thím tìm cách giúp nàng gặp Quang. Thím sốt sắng hứa:
- Để thím nói với chú tìm cách giúp cho nhưng coi bộ không dễ gặp nếu anh chàng quyết tâm trốn cháu. Chú là sĩ quan nên có thể đưa cháu ra vô phi trường dễ dàng. Nhưng vào Cư Xá, nó khóa cửa nằm trong... "vắng nhà," vào phi đoàn thì... "đi bay rồi," tới lui nhiều lần, nó càng trốn lẹ, không ích gì. Để thím bàn với chú xem sao. Có thể chú có cách nào khác hay hơn.
Chiều hôm ấy, khi chú Cảnh về đến nhà, thím kể ngay chuyện của Hồng nhờ chú giúp. Chú thông cảm nhưng không khỏi thắc mắc:
- Phi Đoàn Trưởng của nó là bạn của chú. Nếu cần chú nhờ anh này sắp xếp một cuộc gặp gỡ tình cờ cho cháu. Nhưng mà này, mấy anh chàng pilot đào hoa lắm. Có khi nào cháu nghĩ rằng nó đang cặp bồ với một người nào khác rồi không? Hay là nó đã hết yêu cháu? Vậy cháu liệu xem sau khi gặp, có thay đổi được tình cảnh không?
Hồng lại nghĩ khác, nàng đang lo lắng đến sự an nguy của Quang nên đau khổ trả lời:
- Dù sao đi nữa, cháu cũng muốn gặp anh ấy lần cuối.
- Thôi được, để chú gọi phôn nói chuyện với anh Bình, Phi Đoàn Trưởng của nó, trước đã.
Chú Cảnh quay điện thoại ngay cho ông Phi Đoàn Trưởng của Quang, kể qua sự tình rồi chú lắng tai nghe đầu giây bên kia. Một hồi lâu sau, chú đáp:
- Vậy thì khoảng 7 giờ tối, "moa" tới nhà "toa" để “toa” nói cho cháu nó nghe trực tiếp, OK?
Sau đó, chú vào phòng nói chuyện với thím một lúc lâu. Cơm chiều xong, thím ôm vai Hồng nói:
- Cháu đi với chú thím gặp Phi Đoàn Trưởng của nó để biết về nó. Chuyện gì cũng do số mệnh mà ra cả. Điều mà mình tưởng là họa biết đâu lại chẳng là phúc cho mình, và ngược lại đó cháu!
Nghe chú thím Cảnh nói, Hồng cảm nhận một chuyện không lành nhưng nàng cũng cố lấy bình tĩnh theo chú thím lên xe. Gặp Hồng, ông Trung Tá Phi Đoàn Trưởng của Quang vòng vo khen ngợi anh là một sĩ quan năng động, có trách nhiệm cao, tốt bụng, hay giúp đỡ đồng đội, can đảm, nhiệt tình.... Tai Hồng lùng bùng, không nghe ông ta nói được gì thêm, nàng ngồi lặng im, tâm trí tưởng tượng anh trong một thân thể khi chỉ có hai chân, khi thì hai tay "vắng mặt', khi mù lòa sờ sẩm đi trong bóng tối... mà thất thần. Thấy vậy, thím Cảnh lay nhẹ vai nàng bảo:
- Cháu à, nó không xứng đáng cho cháu thương yêu đâu.
Chú Cảnh tiếp lời:
- "Toa" kể hết mọi chuyện cho nó biết đi. Thuốc đắng giã tật mà.
Ông Trung Tá hớp một ngụm nước, tằng hắng vài tiếng. Xong, ông hạ giọng nói:
- Nó được chúng tôi xếp vào loại những quân nhân có nếp sống đàng hoàng nhưng… từ sau khi bị thương tưởng chết vào Tết Mậu Thân, nó đâm ra sống bạt mạng, đêm nào không trực ở Phi Đoàn thì "trực" ở vũ trường. Mấy anh chàng không quân có ai mà không mê nhảy nhót. Tới mấy chỗ đó thì làm sao khỏi bị các “ma nữ” vờn. Đám đàn ông Không Quân của bọn tôi không đứa nào là Liễu Hạ Huệ* cả, cô à! Mỡ đến miệng mèo làm sao nhịn được. Kết quả là có một cô nàng đến tìm tôi, bảo rằng cô mang bầu với nó và nó trốn biệt tăm mấy tuần lễ nay rồi. Cô ta nhờ tôi tìm người cha "đi lạc" cho đứa con trong bụng của cô...
Nghe tới đó, mắt Hồng tối xầm lại, nàng ngồi thẩn thờ, không nói được lời nào. Thì ra Phương nói đúng, chú Cảnh nghĩ đúng, chỉ có nàng là chủ quan, thần tượng hóa người mình yêu, cho rằng mình là người duy nhất trong trái tim của chàng nên mới gặp cảnh bẽ bàng hôm nay. Hồng nhớ lại câu ca dao nàng đã từng đọc cho học trò nghe ngày nào và đặt mình vào hoàn cảnh người bị tình phụ mà cảm nhận hết sự cay đắng của mình:
"Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài,
Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây."
Khi ra về, Hồng bỏ ý định gặp mặt lần cuối với Quang và xin Ông Phi Đoàn Trưởng đừng tiết lộ việc nàng ra tận Đà Nẵng để tìm anh. Trên đường về nhà, chú thím Cảnh giữ im lặng để cho nàng chìm đắm trong nỗi giận hờn, mất mát niềm tin của nàng. Tới nhà thím mới an ủi:
- Biết đâu điều mình tưởng họa lại là phước cho mình. Cháu đừng buồn. Hãy lấy những bất như ý mình gặp làm kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống của mình.
Chú khuyên Hồng, rất thực tế:
- Cháu à, thiếu gì người đàn ông tốt hơn anh ta rất nhiều. Bỏ quá khứ đi, hãy lo cho bản thân và tương lai của mình. Chú mong sớm nhận được thiệp hồng của cháu với người đàn ông thương yêu cháu hết lòng.
Thế rồi mùa tựu trường năm đó, Hồng trở về Châu Đốc dạy học, nàng quyết tâm vất lại Quang cùng kỷ niệm sau lưng. Khi xe chạy ngang Long Xuyên, nàng ghé lại, đi đến công viên nơi bờ sông. Nàng xếp một chiếc thuyền giấy thả xuống và nói với dòng sông: “Dòng An Giang ơi, ngày xưa nơi này là ‘chứng nhân’ cho mối tình đầu đời của tôi với anh Quang. Hôm nay cũng xin làm chứng tôi trả thuyền tình này lại cho anh ấy…”
Vào niên học mới, nàng bước vào cuộc sống mới với niềm vui nghề nghiệp, đón nhận tình yêu mới với Xuân. Mỗi khi hình ảnh Quang hiện về, nàng an ủi mình bằng câu nói của thím Cảnh để thấy rằng mình may mắn, không lấy phải anh chàng "bạc tình lang", khỏi phải hát ru câu: "Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ." Tuy vậy, mỗi khi nghe tiếng trực thăng bay trên bầu trời đôi mắt nàng vẫn ngước trông theo. Giận thì giận mà thương thì cứ thương?! Nàng nhớ lại câu nói “độc mồm độc miệng” của mình khuyên Ngọc khi cô bạn này bị phụ tình: "Cái thứ bạc bẽo đó, hơi đâu mà thương mà tiếc. Bỏ cho chó gặm đi!" Nói thì dễ, thực hành sao khó quá! Rồi nàng lại tự an ủi “thời gian là thuốc tiên” sẽ chữa lành mọi tâm bệnh.
Cuối cùng, dưới sự thúc hối của gia đình, Hồng lập gia đình với Xuân, người yêu thương mình, bỏ lại sau lưng người mình thương yêu cùng những kỷ niệm hoa mộng của thời cắp sách. Sau đó, nàng thuyên chuyển nhiệm sở theo chồng, cố loại ra khỏi tim óc của mình những vùng đất quê hương đầy kỷ niệm, nơi nàng đã sống vui vẻ trong quá khứ...
------------------------------------------------------------------------
Chú thích:
* Liễu Hạ Huệ (720-621 BC) thời Xuân Thu, tên chữ Triển Cầm, tự là Quý, người vùng Liễu Hạ thuộc nước Lỗ (Trung Quốc). Ông nổi tiếng là chính nhân quân tử. Truyện kể rằng một hôm ông nghỉ đêm ở ngoài thành, có một nữ nhân trẻ đẹp cùng trọ, bị cảm lạnh rét cóng. Ông đã cởi áo mình khoác lên cho cô ta mà vẫn không đủ. Cuối cùng ông phải ôm cô ta vào lòng để chuyền hơi ấm cho tới sáng. Ông đã giữ được mình, không phạm điểu phi lễ.
Chương 7
Thiên đường là đây
1.
Hồng sống ấm êm với chồng được năm năm, có một con gái đầu lòng và đang mang thai đứa thứ hai thì giông bão “Ba Dòng Thác Cách Mạng” từ Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa rầm rập tiến vào Miền Nam Tự Do của nàng. Gia đình Hồng hoảng hốt lo sợ đang tính hai đường: một là di tản ra ngoại quốc lánh nạn Cộng Sản, không di tản được thì tản cư về quê Hồng ở Vĩnh Long lánh nạn bom đạn. Hôm ấy, Xuân ra ngoài lo tìm đường di tản trong khi nàng mang đứa con gái đang bị sốt cao đi bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ nghi đứa bé bị sốt xuất huyết, cần đưa vào bệnh viện cứu chữa gấp.
Hồng đang quýnh quáng lo sắp quần áo để đưa con gái vào bệnh viện thì nghe tiếng gõ cửa. Ra mở cửa nàng ngạc nhiên khi thấy Kim, người bạn thân cùng học Gia Long với nàng và cùng trúng tuyển vào Viện Hán Học nhưng bỏ cuộc, không học. Cô ta đột ngột đến tìm nàng chắc có chuyện gì đây, không phải đến chơi bình thường. Bấy lâu nay, nàng biết Kim là một cán bộ Việt Cộng nằm vùng. Nàng đoán rằng Tổ Chức của Kim không bố trí cô ta hoạt động ở Huế mà cần Kim ở trong Sài Gòn nên cô ta không theo học ở Viện Hán Học. Hồng nhìn bạn với vẻ e ngại nhưng cũng lịch sự mời cô ta vào nhà và liếc mắt nhìn xem có kẻ lạ mặt nào lãng vãng quanh nhà không. Tại sao Kim lại tìm nàng vào giờ phút này? Kim muốn sách động nàng "vùng lên nhân dân Miền Nam anh hùng?" Nàng không dại đâu. Trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như thế này, quậy thêm cho mau mất nước hay sao? Thấy Hồng bụng mang dạ chửa và đang bối rối vì đứa con bị bệnh nên Kim hỏi thăm ba điều bốn chuyện rồi ra về. Nàng tiễn bạn ra cửa và thầm cám ơn Trời Phật đã độ trì, khiến cho bạn ra về sớm.
Một lát sau, Xuân về đến nhà với bộ mặt đầy thất vọng. Anh nói:
- Em bụng to thế này, con còn nhỏ thế kia làm sao chen lấn, leo trèo vào Tòa Đại Sứ Mỹ hoặc xuống tàu Hải Quân được. Anh có ghé qua nhà anh Quân xem có thể giúp chúng ta một chỗ trên máy bay không nhưng cả gia đình anh ấy đã vào ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, anh không gặp ai cả. Chúng ta là dân sự, thôi thì đi không được mình ở lại chịu cực khổ mà sống đoàn tụ với nhau cũng tốt lắm rồi.
Hồng thiểu não đáp lại:
- Bỏ ý định di tản đi, anh ơi. Con bị bệnh sốt xuất huyết rồi, phải nhập bệnh viện gấp đây.
Thế rồi hai vợ chồng cho con vào nhà thương, ôm mền chiếu nằm ở hành lang, hi vọng địa điểm nhân đạo này không nằm trong mục tiêu pháo kích của quân Miền Bắc. Hồng chỉ lo sinh mạng của con nên nàng ở miết trong bệnh viện, chiến cuộc bỏ ngoài tai. Khi Tổng Thống Ba Ngày Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vào 10 giờ sáng ngày 30-4-1975 cũng là lúc con nàng hết bệnh, được cho về nhà. Ra ngoài bệnh viện, Hồng ngỡ ngàng, ngơ ngác không tin Miền Nam mất nhanh như vậy. Cuộc chiến chấm dứt một cách thảm hại!
Như mọi người dân miền Nam, vợ chồng Hồng được nghe cán bộ Tuyên Giáo của “Nhà Nước Cách Mạng” tuyên truyền rằng: Chế Độ Xã Hội Chủ Nghĩa là một chế độ ưu việt, một chế độ bình đẳng tuyệt đối, không có người bóc lột người, mọi người làm việc theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Thật là Thiên Đường nơi hạ giới! Vợ chồng nàng được nhà nước mới lưu dụng, nàng tiếp tục đi dạy, chồng nàng tiếp tục làm ở sở cũ. Song chuyện đời không như đầu óc đơn thuần của người Miền Nam suy nghĩ. Không bao lâu, lệnh "học tập chính sách của nhà nước" được ban hành: 10 ngày cho cấp úy, một tháng cho cấp tá và tướng. Không có tắm máu, chỉ có học tập thôi. Dù sao cũng là người Việt Nam với nhau cả mà. Vậy là tốt rồi, đòi hỏi gì hơn!
Ngày trước Xuân chỉ có thụ huấn quân sự mấy tháng ở Quân Trường Thủ Đức, sau đó anh được biệt phái về lại cơ quan cũ với cấp bậc Chuẩn úy, rồi sau hai năm tự động lên Thiếu Úy. Khi chàng mang lon Trung Úy thì Miền Nam mất. Thấy Xuân chưa có một ngày cầm súng ra chiến trận bắn chết một người nào thuộc Bắc quân cả, không có nợ máu với Cách Mạng cho nên nàng cũng không lo lắng gì mấy. Khi anh đi trình diện với “anh em” Miền Bắc, nàng sắp xếp cho anh chỉ một ít quần áo, thuốc men, không lương khô, không nhiều tiền bạc. Chỉ mười ngày thôi mà, xài có bao nhiêu! Nàng đang lo lắng cho đứa con sắp sanh và đang đối diện với thiếu hụt tiền bạc. Lúc trước, với hai đầu lương, gia đình nàng tiện tặn lắm mới đủ sống. Bây giờ chỉ còn một đầu lương nhà giáo của nàng thì làm sao cho đủ đây! Nàng lại sắp sanh. Lo thân và con còn chưa xong, làm sao lo được cho người đang "học tập" cho nên nàng chưa kịp mong chờ thì mười ngày đã qua. Quá ngày mà bóng chồng biệt tăm, nàng bắt đầu thắc mắc, tìm người đồng cảnh hỏi thăm. Bi quan ập đến. Theo sự đánh giá của chính quyền mới, Xuân thuộc loại “ác ôn”: Sĩ Quan Biệt Phái đồng nghĩa với tình báo CIA của Mỹ, sẽ bị tù không có ngày ra. Nàng bắt đầu nghĩ đến Kim, mong một ngày nào bạn đến chơi đột ngột như lần vừa rồi, nàng sẽ nhờ "cứu khổn phò nguy." Chờ hoài mà bặt vô âm tín, đành chấp nhận sống cùng hoàn cảnh với Ngưu Lang - Chức Nữ.
Thế là Hồng "đi biển mồ côi một mình," đơn độc nuôi con. Tiếp theo, Nhà Nước Cách Mạng đổi tiền: 500 đồng tiền của VNCH bằng 1 đồng cụ Hồ, và mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa trăm ngàn đồng cũ ra 200 đồng tiền mới. Vét túi Hồng chỉ đủ tiền để đổi được 100 đồng tiền mới, lương nhà giáo của nàng chỉ có 54 đồng một tháng. Ngân sách gia đình thiếu hụt trầm trọng. Từ những món trang sức ngày cưới của Hồng đến máy móc cần dùng trong nhà, chúng lần lượt đội nón ra đi để nàng có thể nuôi con, nuôi mình, và nuôi chồng trong tù. Nàng không giàu để có nhiều đồ vật giá trị mà "hô biến" thành cơm áo gạo tiền. Ở thời điểm đó, ai ai cũng thủ thân nên những món nàng đem bán xuống giá thảm khốc, nhưng nàng cũng đành bấm bụng mà bán. Tiền mồ hôi nước mắt của vợ chồng nàng tiết kiệm gởi trong ngân hàng coi như biếu không cho những “Người Thắng Cuộc.” Cuộc sống ngày càng khó khăn khiến căm hờn trong lòng nàng nổi dậy. Hồng giận và căm thù những người tàn hại đất nước dân tộc. Nàng giận luôn Kim, kẻ tiếp tay. Lòng dặn lòng nếu có dịp gặp lại, nàng sẽ sỉ vả bạn một trận nên thân. Không còn là bạn nữa, chỉ là kẻ thù thôi!
2.
Lịch sử tái diễn, chính sách “Phần Thư Khanh Nho” (đốt sách chôn học trò) của Tần Thủy Hoàng hơn 2000 năm trước lại xảy ra ở Việt Nam vào cuối Thế Kỷ 20! Hồng nhìn tủ sách của mình mà lòng xót xa. Nhịn ăn nhịn mặc để dành tiền mua sách là chuyện nhỏ, nàng không tiếc, chỉ tiếc công phu, thì giờ nàng bỏ ra để tìm kiếm, góp nhặt từng quyển sách có giá trị. Đó là điều làm nàng đau lòng vô cùng. Đốt sách không khác nào hủy đi tim óc của các tác giả và thiêu rụi cả nền văn học của Miền Nam. Hồng rất đau lòng nhưng giữ chúng sẽ mang họa vào thân. Là một gia đình "ngụy quân ngụy quyền," nhà nàng sẽ là “đối tượng” cho các "quan" ở phường, khóm, quận dòm ngó, sẽ có ngày bị họ vào nhà kiểm tra. Nếu tìm được sách của Miền Nam, họ sẽ tịch thu và nàng bị bắt bớ hoặc làm khó dễ. Nếu nàng vào tù nữa thì ai nuôi con đây? Bỏ thì thương, vương thì tội hay là mình nhờ kẻ khác giữ giùm vậy. Nhưng ai là người có thể gìn giữ gia sản này của dân tộc đây? Suy đi nghĩ lại, nàng thấy chỗ an toàn nhất là nhà của các người Cộng Sản Trí Thức còn tâm huyết với nền văn học nước nhà. Cả tháng nay, các thầy cô giáo Miền Nam phải học tập Lý Thuyết Mác - Lê và chính sách của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa đối với nền giáo dục tại Miền Nam. Trong số giảng viên các khóa học, có một vị trông sáng sủa, không phải loại răng đen mã tấu mà thuộc giới trí thức bị kẹt lại Miền Bắc. Đây là một người quý sách, có thể tin tưởng để giao lại tài sản tinh thần quí báu của nàng. Hồng quyết định sẽ mang sách trao cho ông ta vào ngày bế giảng.
Những suy nghĩ trên làm Hồng nhớ lại những ngày học ở Huế, nàng đã bỏ công sưu tầm từ số đầu tiên bộ sách Đại Học, một số sách nghiên cứu, và sách dịch về Văn và Sử của các giáo sư Đại Học Huế. Khi về Nam, nàng bán đổ bán tháo chiếc xe đạp là vật có giá nhất của nàng, còn tất cả tài liệu về văn sử và sách vở này nàng giữ lại và nhờ Quang mang về giùm dần dần trước khi từ giã Huế. Hồng gói sách, bỏ chúng vào thùng giấy để cho đi mà rơi nước mắt, tiếc công mình sưu tầm và công của Quang đem về.
Hình ảnh Quang đèo thùng sách sau chiếc Velo Solex và bao nhiêu kỷ niệm Hồng cố gắng chôn sâu mấy năm lại rầm rập quay về, thật rõ rệt trong tâm khảm. Càng bị nàng xua đuổi, chúng lại càng ngoan cố không chịu rời. Bất lực, nàng để mặc chúng hoành hành, cho nước mắt tuôn rơi. Khi khóc đã chán chê, nàng thu dọn lại sách vỡ và phân loại quyển nào mang đi cho, quyển nào để chúng nó tịch thu lập thành tích, xếp thành hai đống. Vừa làm Hồng vừa cay đắng nghĩ rằng quả thật nàng không còn được chút tình nào trong tim Quang cả. Hồng đoan chắc anh đã ra đi, trong tay anh có cả một phi đoàn, thế mà anh đã không nghĩ tới nàng, không tìm cách giúp đỡ gia đình nàng để nàng thân tàn ma dại như thế này. Anh đã từng mang sách đến nhà cha mẹ nàng, làm sao quên địa chỉ được, chỉ trừ khi anh thật sự muốn quên. Trong khi đó, anh Quân của nàng đã chiến đấu tới cùng để giờ đây bóc lịch ở rừng già Miền Bắc. Nghĩ tới đó, nàng chua chát nhận thấy mình đã trao lầm tình yêu cho một người bạc bẽo. Lòng nhủ lòng phải cương quyết xóa sạch hình bóng anh chàng "bạc tình lang" đó, nàng đứng lên làm việc để tìm quên.
3.
Trong lúc đấu tranh với xã hội để tìm đường sống, con người có nhiều sáng tạo. Nhiều nghề mới được xuất hiện và phát triển như: nghề bơm viết bi, lộn cổ áo, dán bao bì, mua đồng sắt vụn, bôm xe đạp, lộn xích xe đạp, bán đá cục, xe đạp ôm, may áo bằng bao bột mì, đan giỏ mây tre v.v... Riêng Hồng, nàng tìm được một nghề phụ bên cạnh nghề chính dạy học. Đó là nghề "phe phẩy." Nghề này phát triển mạnh nhất vào thời “Bao Cấp Hậu Giải Phóng.” Thành phần "hồ hỡi phấn khởi" tham gia đội ngũ "phe phẩy" này đủ hạng người từ trí thức tới dân ngu khu đen, từ già tới xồn xốn và tre trẻ. Hai chữ "phe phẩy" này là chữ được các "quan Cách Mạng" sáng tạo gán cho những người ra chợ trời đứng tìm mối có hàng lậu, hoặc đồ vật cũ để mua đi bán lại kiếm chút tiền lời mà sống. Bù đầu tìm cách sinh tồn trong hoàn cảnh chồng tù, con dại, Hồng vất tất cả quá khứ sau lưng, vừa chèo vừa chống để con thuyền gia đình khỏi bị chìm trong cơn bão dữ đó. Nhờ vậy mà nàng không còn hơi sức và thì giờ để nhớ tới quá khứ lãng mạn nên thơ của nàng nữa.
Tháng năm trôi qua Xuân vác tấm bằng "tốt nghiệp Đại Hộc Máu khóa Cử Nhân 4 năm" về nhà "khoe" với Công An Phường Khóm để được "các quan nâng đỡ," tìm cách giữ an ninh cho khỏi bị đồng bào ''trả thù" vì tội làm CIA cho địch. Vốn là "cháu ngoan Bác Hồ," vợ chồng nàng lúc nào cũng ngoan ngoãn nghe theo lời Bác dạy: “Không gì quý hơn độc lập tự do” nên tìm cách khước từ "sự ưu ái" này bằng cách làm một nghề mới. Đó là “nghề” Tìm Đường Đi Chui. Nàng tiếp tục vay mượn, bán cả áo dài đẹp, chiếc Honda làm chân, để làm lộ phí cho anh "hành nghề." Bài học vỡ lòng Có Chí Thì Nên và Thất Bại Là Mẹ Thành Công từ thuở tiểu học được vợ chồng nàng áp dụng triệt để. Quả thật, sau vài lần “chui” không lọt, Xuân đến được nước láng giềng có nhiều người sùng Đạo Phật nhưng cũng lắm kẻ cướp biển. May nhờ phước đức ông bà cha mẹ để lại Xuân an toàn lên bờ và được định cư ở nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Anh đã liều mạng với sóng to gió lớn nơi biển cả có đầy dẫy hải tặc mà tìm cách từ giã “Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa” để ôm chân “Đế Quốc Đầu Xỏ” và tình nguyện chịu cho bọn Tư Bản đang “giẫy chết” bóc lột anh. Vì không đủ tiền nên mẹ con Hồng đành ở lại với “Thiên Đường Hạ Giới,” chờ anh bảo lãnh hoặc gởi tiền đi chui sau.
Một số thầy cô giáo trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa
và thân hữu thuộc Tòa Hành Chánh tỉnh Châu Đốc
vào khoảng năm 1968-1969
Chương 8
Chút nghĩa cũ càng
Mẹ Hồng đến chơi khi nàng đang lui cui dắt xe đạp ra cửa. Bà ngắm nghía nàng một hồi rồi nói:
- Bác Mười thấy con ốm nhom ốm nhách, sợ con bị bệnh lao phổi nên bác ấy bảo má khuyên con đi chụp hình phổi xem thế nào. Con phải ráng sống khỏe mạnh mà nuôi hai đứa nhỏ.
- Dạ, hôm nào rảnh con sẽ đi bác sĩ khám bệnh. Má cám ơn Bác Mười giùm con nghen. Hôm nay nếu má không bận chuyện gì, má ở chơi với hai cháu cho con ra chợ trời mua bán một lúc. Khi về, má nhớ bảo các cháu đóng cửa cài then kỹ lưỡng trước mặt má và nhắc chúng nó tuyệt đối không mở cửa cho bất cứ ai vào nhà, dù lạ hay quen cũng vậy.
Nói đến đó, Hồng nhìn quanh quất rồi nhỏ giọng:
- Má cũng nhớ đừng cho tụi nhỏ biết ba chúng nó vượt biên, cứ để chúng tưởng nhà con đi làm ăn xa. Con nít không biết giữ mồm miệng, nói hớ ra, e công an phường khóm biết được lại rắc rối.
- Má biết, con an tâm, cứ lo việc của con đi!
Đi được vài bước chợt Hồng dừng lại nói tiếp:
- Má chờ con một chút.
Hồng trở vào nhà lấy ít trụ sinh và những thuốc trị bệnh thông thường cùng một kí lô đường thẻ gói lại đưa cho mẹ mình và nói:
-Má đưa gói này cho bác Mười giùm con. Má bảo của con gởi anh Vũ gọi là “đáp lễ” mấy hũ mắm của ảnh hồi đó. Khi nào đi thăm nuôi ảnh bác đem giùm con và cho con nhắn ảnh hãy giữ gìn sức khỏe. Ảnh là Sĩ Quan Báo Chí đã viết nhiều bài Phóng Sự Chiến Trường rất chính xác, hào hùng, và cảm động về các trận chiến Mậu Thân Huế, Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Hạ Lào, Kontum Kiêu Hùng, Bình Long Anh Dũng... Những bài viết này được đưa lên báo, truyền hình, truyền thanh nên bọn Việt Cộng biết tên tuổi mặt mũi ảnh. Thế nào anh Vũ cũng bị tù “mút mùa Lệ Thủy” đó má! Không biết bác Mười thăm nuôi ảnh được bao lâu đây?
- Tội nghiệp! Thằng Vũ gan dạ, giỏi giang mà lại vô phước! Vợ nó đem đứa con vượt biển, nghe đâu đã có chồng khác rồi. Má còn nhớ ngày đám cưới con, nó gởi cho con một bài thơ buồn lắm. Vì không muốn con vướng bận quá khứ nên má cất, không đưa con đọc. Hôm nào má đưa lại con.
- Má ơi, mỗi người một hoàn cảnh, không ai vui trọn vẹn cả. Ngày xưa ảnh nổi tiếng, nhiều giai nhân vây quanh. Bây giờ thì… Luật bù trừ mà má. “Tài tình chi lắm cho Trời Đất ghen!” Bữa nào tiện, má đưa bài thơ đó cho con. Thôi con đi đây.
Hồng ra cửa, vui buồn lẫn lộn. Nàng hy vọng vài năm nữa Xuân có công ăn việc làm ổn định, khi ấy mấy mẹ con nàng không còn đói khát nữa. Nàng thương các con của nàng mấy năm nay thèm từng miếng thịt, miếng cá mà đau lòng. Hồng thì thầm, "Mẹ xin lỗi các con, mẹ đã tận lực. Thông cảm cho cha mẹ nghe các con." Hồng đang sống trong một xã hội mà mọi người phải đóng kịch khi ra đường hoặc tiếp xúc với nhau, niềm vui phải giấu kín, nỗi buồn càng giấu kỹ hơn. Đảng và Nhà Nước này đã tạo ra một xã hội đầy nghi kỵ. Những "Ông Bà Chủ" phải có bề ngoài rập khuôn tình cảm theo ý muốn của những "Đầy Tớ Nhân Dân." Hồng vừa đi vừa ca nhái theo bản nhạc Trầu Cau: "Ôi! Ta mừng, ta đi lang thang biết về đâu..." bỗng nàng nghe một giọng nói vói theo:
- Hồng! Hồng! Đi đâu đó? Chị Hai Cẩm Vân đây.
Hồng ngừng xe, ngoái cổ nhìn lại. Chị Hai Cẩm Vân, bà chị người dưng khác họ của nàng ngày xưa thân thiết như ruột thịt, đang vẫy tay lịa lịa ngoắt nàng. Có thể nói khi ấy chị là một người tri kỷ của nàng, vì bất cứ chuyện thầm kín nào Hồng không thể nói với ai được đều có thể kể với chị. Từ ngày ra trường, Hồng không gặp lại người chị này, chỉ thỉnh thoảng thư từ qua lại mà thôi, ngay cả đám cưới của hai người cũng không ai tham dự được của ai. Nàng biết tin chị kết hôn với một anh đồng nghiệp chung trường, rồi sau đó cả hai chuyển nhiệm sở tới Pleiku. Về phần Hồng, nàng nhận nhiệm sở ở các tỉnh Miền Tây đồng bằng sông Cửu Long. Mười lăm năm xa mặt, còn gì mừng vui hơn khi gặp lại nhau! Cả hai chị em vào một quán nước thưa khách chuyện trò. Sau khi thăm hỏi gia cảnh của nhau, hai người bắt đầu tâm sự chuyện thầm kín. Hồng hỏi:
- Chị có tin tức gì về anh Hai Đức hay không?
- Nghe nói anh ấy bị pháo kích chết hồi Mậu Thân 68 rồi.
- Tội nghiệp ảnh quá! Nếu hồi đó chị ưng ảnh thì thành quả phụ rồi.
- Lại ghép đôi bậy bạ nữa, cái tật ngày xưa không bỏ.
Nghe chị Hai Cẩm Vân rầy, Hồng lật đật nói:
- Thiệt ... em xin lỗi chị về những chuyện ngày xưa. Lúc đó em còn nhỏ, không biết gì nên có nhiều lần chỉ trích lắm điều về chuyện tình cảm riêng tư của chị. Bây giờ em mới biết mình hồ đồ quá đáng.
- Lỗi phải gì, bỏ qua đi. Cho tao hỏi nè, anh chàng Hưng của mi đâu?
- Tử trận lâu rồi, khỏi đi học Đại Hộc Máu. Khỏe!
- Còn anh chàng... tên gì quên mất rồi nhưng tặng mi sợi dây chuyền ra sao?
- Theo anh Hưng cũng lâu rồi.
- Sao buồn vậy. Hỏi tới ai cũng "vắng mặt" hết ráo. Còn anh chàng Quang, tại sao "đào kép" rã tuồng vậy? Ai bỏ ai? Lỗi tại ai?
Thay vì trả lời, Hồng hát khe khẻ:
- "Không phải tại anh, cũng không phải tại em. Tại trời xui khiến nên chúng mình chia ly." Thôi đừng nhắc lại buồn lắm chị ơi. Từ lâu lắm rồi "anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi." Bây giờ người ta sống vui vẻ ở Miền Đất Hứa, nào có nhớ đến cố nhân này đang khổ như con chó đói bị nhốt trong củi sắt?
Chị Hai Cẩm Vân trợn mắt ngó Hồng rồi hỏi:
- Mi nói ai ở Miền Đất Hứa? Cánh bướm Trung Úy Quang của mi ngày xưa hả? "Em" lầm rồi... em ơi! Chàng của em đang ngồi gỡ... xin lỗi không phải ngồi, được ngồi là còn có phước, mà vừa "đốn tre đẵn gỗ trên ngàn" vừa đang gỡ cuốn lịch thứ sáu. Không biết còn bao nhiêu cuốn lịch phải gỡ nữa. Cấp bậc cuối cùng là Trung Tá Phi Đoàn Trưởng, “giặc lái cao cấp thứ dữ.” Em ơi, "cổ lai, "ngục trung" hề, kỷ nhân hồi!" (Chị sửa chữ "chinh chiến" thành "ngục trung" cho hợp hoàn cảnh). Mi thấy đó xưa nay bên Nga, bên Tàu, bên ta mấy ai ở tù Cộng Sản mà còn mạng để trở về.
Hồng nghe tin, choáng váng mặt mày, tai nàng lùng bùng, tim đập thình thịch như sắp vỡ. Một lúc sau lấy lại bình tĩnh, nàng hỏi:
- Tin chính xác không? Tại sao chị biết?
- Tao có hai đứa em đều là pilots. Một đứa là đàn em dưới quyền của anh ấy. Nó rành quá mà. Tụi nó cũng đang gỡ lịch ở núi rừng Miền Bắc, rét căm căm vào mùa Đông, nóng tóe lửa vào mùa Hạ.
Hồng ngập ngừng hỏi:
- Chị có biết anh Quang ở tù cải tạo nơi nào không? Có ở chung với các em của chị không?
- Không biết. Chúng nó chỉ biết rằng anh ta bám đơn vị tới cuối cùng và bị kẹt lại, thế thôi. Với cấp bậc này thì chỉ lấy rừng thiêng nước độc miền Thượng Du Bắc Việt làm nhà, không còn chỗ nào khác ...
Hồng không còn tâm trí đâu mà nói chuyện nữa nên cáo lỗi cùng chị, hai người trao đổi địa chỉ với nhau rồi chia tay.
2.
Trên đường về, Hồng cứ loanh quanh thắc mắc sao trong tay Quang có bao nhiêu chiếc máy bay mà chàng không đi, để giờ đây "ngậm một mối căm hờn trong củi sắt" (thơ Thế Lữ). Quang đã gặp nạn, vậy mà bấy lâu nay nàng cứ tưởng anh ta sống sung sướng, an lành nơi xứ người và trách anh ta bỏ quên nàng. Một cảm xúc vừa xót xa vừa thương yêu bỗng bùng dậy trong lòng nàng. Bao kỷ niệm nằm yên trong ký ức nhiều năm, nay lại trổi dậy, ập tràn tới. Hồng gắng sức ngăn chúng lại nhưng hoài công. Cái quá khứ đã bị nàng đẩy lùi vào sâu tận đáy lòng, chặn thêm hai tảng đá to là hai đứa con để cho nó đừng ngóc đầu dậy, bây giờ "cơn địa chấn" này đã đánh tung tất cả.
Hình ảnh và kỷ niệm với Quang bừng bừng sống dậy. Ánh mắt trìu mến của Quang nhìn Hồng ở quán nước chợ Đông Ba khi kéo ghế chặn gió cho nàng, nụ hôn nóng bỏng đầu đời nơi bờ sông Hậu Giang quê anh, những cử chỉ tinh tế của Quang hiện về không thiếu sót. In đậm nét trong trí Hồng là hình ảnh của Quang trong bộ quân phục oai hùng. Hồng nhớ hình ảnh tà áo dài của nàng lúc đi bên cạnh Quang bị cánh quạt trực thăng thổi bay quấn lấy anh trong những buổi chiều vàng nghiêng nắng ở sân bay Tây Lộc thật là đẹp, thật là nên thơ. Rất tiếc lúc đó mọi người bận lo lên máy bay, không ai có thì giờ rỗi rảnh nghĩ đến giây phút lãng mạn này để chụp một tấm hình kỷ niệm.
Về nhà, Hồng lục tìm những tấm hình cũ lúc Quang và nàng đi chơi chung xem lại. Hình ảnh và thư từ của Quang, nàng đã nhiều lần mang ra định đốt trước ngày vu quy, nhưng do một sức mạnh tiềm ẩn nào đó đã giữ tay nàng lại. Cuối cùng, Hồng cho chúng vào một hộp nhỏ, và cất kỹ trong ngăn tủ lưu trữ kỷ niệm gia đình ở nhà cha mẹ nàng cả chục năm hơn không hề đụng tới. Bây giờ bị một lực vô hình thúc đẩy, Hồng lấy chúng ra xem, nước mắt nhạt nhòa. Lạ thay, sao không có một tấm nào Quang và Hồng chụp chung cả? Phải chăng đó làm điềm báo trước hai người sẽ không thành đôi?
Nằm ngay ngắn dưới xấp hình ảnh kỷ niệm là những bức thư của Quang. Trên chồng thư là hai lá thư vô cùng quan trọng với nàng. Lá thứ nhất, nơi đầu trang Hồng đã giận hờn chú thích hai chữ thật to bằng mực đỏ: "Hứa lèo." Trong thư, nàng đóng khung và đánh ba dấu hỏi to tướng cũng bằng mực đỏ hai câu: "Anh muốn bàn với em một chuyện quan trọng. Hôm nào rảnh anh sẽ viết thư nói rõ với em." Tuy nhiên “hôm nào” đó không bao giờ tới. Bức thứ hai là lá thư tuyệt tình, Quang bảo nàng kiếm người chồng dân sự để có một gia đình hạnh phúc trọn đời. Hồng đã dùng bút đỏ viết ba chữ "bạc tình lang" rất to ở đầu trang. Hồng đã giận hờn trách móc Quang lắm lần nhưng cũng lắm lần nàng đã tha thứ và biện hộ cho anh, rồi nàng nhốt kỹ tất cả kỷ niệm vào tận đáy lòng mấy năm nay, sao bây giờ chúng lại trồi lên. Quên một người khó đến thế ư?
Đang chìm vào quá khứ với những kỷ niệm yêu thương, Hồng bật tỉnh mộng khi Thanh, đứa con trai nhỏ năm tuổi của nàng đến bên nũng nịu nói:
- Mẹ ơi, con mệt quá! Mẹ bồng con một lúc nghen.
Hồng nhấc con lên, hơi nóng của nó ập vào người nàng. Nàng vội cho con uống thuốc, rồi lấy khăn nhúng nước lạnh lau khắp thân hình ốm yếu của con và chườm nước đá trên trán nó cho hạ cơn sốt. Thời điểm này, bác sĩ không được mở phòng mạch tư nhân, bệnh viện thì đông như chợ búa vào ngày lễ hội. Hồng đành phải chờ đến chiều, khi vị bác sĩ ân nhân trong xóm về nhà, nàng sẽ đem con đến nhờ khám bệnh. Nhìn con nằm thở mệt mỏi, nàng vô cùng đau lòng.
Thanh đúng là chứng nhân của thời cuộc. Trước ngày mất nước Hồng có mang nó được năm tháng. Nàng sống trong hồi hộp lo âu theo vận nước điêu linh, cho nên tình thần và thể chất của Thanh bị ảnh hưởng nặng nề. Khi ra đời cơ thể của Thanh đã yếu ớt, lại thêm thiếu chăm sóc đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên nó đau ốm liên miên. Lúc đó, ngoài công việc chuyên môn ở trường của một nhà giáo, Hồng còn phải vừa học tập chính trị và nghiệp vụ tại cơ quan, tối về lại phải tham gia họp tổ dân phố và học tập chính trị ở địa phương. Nàng tay dắt đứa con gái nhỏ, tay bồng đứa con trai còn nằm ngửa đi họp tổ dân phố để học tập Chính Sách Nhà Nước Cách Mạng bất kể lúc đó nắng hay mưa. Ban ngày, khi đi dạy nàng gởi hai con cho hàng xóm. Vì thế, thì giờ nàng dành cho con không đủ theo nhu cầu của chúng. Với lương nhà giáo chết đói, Hồng phải chia xẻ cho chồng ở trong tù, trả công cho người giữ trẻ, ba mẹ con nàng không còn được bao nhiêu để sinh sống. Ba năm đầu đời của một đứa trẻ là ba năm vô cùng quan trọng cần được săn sóc đầy đủ về tinh thần lẫn thể chất để phát triển toàn diện. Hồng biết điều đó, nhưng nàng bất lực vì nó vượt quá khả năng của mình cho nên Thanh suy dinh dưỡng. Vào những năm đầu của “Thời Giải Phóng,” bác sĩ và nhà thuốc tây bị cấm hành nghề tư. May là trong xóm có một ông bác sĩ từ tâm khám bệnh miễn phí và còn trữ một số thuốc nên mạng con nàng được cứu nhưng di chứng của sự suy dinh dưỡng đầu đời là cơ thể của Thanh èo uột và đau ốm liên miên mỗi khi trái gió trở trời.
Hồng cất hình và thư vào tủ, trở về thực tại với đời sống cơ cực của mình. Sau khi đem bé Thanh đến vị bác sĩ ân nhân, nàng vét hết tiền mua “thuốc chui” cho con. Vào thời điểm đó ở Miền Nam người dân đã được cho phép nhận quà từ nước ngoài nên chuyện tìm “thuốc chui” không khó lắm, chỉ khó là làm sao có tiền mà thôi. Hôm sau, Hồng và cháu lớn tiếp tục “ăn chay" để người bệnh có tí cháo thịt và có thuốc men mà chống chọi với bệnh tật. Trong mấy ngày con nàng bệnh, quá khứ của Hồng lùi ra sau đứng im, đến khi con hết bệnh, nó lại xồng xộc vượt lên trước. Kỷ niệm cũ lại quay về, thêm hình ảnh tù đày nơi rừng thiêng nước độc lấn chiếm đầu óc nàng. Hình ảnh người chồng với viễn ảnh tươi sáng, nhưng nó không sáng nỗi trong tâm trí nàng mà mờ nhạt rồi chìm lĩm. Nàng nghe tiếng nói văng vẳng bên tai: "Hồng ơi là Hồng ! Mi đã có người chồng tử tế, hai đứa con xinh xắn ngoan ngoãn. Hãy quên những gì mình đã đánh mất, cố gắng giữ hạnh phúc đang ở trong tay. Con cá xẩy bao giờ cũng là con cá to. Mi biết không?" Đêm về trằn trọc không ngủ được, Hồng lấy bông gòn nhét tai, lấy gối úp lên mặt để dỗ giấc ngủ, nhưng nàng không làm sao ngăn được hình ảnh và giọng nói của Quang đi vào tim óc nàng. Nàng bị lương tri và tình cảm giằng xé tơi bời về đêm, đời sống bầm giập te tua tơi tả vào ban ngày. Nàng vốn gầy gò hốc hác, giờ càng thêm xanh xao vàng vọt vì mất ngủ. Chịu đựng hết nỗi, nàng đi tìm chị Hai Cẩm Vân.
Gặp Hồng, Cẩm Vân kêu lên thảng thốt:
-Này, mi bệnh gì vậy? Trông mi như xác chết biết đi.
Hồng nhìn chị lắc đầu nói trong nghẹn ngào:
- Cứu em, chị ơi!
- Sao? Chuyện gì? Chồng mi mới đi được mấy tháng đã có người khác, bỏ mi rồi hả?
Hồng lắc đầu, cố ghìm nước mắt. Cẩm Vân chăm chú nhìn nàng một chập rồi hỏi:
- Lại anh chàng Không Quân Quang hành hạ trái tim mi nữa chứ gì?
Không kềm chế nỗi xúc cảm được nữa, Hồng bật khóc. Cẩm Vân đưa cho nàng một chiếc khăn cũ, bảo vò xé đi cho hả cơn buồn phiền, rồi chị ngồi yên nhìn nàng. Một lúc sau, cơn xúc cảm lắng dịu, nàng buông thỏng một câu:
- Làm sao bây giờ hả chị?
- Còn biết làm sao! Không khéo mi chết bỏ con. Thôi thì viết thư hỏi thăm, coi như một người bạn cũ vậy. Không tình cầm sắt thì ra cầm kỳ cũng được.
- Bạn? Có thề làm bạn bè trong trường hợp này được không, chị?
- Được hay không là tùy nghị lực của mi. Ngày xưa mi kiên cường lắm mà, sao bây giờ yếu như sên vậy! Bộ xài hết nghị lực rổi sao? Viết thư thăm hỏi, khuyến khích nhau đi. Thư viết vào trại cải tạo còn nói được gì ngoài mấy câu khuôn mẫu: “Anh ơi, ráng học tập tốt, lao động tốt để được Cách Mạng khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình sớm. Ở nhà ai ai cũng hồ hỡi phấn khởi xây dựng đất nước giàu mạnh bằng mười năm xưa..." Như vậy có gì đâu mà áy náy? Dù chỉ là một bức thư "hô khẩu hiệu" nhưng nó cũng sẽ mang lại nhiều an ủi cho người trong tù.
Ngưng lại một chút chị nói tiếp:
- Chàng sẽ phấn chấn tinh thần vì hi vọng một ngày ra tù gặp lại người "Em năm xưa."
- Biết bao giờ mới ra tù?
Chị đáp:
- Mi không nghe thiên hạ đồn rùm rằng Mỹ đang tìm cách cứu đám tù cải tạo sao? Yên chí đi, không lâu đâu.
Nàng cũng nghe mấy tin đó nhưng không tin người Mỹ có trách nhiệm và lòng nhân đạo như vậy. Cẩm Vân còn nói nhiều điều nữa, hứa sẽ hỏi hai người em trong tù của chị và những người quen biết xem có Quang ở tù chung hay không để xin địa chỉ. Hồng thấy chuyện tìm địa chỉ kiểu này phải chờ đợi lâu lắm và hi vọng cũng rất mong manh. Thật là như tìm kim dưới đáy biển! Hồng biết Cẩm Vân hứa không ngoài mục đích câu giờ để nàng vượt qua cơn sốc và giúp nàng lên tinh thần để sống mà nuôi con trong khi chờ chồng định cư, ổn định cuộc sống. Dù sao đi nữa, sau khi trút nỗi lòng không biết ngỏ cùng ai với chị rồi, Hồng cũng cảm thấy nhẹ nhàng rất nhiều. Khi Hồng ra về, Cẩm Vân gởi cho con nàng hai hộp sữa đặc có đường, cho hai Phiếu Gởi Quà vào trại cải tạo, và ghi cho nàng địa chỉ mua phiếu lậu này. “Cám ơn chị, người chị tốt của em,” Hồng thầm nói.
3.
Nghe lời Cẩm Vân, Hồng sẵn lòng viết một bức thư "hô khẩu hiệu" cho Quang, nhưng phải chờ Cẩm Vân tìm địa chỉ trước đã. Kiểu này, nếu may mắn tìm được, cũng phải mất thời gian nhiều tháng. Hồng lại phân vân, liệu anh có hồi âm cho nàng hay không? Năm xưa, nàng viết bao nhiêu thư cho anh mà như gởi cho gió mang đi vào không gian vô tận. Hồng tẩn mẩn đọc lại đống thư từ cũ và tìm được lá thư Quang mô tả địa điểm căn nhà của cha mẹ anh. Nàng sực nhớ mình đã từng cùng với Phương, người bạn đồng nghiệp thân thiết, đến ngôi nhà này rồi. Phương lại có người thân ở cùng thị xã với cha mẹ Quang. Nàng mừng rỡ vì hi vọng Phương có thể là người cứu tinh của mình. Kể từ năm 1975 Hồng không biết Phương đã lưu lạc nơi nào: về quê? di tản? hay vượt biển? Nàng lục tìm địa chỉ của Phương và viết cho bạn một lá thư với hi vọng mong manh người bạn này còn ở lại quê nhà sẽ hồi âm cho mình.
Hồng không phải chờ đợi lâu, một sáng Chúa Nhật Phương đột ngột bước vào nhà khi Hồng định ra chợ trời, mang theo một số trái cây tươi vườn nhà. Hồng bỏ buổi "phe phẩy" ở nhà tâm tình cùng bạn. Sau bao năm ăn độn bo bo, mì sợi, khoai sắn, rau cỏ... Hồng được thưởng thức lại hương vị ngon lành của các loại trái thông dụng và bình dân của Miền Nam. Hai đứa con nàng lần đầu mới biết tên của các loại trái cây này và hương vị của chúng ra sao.
Bao nhiêu chuyện xưa được hai người bạn cũ nhắc lại. Hồng biết được sau khi mình theo chồng thuyên chuyển đến nhiệm sở mới, Phương cũng rời Châu Đốc về Sài Gòn. Thầy Kim thất tình cũng xin đổi đi nơi khác và sau đó lập gia đình với một cô giáo ở nhiệm sở mới của thầy. Vì hai gia đình bất hòa với nhau nên chuyện hôn nhân của Phương và Lưu cứ bị trì hoản mãi cho đến ngày tàn cuộc chiến. Lưu ôm áo quần lên đường “đi bóc lịch” ở núi rừng Miền Bắc, Phương đổi nhiệm sở về lại quê Mỹ Tho. Sau một lúc thăm hỏi, Phương thắc mắc:
- Sao Hồng không vượt biên cùng với ông xã?
- Không tiền bạn ơi, vét sạch hồ bao, cộng với một số tiền vay mượn mới được một chỗ cho ổng đi đấy.
- Coi chừng xa mặt cách lòng đó nghen! Mau mau vọt theo đi. Còn nhớ anh Quang của mi không, xa mặt nên mất nhau đấy.
Nghe bạn nói, Hồng thở dài đáp:
- Chịu, ngoài khả năng! Cái gì thuộc về mình dù đi năm non bảy núi vẫn còn của mình. Nếu không phải thì đối diện cũng bất tương phùng.
- Bây giờ anh Quang đang ở đâu? Có di tản được không?
Hồng buồn rầu trả lời:
- Ở núi rừng Miền Bắc. Xin lỗi Phương nghen, đây chính là động lực khiến mình tìm lại địa chỉ và viết lá thư vừa rồi cho bạn đó.
Không chờ phản ứng của bạn, Hồng nói tiếp:
- Mình muốn viết thư thăm hỏi và an ủi anh ấy, Phương thấy có được không?
- Sao không được? Hãy lập một lằn ranh và đừng vượt qua ranh giới đó thì không sao cả. Không duyên nợ vợ chồng thì duyên nợ bè bạn cũng được, cớ sao lại coi như người lạ "gặp nhau ghé nón, chạm vai, chẳng chào?”
- Như Phương biết đó, ngày xưa thư của mình có đi mà không có về. Bây giờ bỏ công tìm kiếm địa chỉ rồi viết thư, liệu có phí công không?
- Ngày xưa khác, bây giờ khác. Ngày xưa anh chàng quyền cao chức trọng nhưng vì bi quan với cuộc sống của mình cho nên đi tìm quên, rồi mắc kẹt trong cái bẫy rập trăng hoa, đành phụ "em gái hậu phương." Bây giờ anh ấy đang ở đáy vực, mi giơ tay tiếp sức vớt lên thì hãy suy nghĩ xem, anh ta sẽ vui sướng đến mức nào? Theo mình thì trong hoàn cảnh này, lắm kẻ bị người yêu, ngay cả vợ quay mặt, ngâm câu: "Anh đi đường anh (trong rừng già âm u), em đi đường em (trên đại lộ thênh thang), tình nghĩa đôi ta... thôi thì thôi nhé... có ngần ấy thôi," vậy mà chàng của mi được người "em gái năm xưa" vẫn còn nhớ tình nhớ nghĩa viết thư thăm hỏi thì có cảm động không? Mình mà rơi vào hoàn cảnh đó thì sẽ khóc lên vì sung sướng, khóc vì ân hận, và sẽ mất ăn, mất ngủ, sẽ yêu người "em gái hậu phương" này vô cùng tận. Yên chí đi, lần này mi sẽ có hồi âm.
- Vậy thì phải có bàn tay của Phương nhúng vào mới thực hiện được.
- Giúp thế nào? Cố vấn viết thư hả? Xin chị tha cho… em!
Hồng cãi chính:
- Không. Tìm giùm địa chỉ thôi. Phương có nhớ ngôi nhà ngói đỏ ở khúc Đèn Bốn Ngọn không? Phương nhờ người nhà tới đó xin địa chỉ giùm, được không?
- Tưởng chuyện gì khó. Tuần tới mình có chuyện cần phải về Long Xuyên lo một số việc trước khi đi Úc, đích thân mình đi lấy địa chỉ cho Hồng, không cần phải nhờ ai cả. Nhớ đón thư.
- Đi Úc định cư hay đi du lịch vậy?
Phương tâm sự:
- Anh Ba mình bảo lãnh sang chơi vài tháng. Nếu thuận tiện, mình sẽ tìm cách ở lại.
- Tốt quá, chúc bạn thành công. Nhớ đừng quên bạn bè nghe.
- Yên tâm, sẽ giữ liên lạc. Mình sẽ lo xong việc bạn nhờ trước khi đi mà.
Được bạn tích cực giúp đỡ, Hồng viết trước một bức thư "hô khẩu hiệu" đúng theo chủ trương, chính sách của "Nhà Nước Cách Mạng" để gửi cho Quang ngay khi nhận được địa chỉ. Nàng nhuần nhuyễn chính sách lắm rồi, nên không sợ thư bị cán bộ trại kiểm duyệt liệng thùng rác, chỉ sợ rủi ro là khi thơ tới nơi Quang đã bị đổi đi trại khác thôi. Trong thư, phần nói về mình Hồng viết bằng những ẩn dụ. Không lâu sau đó, nàng nhận được thư Phương có địa chỉ của Quang, mới biết anh đang ở trại cãi tạo Vĩnh Phú.
Hồng liền gởi bức thư đi và mong đợi hồi âm từng ngày giống như ngày xưa nàng đã từng chờ thư của Quang. Nàng phân vân không biết Quang có cảm nhận được tấm lòng của nàng ẩn trong lá thư "hô khẩu hiệu" chán phèo đó hay không? Ở trại tù không phải muốn viết thư lúc nào cũng được, khoảng một hoặc hai tháng mới được phép viết một lần, còn có nạn bị cúp thư nếu phạm nội quy. Liệu Quang có hi sinh một lá thư gửi cho gia đình để hồi âm thư của Hồng không? Lá thư hồi âm này là thước đo tình cảm của Quang đối với Hồng. Nếu Quang hồi âm có nghĩa là trong lòng anh còn có nàng và nàng cũng không nhẹ ký lắm. Nàng đếm lịch hằng ngày: từ một ngày, hai ngày… tới một tháng rồi hai tháng... Hi vọng trong lòng Hồng tỉ lệ nghịch với thời gian...
Chương 9
Còn vương tơ lòng
1.
Một ngày như mọi ngày, kiếp tù đày rất thê thảm trong chế độ Cộng Sản, cứ lập đi lập lại từ ngày này qua ngày khác, tháng nầy qua tháng khác, năm nầy qua năm khác. Tù nhân làm việc vất vả theo chỉ tiêu chỉ có tăng tới tối đa, chứ không giảm; ăn tối thiểu, chỉ vừa đủ cho khỏi chết. Đến thời điểm này (1980), nhân dân Miền Bắc và ngay cả bộ đội đã hơn hai chục năm sống trong "Thiên Đường" Xã Hội Chủ Nghĩa, đều ăn độn khoai, sắn và bắp triền miên, thì những người tù không bản án như Quang cũng mùa nào thức nấy triền miên bắp, sắn, khoai. Hơn năm năm, sức lực các anh bị vắt cho kiệt trong các trại tù mà người Cộng Sản đặt cho mỹ danh là Trại Tập Trung Cải Tạo. Riêng Quang, anh đã bị đọa đày một năm trong Nam, hai năm rưỡi trên miền Thượng Du Bắc Việt, và hơn một năm rưỡi tại miền Trung Du này.
Như mọi ngày, trưa nay Quang cùng bạn tù được nghỉ hai giờ đồng hồ để tắm giặt, ăn uống, và nghỉ ngơi. Láng tù im phăng phắc, anh nhìn qua song sắt, ngắm áng mây trắng đang lững lờ trôi mà nhớ về một thời tung mây lướt gió đã qua, nhớ những người bạn đã vào lòng đất mẹ, nhớ những người bạn mà bây giờ anh không biết sống, chết, tù đày, hay đã vượt thoát để sống kiếp tha hương khắp bốn phương trời. Còn anh... đang nằm trong nhà giam rào kẽm gai dày đặc, giữa núi rừng trùng điệp, không một mảy may hi vọng thoát khỏi. Không gian ngày xưa bao la nhưng nhỏ hẹp đối với anh, còn bây giờ sao anh thấy xa thăm thẳm. Quang đã bám lấy đơn vị, cùng đồng đội chiến đấu. Tuy biết rằng tình hình đã tuyệt vọng lắm rồi nhưng các anh vẫn xả thân cố gắng cứu lấy Mẹ Việt Nam trong lằn tên mũi đạn khốc liệt vào giờ phút thứ 25, giờ phút Mẹ cần các con nhất. Đơn vị của anh bị hỏa lực địch dập tơi bời, bao nhiêu chiến hữu của anh đã nằm xuống, anh may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, để rồi hôm nay sau hơn năm năm vẫn còn nằm trong song sắt như thế này.
Đang miên man nghĩ đến số phận tù đày mất tự do, bị hành hạ cho chết lần mòn trong đói khát, bệnh tật, nhọc nhằn, tủi nhục, rồi sẽ bị vùi thây nơi rừng thiêng nước độc này một cách uổng phí, Quang chợt nghe tiếng mở cửa và tiếng la lớn: "Có thư!" Tuy nghe có thư nhưng anh không màng đến vì gia đình anh đã bị tống về quê từ lâu, năm khi mười họa vợ anh mới viết một lá thư. Không cần đọc, anh cũng dư biết nàng nói gì, vì chỉ có một khuôn: ca ngợi chính sách nhân đạo, sáng suốt(!) của các "đỉnh cao trí tuệ"(!), ca ngợi cuộc sống ấm no, độc lập, tự do, hạnh phúc(!) do Nhà Nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đem lại(!)... Bỗng có tiếng gọi: "Anh Quang!" Anh uể oải đứng dậy đi nhận thư. Anh sửng sốt, bàng hoàng. Nét chữ trên phong bì lạ nhưng quen. Lạ vì không phải chữ của vợ anh mà bấy lâu nay anh vẫn nhìn thấy, quen vì đây chính là nét chữ thân yêu ngày nào nhưng nhiều năm qua anh không được thấy nữa. Mấy năm trong tù nhiều lần Quang âm thầm mong đợi nhìn thấy lại nét chữ thân quen này trong tuyệt vọng... hôm nay bất ngờ nó đến với anh như từ trong giấc chiêm bao. Tuy đã biết ai là người gởi nhưng anh vẫn liếc qua góc trái, nét bút và tên của Hồng hiện ra chập chờn trước mắt. Anh cố gắng giữ bình tĩnh bước về chỗ nằm. Vậy mà Lân, anh bạn đồng tù nằm cạnh, người bạn thân thiết cùng đơn vị với Quang ngày xưa, cũng nhận ra sự khác thường. Lân hỏi:
- Thư quan trọng hả?
Quang lắc đầu, từ từ nằm xuống, mở thư ra đọc, nhưng anh không đọc được gì hết. Anh chỉ thấy những hàng chữ loăng quăng, nhảy nhót trước mắt. Những kỷ niệm của mối tình xưa ngủ yên trong tiềm thức tiếp nối hiện về trong trí óc mệt mỏi của Quang. Anh thì thầm như có cố nhân hiện diện: "Mới đây mà thắm thoát đã mười mấy năm xa cách, em vẫn còn nhớ tới anh? Em không giận anh sao, em? Anh bỏ em ra đi không thư từ tin tức cho em. Sao em tìm được địa chỉ anh trong hoàn cảnh này? Những lúc anh bị thương tật là có em trong đời, em đã cho anh sức sống. Em có biết sự xuất hiện của em lần này làm anh đau xót và ân hận lắm không? Em đã tha thứ cho anh nên mới tìm địa chỉ và viết thư cho anh? Em sống như thế nào? Có vui vẻ, hạnh phúc như anh mong muốn hay không?..." Những câu hỏi dồn dập ấy làm tim Quang đập mạnh, đầu óc anh quay cuồng.
Thấy gương mặt bất bình thường của Quang, Lân vỗ vai, an ủi bạn:
- Bây giờ gia đình nào cũng khổ cả, không nhiều thì ít, không việc này cũng chuyện kia. Dù cho thân nhân không dám viết nhưng mình cũng đoán biết được. Ráng sống, chờ ngày trở về.
Khi tiếng kẻng vang lên, Quang theo đoàn tù thất thểu ra cửa đi lao động. Suốt buổi cực nhọc nhưng trong đầu anh hình ảnh của Hồng cứ lởn vởn, liên tục. Tối về láng giam anh đọc lại lá thư. Thư của nàng ca ngợi Nhà Nước Cách Mạng hết lời, nhưng ẩn chứa trong đó là những tin tức bên ngoài nàng vừa cho anh biết, vừa mang đến sức sống cho anh. Với giọng văn bình dị thoáng chút chua xót, Hồng cho anh biết tình cảnh của nàng một cách ngắn gọn. Tuy nhiên, thư nàng có một câu ẩn ý mà anh suy nghĩ rất nhiều cũng không biết đúng hay sai. Nàng không nhắc kỷ niệm, không trách móc, không một lời nhớ thương nhưng phảng phất trong thư, anh nhận thấy được tình cảm tha thiết của nàng.
Quang thì thầm, không biết anh đang tâm sự với Hồng hay anh nói với chính mình:
"Bặt tin tức, mất liên lạc mười mấy năm trời em vẫn tìm địa chỉ trại tù của anh, đủ nói lên tấm lòng của em, đủ đau và ân hận cho anh nhiều lắm rồi. Bắt đầu hôm nay, anh biết thêm mình có một sai lầm vô cùng to lớn trong đời. Đó là anh đã để mất em, đã đánh rơi một tấm chân tình! Mười mấy năm qua những tưởng em hận anh, quên mất anh nhưng sao em không quên? Phải mất bao lâu để em quên, hả em? Em có biết không, thân xác anh bị đọa đày trong tù nhưng không làm anh đau đớn bằng những dòng chữ của em?
Ngày xưa, anh đã trốn em, trốn mối tình chúng ta với hi vọng em sẽ quên anh và anh cũng sẽ quên em. Anh thật có lỗi với em vô cùng. Làm sao anh quên được ngày em đổ đường đến quê thăm anh khi anh về phép dưỡng thương! Ngày đó, gặp lại em anh vô cùng xúc động. Anh thật lòng muốn nói ngàn lần tiếng ‘anh yêu em,’ anh muốn ôm em mãi mãi trong vòng tay nhưng khi nghĩ đến cặp mắt trong sáng đầy tin yêu của em nhòa lệ, anh không chịu nỗi. Anh không muốn xa em, đồng thời anh cũng không muốn em đau khổ nếu một mai anh gãy cánh giã từ cõi đời này. Em còn nhớ bài hát chúng ta nghe trong quán Gió cạnh bờ sông ngày đó chứ? Bài hát trỗi lên thật không đúng lúc. Có phải là định mệnh đưa đẩy không em? Đêm đó anh định nói với em chúng ta nên kết hôn để chúng mình mãi mãi cạnh nhau, bỗng nghe giọng ca của Thái Thanh cất lên, xoáy vào tim anh rất nhức nhối: “Người vọng phu trong lúc gió mưa, bế con đã hoài công để đứng chờ...” Vừa thoát chết, anh vẫn thấy cái chết còn đang rình rập, chờ đợi anh. Nhìn cặp mắt rạng rỡ của em, anh đành buông một câu nói ngoài ý định: “Anh muốn bàn với em một chuyện quan trọng, thôi để hôm nào anh viết thư nói rõ với em.” Nhưng bức thư ấy đã không bao giờ được viết.
Trở về đơn vị, ngày ngày anh lại chứng kiến cảnh đau lòng của các đồng đội chết không toàn thây, những vành khăn tang quấn vội lên đầu trẻ thơ với đôi mắt lạ lẫm nhìn quanh, những người phụ nữ tuổi đời còn quá trẻ trong tang phục trắng toát ngồi lặng lẽ khóc bên quan tài của chồng hay của người yêu dưới đôi hàng nến lập lòe ảm đạm. Anh buồn lắm em à. Một tương lại vô định! Một mất mát đau thương! Anh không ngừng lao vào cuộc chiến với ước vọng góp phần chấm dứt chiến tranh mau chóng hơn. Nhưng vô ích, chiến tranh càng lúc càng khốc liệt nên anh đã viết bức thư tuyệt tình với em thay cho bức thư vẽ một tương lai ấm cúng bên vợ con.
Trong những lúc nghỉ ngơi, anh lao vào cuộc vui để tìm quên và anh đành bỏ mất em. Anh có lỗi với em, anh biết vậy nhưng anh thấy mình càng có lỗi hơn nếu định mệnh buộc anh bỏ em trên đường đời với gánh nặng con thơ. Anh đã khuyên em kết hôn với một người chồng dân sự để em có thể hưởng một cuộc sống an lành hạnh phúc. Đó là mong ước của anh, một mong ước đã mang đến cho anh một nỗi đau không nguôi. Anh đành phải chấp nhận thôi. Xin em hiểu cho anh và tha thứ cho anh. Giờ đây em có sống hạnh phúc như anh mong ước không vậy em?"
Lân thức giấc, thấy bạn còn mở mắt, gương mặt trầm ngâm, bèn nhắc nhở:
- Thôi! Ráng ngủ đi, Quang. Ngày mai còn làm việc vất vả lắm. Mấy đêm nay tôi để ý thấy anh trằn trọc, ban ngày thì bần thần như người mất hồn. Bây giờ chuyện gì cũng ngoài tầm tay, mình đành phải chấp nhận thôi. Mình phải ráng giữ gìn sức khỏe vì sinh mạng là quan trọng nhất. Còn sống mình mới có thể tính tới những chuyện khác được.
Quang chép miệng, tiếp lời bạn:
- Tôi có chuyện buồn bất ngờ, không mong mà vẫn tới.
- Bây giờ chuyện gì cũng có thể xảy ra được cả. Tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi, nếu mai kia rơi vào tình trạng tệ nhất là hay tin vợ lấy chồng cán cối, mình cũng nên cám ơn kẻ thù đã cưu mang người mình từng thương yêu. Tốt nhất là bình tĩnh, chấp nhận, và cầu chúc nàng hạnh phúc. Cứ kể như mình chết từ ngày bước chân vào tù, thì đến nay nàng góa bụa đã hơn năm năm rồi. Để tang chồng như thế là quá dư. Giờ nàng tái giá cũng đã tròn đạo phu thê lắm rồi. Tôi nghe nói trong trại mình người thì vợ vượt biên, không chịu nỗi cảnh bơ vơ nơi xứ người đã ôm cầm sang thuyền khác, người thì con gái bị hải tặc hãm hiếp, chết ở biển Đông, con trai đi “nghĩa vụ” bỏ thây bên Cam - Bốt… Thân tù tội đành phải bó tay, có buồn cũng vô ích, còn hại sức khỏe thêm. Chuyện phải tới thì nó tới thôi. Đừng bận tâm. Ngủ đi, Quang.
Nghe Lân nói tới đó, Quang đâm ra lo lắng, cả năm nay không tin tức gì của vợ, anh không biết nàng có ôm con vượt biên không? Nếu vượt biển nàng có được an toàn? Anh biết nàng không phải là một phụ nữ cần cù để chịu thương chịu khó mà vượt qua được hoàn cảnh sống khắc nghiệt này nên anh âm thầm lo lắng, không chia sẻ với ai. Tuy nhiên mấy hôm nay nỗi bứt rứt, buồn bã của Quang là do chuyện khác. Để bạn an tâm, anh nói:
- Cám ơn anh quan tâm. Tôi sẽ cố gắng làm theo lời anh khuyên.
Nói xong, Quang xoay lưng nhắm mắt dỗ giấc ngủ, nhưng nào có ngủ được. Hình ảnh cặp mắt long lanh biết nói cùng nụ cười tươi thắm hiền lành của Hồng hiện ra đằm thắm, ngự trị trái tim anh. Ngày xưa Quang đã lụy vì cặp mắt, đôi môi này và cũng vì chúng mà anh đành xa nàng. Anh tưởng bấy lâu nay trong cảnh tù đày tim anh chai sạn, không còn cảm xúc nào nữa, không ngờ bây giờ anh đang vui lẫn buồn, đang thấy rằng đời còn những điều tốt đẹp đáng yêu, đáng quý do nàng đem đến. "May mà có em đời còn dễ thương." Kỷ niệm ngọt ngào của một thời tuổi trẻ tưởng chết trong lòng anh nhưng không, chúng chỉ nằm yên, lặng lẽ, thầm kín trong tim anh, chỉ chờ đợi có cơ hội là trổi dậy. Quang bỏ một kỳ viết thư về gia đình để hồi âm cho nàng và bắt đầu chờ thư như ngày xưa anh đã từng chờ.
2.
Thư của Quang gởi đi đã gần ba tháng rồi. Những bạn đồng tù bắt đầu có thư lai rai. Anh thèm đọc lại giọng văn kể chuyện bình dị, nhưng không kém phần dí dỏm của nàng. Đời sống vất vả, nhưng anh mong nàng đừng đánh mất lạc quan. Quang nuôi hi vọng một ngày ra tù, anh sẽ đến gặp nàng để anh được ôm nàng trong vòng tay, đặt những nụ hôn say đắm vào đôi mắt trong sáng, đôi môi mềm mại ngọt ngào của nàng.
Quang đang miên man xây mộng, giọng the thé của cán bộ coi tù vang lên:
- Anh Quang, nàm khẩn chương nên! Sắp hết giờ dzồi.
Anh trả lời:
- Thưa cán bộ, tôi đau bụng, cần đi trạm xá y tế.
- Đau bụng, không phải đau tay. Nàm khẩn chương nên(!)
Quang nói thật, mấy tháng nay, anh thường hay bị đau bụng. Từng học dược nên anh biết mình bị sán lải. Anh đi trạm xá y tế vài lần rồi, nhưng lần nào cũng được mấy viên "thuốc thần" Xuyên Tâm Liên trị bá bệnh. Anh biết mấy con vật ký sinh này kỵ với thuốc thần Xã Hội Chủ Nghĩa nên anh không uống mà cho mấy gốc rau cải của trại uống. Mấy con ký sinh tiếp tục sống hùng sống mạnh trong tấm thân còm cỏi đói khát của anh nên anh mang chứng đau bụng kinh niên là thế.
Tiếng kẻng báo hết giờ vang lên. Quang cùng các bạn đồng tù tuôn xuống suối tắm rửa để sớm về trại nghỉ ngơi. Một ngày như mọi ngày trôi qua nặng nề, mệt mỏi, và vô vọng. Về láng, Quang uể oải ngồi lên mép chiếu, nhìn những khuôn mặt thiểu não của các bạn mà cảm nhận một tương lai mù mịt như những buổi sáng lội vào rừng anh nhìn sương mù bao phủ những toán tù cải tạo và luôn cả cuộc đời của họ. Hi vọng gặp lại Hồng dù chỉ một lần đã tắt lịm trong tâm khảm của anh. Người cán bộ bước vào, gọi tên những người có quà của thân nhân lên văn phòng trại để lãnh. Anh không quan tâm, vì phiếu gởi quà của trại phát cho, anh đã không gởi về nhà cho vợ nhưng anh đang mong thư của Hồng để biết cuộc sống của nàng sau ngày mất nước như thế nào. Dòng suy tưởng của anh bỗng bị cắt ngang bởi cái giọng hách dịch thường ngày của cán bộ trại, anh ta đọc đến tên Quang trong số người có quà thăm nuôi.
Quang vô cùng ngạc nhiên. Thì ra, cả năm nay vợ anh vất vả nuôi con và dành dụm tiền để mua quà cho chồng. Anh ân hận đã nghĩ không đẹp về nàng. Vợ anh ngoài việc nhảy đầm giỏi, nói năng lôi cuốn, ăn mặc đẹp trong những buổi họp mặt với bạn bè của anh, khi gặp "thời thế" khó khăn nàng cũng biết "thế thời phải thế" mà thích nghi với xã hội lắm. Như vậy có lẽ nàng phải chịu đựng vất vả hơn nhiều so với những phụ nữ bình thường khác. Gói quà chỉ 5 kí lô nhưng anh thấy cả tình yêu và hi sinh rất lớn của nàng và con trao tặng cho anh.
Nhận quà xong, Quang vội vã túm gọn lại, ôm về phòng bày ra ngắm nghía: nào là gạo, muối mè, đường thẻ... nào là mắm ruốc với thịt bò băm nhuyễn xào xả ớt, món đặc biệt của Huế, dân trong Nam xào mắm ruốc với thịt ba rọi, không phải với thịt bò. À, có cả bột nêm để nấu ăn của hàng PX Mỹ nữa. Ở dưới quê mà nàng tìm được món này, giỏi thật! Có cả thuốc trụ sinh và những thuốc trị bệnh thông thường, bông băng cứu thương v.v. và một thứ mà hiện tại anh vô cùng cần là Decaris, thuốc sán lãi. Với gói quà hạn chế không quá 5 kg mà vợ anh gói ghém gởi đầy đủ những thứ cần thiết cho người tù. Nàng khéo tính toán thật! Vậy mà trước đây anh hay trách nàng vô tâm. Mỗi lần nghe vậy thì nàng đáp: "Có anh lo rồi, em lo mần răng cho mệt rứa." Thời thế đã biến đổi nàng thành một người khác, một phụ nữ tinh tế, chu đáo, nhớ cả chuyện người tù ăn uống mất vệ sinh nên gởi thuốc xổ lãi. Ít có người trong tù, ngay cả anh, nhớ đến thuốc này rất cần mang theo trong số thuốc phòng thân cho đến khi bị bệnh rồi mới nhớ. Trại giam thuộc quyền Công An này cho phép người tù được giữ thuốc, còn những trại Quang bị giam trước đây, thuốc men của tù đều bị tịch thu nên có những người mắc bệnh thông thường mà chết chỉ vì thiếu thuốc. Ân hận tràn về, gần ba tháng nay anh đã nhớ thương một hình bóng khác! Anh đã bỏ mất một kỳ viết thư cho vợ con để gởi thư cho người yêu cũ của mình. Quang đang ngồi lặng lẽ, ngẩn ngơ thì Lân đến bên hỏi:
- Sao? Có thư từ tin tức gì đặc biệt không mà ngẩn tò te ra vậy?
- Tội nghiệp vợ tôi! Gánh con thơ đã nặng lắm rồi mà còn gánh thêm người tù nữa. Người phụ nữ thế hệ mình long đong vất vả cả đời!
Lân ngồi xuống, cầm tờ giấy bọc quà lên, vuốt thẳng, anh hỏi:
- Ủa, ai gởi quà cho anh đây? Cháu gái hay "em gái hậu phương" kết nghĩa?
- Anh hỏi lạ, của bà xã tôi chứ ai. Chắc bà ấy nhờ cô em ở Sài Gòn đi gởi giùm.
- Xạo, bạn! Em vợ sao họ lại khác với bà xã anh vậy? Tôi nhớ hai ông bà cùng họ với nhau mà.
Nghe bạn nói, Quang vội vói tay cầm bao giấy, đọc tên người gởi mà khi nhận quà vội vàng, anh đinh ninh của vợ nên ôm đại về phòng, không để ý tới. Quang nghẹn ngào. Tên Hồng hiện ra, rồi nhạt nhòa trước mắt anh. Anh ngồi bất động trước gói quà, không còn thấy gì nữa, chỉ thấy dáng em e ấp đi bên anh trong những buổi chiều nhạt nắng bên bờ sông Bến Ngự với tà áo dài được gió thổi bay bay quấn lấy anh như một gắn bó không rời; dáng em ngồi co ro trong gió đêm lành lạnh ở quán nước ven bờ sông Hương vào lúc chia tay năm nọ. Em, cô sinh viên Đại Học Huế người Miền Nam thật thà, đôn hậu, tươi trẻ với nụ cười rạng rỡ chưa biết ưu sầu. Hạnh phúc làm sao "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy!"
Tiếng kẻng báo giờ lao động vang lên. Quang thẫn thờ gom quà lại cất, làm rớt lên rớt xuống. Lân giúp anh một tay thu dọn. Một miếng giấy nhỏ ghi danh sách các món quà rớt ra. Nét chữ của Hồng, nét chữ thân yêu ngày nào. Anh lật mặt sau. Nàng viết: "Địa chỉ của anh, em biết được nhờ ba anh. Gởi anh hai câu Kiều đọc cho vui... " Trước mắt Quang, chữ nàng nhòe nhoẹt, chập chờn, anh không đọc được. Anh vô cùng đau xót và ân hận. Anh lẩm bẩm: “Một lần nữa, em lại lặn lội đường xa xuống tận quê anh, tìm ba của anh để xin địa chỉ. Vô cùng cám ơn em! Muôn vàn xin lỗi em!"
Trên đường đi, Lân hỏi nhỏ:
- Chuyện gì mà buồn so vậy? Bí mật lắm hả? Nói ra cho nhẹ bớt đi. Ở đây đã cực khổ thể xác và tinh thần lắm rồi. Đừng tự mình hành hạ mình thêm nữa.
- Tôi muốn tâm sự với anh lâu rồi, vì tôi cũng cần có người giúp ý kiến. Ngày mai Chúa Nhật được nghỉ ngơi, tôi kể chuyện tình của tôi mười mấy năm về trước cho anh nghe. Tôi sẽ đưa cho anh xem lá thư vừa rồi có nhiều ẩn ý. Tôi sợ hiểu sai ý nàng.
Lân đùa cho không khí bớt căng thẳng:
- Giấu kỹ quá vậy bạn! Bây giờ mới bật mí, phải không? Có đứa con riêng nào không? Trai hay gái? Chao ôi! Nếu có thì chắc lớn dữ rồi đa, ít nhất đã vào trung học. Nói đi, bảo đảm giữ bí mật cho chàng như giữ bí mật hành quân vậy.
- Buồn lắm anh ơi! Một mối tình không trọn vẹn do lỗi tại tôi đi một bước sai lầm. Tôi đã ân hận biết bao năm rồi. Mười mấy năm cách biệt, tưởng mọi việc đi vào dĩ vãng, không ngờ... thật không ngờ! Mọi chuyện cứ tưởng như trong mơ! Hẹn ngày mai, mình gặp nhau chỗ cũ, tôi sẽ kể cho anh nghe.
3.
Hôm sau, Quang và Lân ngồi dưới tàng cây, thưởng thức mì gói và nhâm nhi ly trà nóng nhờ kỳ thăm nuôi vừa mới đây của vợ Lân. Lá Thu rơi lả tả như cuộc đời đang rơi rụng tả tơi của "học viên Đại Hộc Máu." Trời cuối thu núi rừng Miền Bắc se lạnh, nhưng năm nay Quang cảm thấy ít rét hơn mọi năm. Phải chăng anh được tình yêu của nàng sưởi ấm? Anh kể cho bạn ngày gặp gỡ đầu tiên với Hồng cũng vào mùa Thu trên chuyến bay định mệnh và chuyện tình của anh đẹp và trong sáng như ánh trăng rằm. Anh thú nhận với bạn chính anh là người gây ra sự đổ vỡ này khiến anh bị dằn vật bấy lâu nay. Anh đưa lá thư của nàng cho Lân đọc. Đọc xong, Lân thở dài, khẽ nói:
- Qua thư này thì tôi thấy cô ấy cũng nghèo khổ, vất vả lắm. Nhà giáo mà, làm sao khá được về vật chất, chỉ có giá trị tinh thần là niềm vui và an ủi thôi. Mấy trăm gram thịt tiêu chuẩn mỗi tháng, vậy mà quà cổ gởi cho anh có thịt thà. Còn thuốc men nữa, toàn những thứ phải mua với giá chợ đen. Anh nhận những món này là bị cấy "sinh tử phù" rồi. Cuộc đời anh từ giờ trở đi bị ràng buộc ân tình với cô ấy không thoát được. Giống như cái tên "sinh tử phù," anh sẽ dở sống dở chết với "em gái hậu phương này cho coi. Giá trị món quà không phải ở vật chất mà ở chỗ nàng gởi những món cần thiết vào đúng thời điểm anh cần nhất, đến đúng nơi anh bị cột tay chân, không tự mưu sinh được, và gởi tới người mình thương yêu thì giá trị to lớn đến cỡ nào! Món quà đắt giá quá, không cách nào anh trả được bằng vật chất, chỉ còn cách duy nhất là đem thân đền đáp thôi, Quang ơi!
- Anh lại nói chơi rồi. Thân tôi trong rọ như thế này làm sao mà đền đáp?
- Thì hẹn lại kiếp sau, kiếp sau nữa, và kiếp sau sau nữa... Thôi không đùa nữa. Kiếp này không xong thì mong chi kiếp sau, biết có kiếp sau hay không? Cho hỏi nè: Điều kiện nàng tốt quá, hai người lại yêu nhau tha thiết, không bị cản trở. Tại sao anh không cưới nàng để giờ đây ân hận thế này? Đừng nói với tôi vì anh không muốn nàng trở thành góa bụa mà đi cưới người khác nghe.
- Khi ấy, anh không ở chung đơn vị cũ với tôi nên anh không biết. Sau khi những người bạn thân ở đơn vị cũ nằm xuống và tôi bị thương, tôi bi quan lắm, không biết mình sống chết thế nào, nên tìm quên trong các cuộc vui. Nơi đây, tôi gặp một người con gái xinh đẹp, chịu chơi, hát hay, nhảy giỏi. Tôi cặp với nàng, và không tự thắng lấy mình để có con. Vì trách nhiệm, tôi cưới nàng. Tôi đã tự trách mình nhiều lắm rồi. Trong thư Hồng bảo vì tức tôi dại dột không di tản mà nàng giậm chân trên nền nhà đến thủng, khi về tôi phải sửa chữa đền lại cho nàng. Tôi không tin giậm chân đủ mạnh để thủng nền nhà. Phải có ẩn ý gì đây. Anh nghĩ sao?
Lân cười đáp:
- Nghĩa câu viết rõ ràng là vậy, còn thắc mắc gì nữa. Anh muốn tìm hiểu ẩn ý à? Tạm thời hiểu thế này nhé: Chồng đi vượt biên bỏ lại vợ con, nên gia đình như nền nhà long móng. Khi về anh phải cưu mang nàng. Sướng nhé, một kiểng hai quê, một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chuồng heo, không vợ nằm chèo queo như bây giờ. Đừng mơ nữa, anh chàng đào hoa ơi!
- Trong thư nàng ngầm bảo Mỹ đang can thiệp cho chúng ta ra tù, không biết nguồn tin có chính xác không?
- Cứ tin là đúng đi cho lên tinh thần. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ được trả tự do, chừng đó anh sẽ sướng nhé. Nàng phòng không chiếc bóng đang chờ anh đó. Anh là một người hạnh phúc. Hãy sống vui vẻ với cái hạnh phúc đang có trong tay. Chúc chàng mỗi tối đều có giấc mộng đẹp với cố nhân. Nhớ nghe, trong giấc ngủ ôm nàng cho chặt, đừng để vuột nữa... anh chàng đào hoa ạ!
Những lời Lân nói chơi, tuy chơi mà thật, làm Quang vừa sung sướng, vừa chua chát để nhận thấy rằng anh chưa một lần chia cho nàng ngọt bùi để đồng cam, nhưng giờ sao nàng lại xẻ bớt cay đắng của anh để cộng khổ như thế này! Anh tẩn mẩn đọc lại thư và miếng giấy ghi danh sách các món quà có hai câu Kiều để nghe trong lòng dậy sóng yêu thương lẫn ân hận, tiếc nuối:
"Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng."
Bên Đồi Vọng Cảnh (Huế) vào năm 1961
Chương 10
Sòng đời trắng tay
1.
Hồng tiếp tục gởi cho Quang những gói quà “cứu đói” 5 kí-lô mỗi ba tháng theo quy định của Nhà Nước, có kèm những lá thư vừa "hô khẩu hiệu" vừa nói lóng. Quang không nói gì trong thư hồi âm nên Hồng nghĩ bọn cai tù không hiểu những gì nàng ám chỉ trong thư và vì thế nàng "đường ta ta cứ đi, việc ta ta cứ làm" cho đến một ngày Hồng nhận thư của Quang được gởi từ một đơn vị bộ đội mà tên người gởi ghi ở bì thư hoàn toàn xa lạ với nàng. Trong thư Quang báo tin anh đã được chuyển trại về Nam và anh sẽ ném bức thư này ở một ga xe lửa với hi vọng đồng bào nhặt được gởi giùm. Hồng nghĩ có lẽ một cậu nghĩa vụ quân sự nào đó nhặt được và gởi lá thư này đi. Qua sự kiện này, tấm lòng người dân Miền Nam vẫn còn đầy ắp tình thương mến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Lá thư này chứng tỏ Hồng vẫn còn một chỗ đứng không nhỏ nhoi chút nào trong tim Quang.
Vì các trại tù trong Nam không có quy chế gởi quà, Hồng mất đi dịp giúp đỡ Quang nhưng nàng an tâm vì trong Nam đường đi không nhiêu khê cách trở như núi rừng Miền Bắc. Gia đình người tù thăm nuôi dễ dàng, có thể tiếp tế thực phẩm và thuốc men cho thân nhân nhiều hơn ở ngoài Bắc. Hồng không có tư cách gì để làm công việc đi thăm nuôi Quang nên nàng dừng lại, để việc đó cho gia đình anh lo. Thêm nữa, khí hậu trong Nam không khắc nghiệt như Miền Bắc, dân tình lại thương mến các chiến sĩ VNCH, do đó sự an toàn và sức khỏe của Quang sẽ khả quan hơn khi ở ngoài Bắc. Hồng cũng mừng cho Quang khi biết vợ anh đã vượt biển thành công qua những lá thư nói lóng anh gởi cho nàng. Chút nghĩa cũ dành cho Quang, nàng tự coi như đã làm xong. Viết thư "hô khẩu hiệu" hoài cũng đâm ra chán, không còn biết phải nói gì nữa nên từ đó thư Hồng cũng thưa dần. Cơn bão tình cảm bộc phát dữ dội rồi cũng từ từ tàn phai.
Tuy nhiên, cơn bão ấy sắp tàn một cơn giông khác nổi lên, đánh cơn bão cũ tan rất mau. Một người quen của Hồng tình cờ biết được Xuân có người đàn bà khác và đã sanh một đứa con nên tức tốc viết thư cho nàng biết. Chuyện này Xuân giấu mọi người và lẽ dĩ nhiên luôn cả nàng. Hồng đã làm một kịch sĩ tài tình đến nỗi con cái, người thân, và bạn bè ai ai cũng tưởng nàng đang hạnh phúc chờ ngày gia đình đoàn tụ. Hồng không muốn con cái chịu ảnh hưởng không đẹp do người lớn làm ra và nàng cũng muốn con mình rời khỏi Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa này. Nàng giả vờ không biết và khéo léo viết thư cho Xuân nói rằng nếu anh muốn cưới người khác thì nàng sẵn sàng chia tay một cách êm đẹp chỉ với một điều kiện Xuân phải bảo lãnh mẹ con nàng qua Mỹ. Nhưng Xuân vẫn một mực nói yêu vợ con. Hồng nghĩ một phần cũng do lỗi của nàng chết nhát không dám ôm con vượt biển. Thời gian vợ chồng xa nhau quá lâu trong khi hai chánh phủ Mỹ - Việt chưa đạt được thỏa hiệp chung về chuyện đoàn tụ gia đình, việc chính thức ra đi giậm chân tại chỗ. Trách mình chớ dám trách ai!
Khi Nhà Nước nhận đơn xin đoàn tụ, Sở Giáo Dục Thành Phố lại chỉ thị rằng các thầy cô giáo nạp đơn xin đi nước ngoài sẽ không đủ tư cách để đứng lớp. Hồng đành phải từ giã nghề dạy học, chuyên tâm ra chợ trời “phe phẩy," nhập bọn với nhóm của Cẩm Vân.
Hằng ngày Hồng lên xe buýt ra chợ trời Tân Định, chợ Bà Chiểu, hoặc chợ Huỳnh Thúc Kháng, có khi xa hơn như chợ Kim Biên... Hôm ấy nàng vừa xuống trạm chợ Tân Định liền gặp Cẩm Vân bước tới tươi cười nói:
- Này Hồng, có người giới thiệu mình một mối làm ăn khá lớn, buôn bán một số mặt hàng y tế. Ngày mai đi gặp người ta. Mi muốn không, mai theo ta.
Hồng đáp:
- Em thấy buôn bán như vầy cũng đủ sống rồi. "Tri túc tiện túc" chị à. Vả lại em cũng được chồng "chi viện" chút đỉnh để nuôi con.
- Đừng ỷ lại vào chồng, Hồng ơi. Theo mình biết, hồ sơ đoàn tụ đang bị đình chỉ vì Mỹ - Việt đang cò kè bớt một thêm hai, không biết chừng nào mới thỏa thuận xong. Những trại tị nạn ở các nước láng giềng đã đóng cửa. Thuyền nhân biểu tình rần rần, nghe phát rầu. Bây giờ muốn đi được chỉ còn nước "chạy" diện xuất ngoại trị bệnh, đương nhiên là tốn "cây." Mình đang làm hồ sơ đây, để xem có được không. Nếu được, mình giới thiệu “đường dây” cho Hồng. Lẽ dĩ nhiên là cần tiền đó, ráng mà kiếm để cho... người khác hưởng, nếu muốn đoàn tụ với chồng.
Nghe chị nói vậy, Hồng thấy sao cay đắng trong lòng nhưng không nói ra. Nàng chỉ cần đem con ra khỏi cái "Thiên Đàng" khắc nghiệt này, chứ không cần chồng nữa. Nàng sẽ đứng trên đôi chân mình, không cần dựa vào ai cả. Nghĩ đến đó, Hồng gật đầu nhận lời.
Chị Cẩm Vân nói tiếp:
- À, còn một chuyện này nữa suýt chút xíu mình quên. Báo tin "hồ hỡi phấn khởi" cho "cưng" đây. Sáng, đứa em Thiếu Tá "Giặc Lái" của mình, sau mười năm học tập đã "tốt nghiệp" Đại Hộc Máu với cấp bằng "Hậu Tiến Sĩ" vừa "vinh quy bái tổ" ngày hôm qua. Như vậy cũng mừng, có lẽ Mỹ - Việt thỏa hiệp được điều gì đó rồi. Hi vọng những "xanh (xao) viên" của trường "Đại Học" này từ từ sẽ được ra trường hết ráo, trong đó có anh chàng Quang của mi.
- Em xin chia vui với chị, cho em gởi lời chúc mừng tới anh Sáng , nghen.
- Thôi mình đi chạy hàng đây, tới giờ hẹn rồi. Nhớ đúng hẹn ngày mai, 9 giờ sáng tại chỗ này.
Hồng ngẩn ngơ bước vào chợ Tân Định. Tin Sáng được về khiến Hồng chạnh lòng nhớ tới Vũ, người bạn hàng xóm của nàng, một Sĩ Quan Báo Chí xuất thân trường Thiếu Sinh Quân và Võ Bị Đà Lạt. Anh bất khuất, không chịu cảnh bó thân vào rọ, đã can đảm vượt ngục nhưng đau đớn thay chuyện bất thành!
Hồng nghe được tin buồn này từ một người bạn tù của Vũ. Sau khi được thả về anh ta đến thăm và cho gia đình Vũ hay rằng, ngay hôm bắt được Vũ chúng nó đóng vội vàng một trụ gỗ ở sân trại, bắt tất cả tù trong trại ngồi chứng kiến cảnh xử tử để răn đe họ. Chúng còn bố trí sẵn vợ con anh em của chúng giả danh “nhân dân” làm cò mồi. Vũ can đảm nhận mình là người tổ chức cuộc vượt ngục và đi đoạn hậu để hai người bạn tù được thoát. Anh đã bị chúng “đánh hội đồng” bầm giập đến nỗi chân đứng không vững. Cuộc tra khảo dã man của thời Trung Cổ được thực hiện ở cuối Thế Kỷ Hai Mươi tại nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của các “Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người!” Sau khi không khai thác được gì, chúng mang anh ra pháp trường trong lúc bọn giả danh nhân dân vung tay hò hét: “Giết!… giết tên phản động… giết!… giết chết nó!” Chúng trói chân Vũ, bẻ quặt hai tay anh ra sau trụ gỗ hành quyết trói lại. Sợ Vũ chửi “Cách Mạng,” chúng nhét một trái chanh vào miệng anh và lấy vải bịt chặt lại. Tuy không nói được nhưng anh vẫn biểu lộ sự can trường và lòng uất hận của mình qua những âm thanh tắt nghẹn trong cổ họng. Mắt anh tóe lửa nhìn trừng trừng vào mặt kẻ thù. Chúng lấy mảnh vải đen che kín đôi mắt căm hờn đó lại mặc tình cho Vũ lắc đầu, mạnh mẽ phản đối. Chúng nả những viên đạn oan nghiệt thẳng vào tim anh, thân anh khuỵu xuống, đầu gục về phía trước, máu trào ra ướt đẫm tấm thân tù đày gầy guộc của anh. Ôi! Máu anh đã tô thắm màu cờ sắc áo binh chủng của anh và đã góp phần viết nên trang Quân Sử oai hùng của Quân Lực VNCH. Thân anh đã trở về lòng Đất Mẹ, nhưng tình yêu nước của anh, tinh thần dũng cảm, nhân ái của anh vẫn ngời sáng, bất diệt ...
Tội nghiệp! Bác Mười, mẹ của Vũ, nằm liệt giường cả tháng trời sau khi hay hung tin này. Mỗi khi Hồng đến thăm, bác luôn ôm lấy nàng và khóc làm nàng cũng không tránh khỏi xót xa rơi lệ. Hình ảnh cái chết bất khuất, oai hùng của Vũ và cảnh tre già khóc măng non của mẹ anh đã theo nàng một thời gian dài...
Nhìn dáng Cẩm Vân quay đi với niềm vui người em được thả về, Hồng thầm nói với Vũ: “Vũ ơi, em khâm phục anh, em ngưỡng mộ tinh thần bất khuất của anh. Tuy không “Thành Công” nhưng anh đã “Thành Nhân.” Bà con xóm làng và cả em nữa, tự hào về anh, nhưng sao em vẫn muốn anh sống, vẫn muốn có anh trong xóm làng mình, muốn có anh săn sóc bác Mười, và em mơ một ngày nào đó em được hãnh diện cùng anh nghiêm trang chào lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay phất phới trở lại trên bầu trời trong xanh thanh bình của quê hương chúng ta.”
2.
Hôm sau Hồng theo Cẩm Vân đến một ngôi nhà không lớn lắm, tầm cỡ bậc trung, nằm cuối con hẽm, trước sân có hàng cây hoa hồng đủ màu đang ra hoa khoe sắc thắm. Bên cạnh là một chậu cây kiểng cắt tỉa kỹ lưỡng đẹp mắt. Giữa thời buổi cơm áo gạo tiền khó khăn như thế này mà chủ nhân còn để tâm tới cây cảnh hoa lá... chắc hẳn là một người có tinh thần nghệ sĩ, ngày xưa rất sính thơ văn. Bước vào nhà, Hồng đứng khựng trước chủ nhân trong khi Cẩm Vân mừng rỡ, ríu rít nói:
- Chào sư huynh Lữ. Thật không ngờ quả đất quá ư là tròn! Đồng môn chúng ta còn được gặp lại nhau ở đây. Không ai ngờ bao nhiêu thương hải tang điền mà còn gặp lại nhau.
Chủ nhân ngẩn người một lúc mới lấy lại bình tĩnh và mời khách ngồi, lăng xăng vừa rót nước vừa nói:
- Không ngờ! Không ngờ! Cám ơn Trời Đất.
Hồng reo vui:
- Bấy lâu em không biết anh ở nơi đâu, nay gặp lại thấy anh khỏe mạnh và toàn vẹn thân thể, ra tù có công ăn việc làm khá như thế này, em mừng lắm.
Nói tới đó, Hồng thoáng thấy nét xúc động trên gương mặt anh liền hỏi thăm:
- Chị đâu, anh? Cho em chào một tiếng.
Lữ vào trong, mời bà xã ra giới thiệu. Trong khi quí bà chuyện trò xoay quanh việc thăm hỏi gia đình, con cái, cặp mắt của Lữ thỉnh thoảng nhìn Hồng, ánh lên vẻ vui mừng nhưng không giấu được nét buồn làm nàng chợt nhớ mấy câu thơ của anh gởi năm xưa. "Tình ta là một con sông, Vì em nghiêng bóng nghẽn dòng nước trôi." Vì nàng xuất hiện nên cuộc đời anh không còn bình an và hạnh phúc? Hơn hai mươi năm trời mà anh vẫn không quên được nàng? "Đời anh là cánh chim Trời, Nhớ ngàn Mây ấy biết đời nào quên." Tình yêu đem đến vạn lần sầu là đúng hay sao đây! Hồng chợt nhớ đến một bài hát mà lời ca có lẽ nói lên tình cảnh này:
Em mặc ai sầu đuổi bắt mây,
Mây của em cũng xa tầm tay.
Mây trôi xa tít chân trời ấy,
Héo hắt em nhìn Mây Trắng bay
Lỡ đuổi theo sau một bóng mờ,
Tình lỡ trao thầm một bến mơ,
Lỡ buộc dây tơ, tơ lỡ đứt,
Lỡ mang sầu nhớ kết thành thơ..."
(Trích Đuổi Bắt Mây
Nhac: Huỳnh Trọng Tâm
Thơ: vhp.Hải Vân)
Sau một lúc dao động về cuộc hội ngộ tình cờ ngày hôm nay, Hồng quyết định không tham gia vào việc làm ăn. Nàng liền gợi chuyện mua bán là phần chuyên môn của Cẩm Vân để cho chị bàn với Lữ, nàng chỉ đóng vai người bàng thính. Khi hai nàng kiếu từ ra về, Lữ hứa:
- Chúng mình là đồng môn thân tình, tôi sẽ mang hàng đến nhà hai cô, không lấy tiền đặt cọc, chừng nào tiêu thụ xong đưa tiền cũng được. Món nào không bán được, hai cô đưa lại cho tôi, đừng ngại ngùng gì hết.
Hồng từ chối khéo:
- Cám ơn anh đã giúp đỡ. Em nghĩ em không có khả năng buôn bán mấy mặt hàng này. Chị Cẩm Vân rành việc hơn, anh giao cho chị ấy đi. Cho phép em rút lui.
Lữ đùa:
- Chưa ra quân mà đã tháo chạy rồi.
- Thật mà! Em biết khả năng của em.
Hôm sau, Lữ đột ngột đến nhà trong khi Hồng đang chuẩn bị ra chợ trời. Anh tâm sự, giọng buồn buồn:
- Đầu óc anh sao quá chậm. Mãi đến đêm, trằn trọc không ngủ được, anh mới hiểu ra lý do em từ chối làm ăn với anh. Em muốn xa lánh anh chứ gì? Xin em cho anh một góc đứng thật nhỏ trong trái tim em cũng đủ rồi. Đừng lánh mặt anh, hãy coi anh như các sư huynh đồng môn khác, và cho phép thỉnh thoảng anh đến thăm em, có được không?
- Thì em vẫn coi anh là một trong các sư huynh đấy mà. Nhưng .... xin lỗi anh, cho em rút lui việc làm ăn này.
- Anh hiểu ý của em muốn chúng ta ít liên lạc với nhau. Em ngại vợ anh ghen à? Bà ấy không ghen bậy đâu, vì biết công việc làm ăn của anh cần phải tiếp xúc với nhiều cô, nhiều bà. Anh yêu em và anh cất kỹ tình yêu này trong lòng. Bà ấy biết từ lâu. Bà cũng biết anh không làm điều gì bậy, và bổn phận người chồng người cha anh lo tròn. Trách anh sao được.
- Chị ở bên cạnh anh nên chị biết, còn ông xã em ở xa. Ông mà nghe phong thanh điều tiếng về em thì kẹt cho em anh ạ. Tránh trước vẫn hay hơn.
- Mình có làm điều gì đi quá ranh giới cấm đâu, chỉ liên lạc với nhau trong việc buôn bán thôi mà. Yêu em, anh để trong lòng, em cũng không cho sao?
- Em không rộng lượng được như chị. Em ích kỷ lắm. Với em, tình yêu phải trọn vẹn cả hồn và xác. Thiếu một trong hai, hạnh phúc khập khễnh, em sẽ buồn chết đi thôi.
- Em đã nói vậy thì anh phải chịu, chỉ xin em cho phép anh thỉnh thoảng ghé thăm là anh vui rồi.
- Anh cứ ghé nếu anh vẫn giữ được tình cảm đồng môn. Quá khứ, mình hãy cho qua đi.
Hồng nói xong câu này, chợt nhận thấy mình đòi hỏi một điều vô lý. Nàng có bỏ qua quá khứ của mình được không mà bảo người khác bỏ? Quá khứ làm nền cho hiện tại. Phải có quá khứ đó mới có hiện tại này mà!
Lữ đáp:
- Cho anh hơn tình đồng môn một chút: được xem em như một hồng nhan tri kỷ.
Nói xong, anh lặng im một lúc rồi tiếp:
- Anh trông em gầy và hốc hác lắm. Hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe. Anh có chai thuốc bổ Multi-Vitamin vừa mua được của một người lãnh quà nước ngoài, xin làm quà nhân gặp lại em. Một ngày uống một viên, nhớ nghe em. Chỉ mất một phút cho một viên thôi, đừng quên. Khi thuốc hết, anh sẽ nhờ người mang đến chai khác nếu em không muốn gặp anh.
Thấy Lữ tuy không phải là chồng của Hồng nhưng quan tâm và săn sóc nàng trong khi chồng nàng đang vui vầy với người đàn bà khác, bỏ quên nàng, Hồng cảm động nhìn Lữ và đáp:
- Cám ơn anh. Em sẽ uống.
Lữ chào ra về, trước khi ra cửa anh nói thêm một câu làm nàng cảm thấy mắt mình cay cay:
- Một ngày xin em cho anh chỉ một phút thôi.
Hồng thẩn thờ nhìn theo Lữ cho đến khi bóng anh khuất dạng. Nàng thầm nghĩ, anh đã khéo léo đưa hình ảnh của anh vào viên thuốc bổ hằng ngày này. Liệu nàng có thể quên được món nợ ân tình này chăng?
3.
Sau hơn nửa năm "chạy" giấy tờ, Cẩm Vân được xuất cảnh và chị ra đi cũng được cả năm rồi. Trước khi đi, Cẩm Vân đã giới thiệu "đường dây" cho Hồng, nhưng vì không có tiền nàng đành an phận chờ như phần đông các gia đình có nạp hồ sơ xin đoàn tụ với thân nhân ở Mỹ. Phương, người bạn thân của Hồng, từ ngày đi du lịch Úc cũng mất tăm hơi mấy năm rồi. Vậy là hai người bạn tri kỷ của Hồng đã vỗ cánh bay xa khiến nàng cô đơn, không còn ai để tâm sự. Trong lá thư cuối, Quang báo tin vui đã có nhiều người được thả và anh hi vọng đợt tiếp theo anh sẽ được về nhà. Từ đó đến giờ đã hơn nửa năm mà không có thêm thư nào của Quang nữa. Có lẽ anh đã về và quên mất nàng rồi. "Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi." (Thơ của Phạm Thiên Thư)
Vào một sáng Thứ Bảy các con đi học, Hồng đi chợ về, dự tính ra chợ trời trễ một chút để có thời giờ đổ bánh xèo cho các con một bữa ăn thỏa thích vì hôm sau Chúa Nhật nàng phải mất cả ngày bên ngoài. Đang lăng xăng làm bếp bỗng nghe tiếng gõ cửa, nàng thầm nói: “Ôi chao! Sư huynh kỳ này cho người đến tặng thuốc bổ hơi sớm.” Những viên thuốc này, nàng không uống mà nhường cho hai con, nhưng mỗi lần nhắc con uống thuốc nàng lại nhớ tới Lữ. Anh chơi "chiêu" này cao cường thật! Nhưng em xin lỗi anh, trái tim em đã trao cho người khác lâu rồi.
Lấy tay mở cửa, nàng sững sờ nhìn người khách, lập bập không nói được lời nào. Quang xuất hiện. Sau hơn hai mươi năm gặp lại, Quang ngày nay khác hơn Quang ngày xưa quá đổi. Nước da anh đen đúa và thân hình gầy rộc. Tù đày đã bào mòn thể xác của anh đến thế này sao! Tự dưng mắt Hồng rớm lệ. Quang giơ tay toan ôm lấy nàng, nhưng rồi anh dừng lại, nói đùa:
- Chủ nhà không mời khách vào sao? Bộ không hoan nghinh hả, bà chủ?
Hồng mời anh vào nhà, rồi lật đật vào trong rót nước để lấy lại bình tĩnh. Nàng biết Quang đùa để cố tự thắng lấy mình, riêng nàng sao vô cùng bối rối khi đối diện với anh, nhất là khi anh nhìn nàng bằng đôi mắt ngày xưa nơi chợ Đông Ba vào buổi tối chia tay. Đôi mắt toát ra tình cảm tha thiết trong một hoàn cảnh ngang trái, phải tự kềm chế mình không cho thốt ra lời yêu đương. Hồng cố gắng thoát khỏi tình cảnh này nên quên mất lời thăm hỏi thường tình, bối rối hỏi anh:
- Em nghe đồn Mỹ sẽ nhận cho định cư những cựu tù cải tạo. Không biết thực hư thế nào nhưng trên này đã có nhiều người làm hồ sơ xin đi. Ở dưới quê tụi "Cách Mạng" có làm khó gì anh không? Có cho anh nộp đơn không?
- Thì cũng giống như mọi nơi, nhưng có điều Miền Nam mình đỡ khắc nghiệt hơn Miền Trung. Vả lại, sau mười mấy năm sống trong chế độ Cộng Sản, người dân Việt Nam sáng mắt, sáng lòng lắm rồi nên tuy anh còn bị địa phương quản chế mà vẫn xin được giấy phép lên thăm em nè. Ngày trước em viết trong thư nền nhà của em bị thủng. Chỗ nào đâu, sao anh không thấy?
- Em tức anh vì có phương tiện dư thừa trong tay mà rơi vào hoàn cảnh của Từ Hải, nghe lời ngon ngọt hứa lèo của mấy thằng Giải Phóng Miền Nam để phải "ngậm một mối căm hờn trong củi sắt" ( Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ), may mà anh không ra pháp trường, nên em nói cường điệu vậy mà.
- Tình trạng của em bây giờ ra sao?
- Em đang chờ Nhà Nước chấp thuận hồ sơ xin xuất cảnh của em.
- Chồng em thật đàng hoàng, tử tế. Xa cách bấy lâu vẫn chung tình với em. Em đã chọn không lầm người. Bây giờ anh được an ủi là quyết định năm xưa của mình có kết quả khả quan tuy nó làm anh rất đau lòng. Trong tù anh cứ khắc khoải, thắc mắc không biết em có vui vẻ hạnh phúc không. Giờ thì anh an tâm lắm rồi.
Nghe anh nói, Hồng bối rối giấu nỗi buồn, hỏi trớ:
- Lúc trước anh cho biết chị nhà vượt biển thành công. Bây giờ có lẽ chị đã ổn định và gởi giấy tờ bảo lãnh cho anh đi đoàn tụ rồi, phải không? Anh cứ nộp đơn trước đi, hồ sơ được chấp thuận hay không, hạ hồi phân giải.
Quang ngồi lặng im, không trả lời. Một lúc sau anh thở dài, trầm ngâm nói:
- Anh đâu có được điều may mắn như em nghĩ. Vợ anh đi vượt biên một mình, bỏ lại hai đứa con cho ba anh nuôi. Từ đó tới giờ biệt tăm. Một vài người đi chung chuyến ấy, may mắn sống sót cho biết ghe gặp bão, chìm, chết gần hết. May vì thiếu "cây" nên hai đứa con anh còn sống đó!
Nhìn gương mặt buồn thảm của Quang, Hồng chỉ ngồi im lặng, nàng không biết nói lời nào để an ủi anh. Biết bao nhiêu người Việt đã bỏ thây trên biển, trong rừng sâu nước độc chỉ vì hai chữ “Tự Do.” Nghĩ đến đó, nàng thấy mình quyết định không đi vượt biên là đúng, nhưng bù lại nàng cũng đã phải trả một giá rất đắt. Như để phá tan bầu không khí trầm buồn giữa hai người, Quang lên tiếng:
- Cám ơn em đã gởi quà cho anh trong tù. Mấy viên thuốc xổ Decaris của em đến thật đúng lúc. Không có thuốc đó, anh khổ sở không biết đến bao giờ. Thuốc trụ sinh của em gởi, anh lấy một vài viên đổi thực phẩm với người dân cũng đỡ đói. Mắm ruốc của em, anh vừa ăn vừa chảy nước mắt đó em!
Hồng cười gượng, cố gắng nói đùa:
- Em thấy anh có vợ người Huế, nên bỏ nhiều ớt vào để anh ăn cho đỡ nhớ vợ mà lị!
- Chứ không phải em trả thù anh à?... Đùa thôi. Thật ra vì thịt bò trong mắm làm anh cảm động. Anh biết thời gian đó, em rất khó khăn trong cuộc sống, mẹ con em ăn uống thiếu thịt, thiếu cá, vậy mà tiếp tế cho anh. May mà anh không chết vì mắc nghẹn.
- Thì anh cứ coi như em trả nợ mấy vé máy bay đi Huế - Đà Nẵng ngày xưa vậy đi. Sòng phẳng rồi, đừng nhắc tới ân nghĩa nữa. Thôi, bây giờ ở lại ăn bánh xèo với mẹ con em, cho vui. Không phải bánh khoái đâu nghe, em là người Nam Kỳ nên không biết làm bánh khoái của người Huế mô. Anh ngồi chờ, đọc tạm mấy tờ báo này.
Quang đùa:
- Em nở lòng nào tra khảo tư tưởng của anh thêm nữa hay sao? Hơn mười một năm trong tù, anh đã nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lê và chính sách của các Đỉnh Cao Trí Tuệ lắm rồi, đâu cần đọc báo Xã Hội Chủ Nghĩa nữa. Cho anh phụ em một tay.
Quang theo Hồng xuống bếp. Nàng lặt rau, anh đứng bên cạnh làm tim nàng đập rộn rã, hai bàn tay nàng cứ run lập cập, nhặt lên bỏ xuống mấy cọng rau. Nàng tìm cách tránh xa anh, lòng lúng túng nói lung tung:
- Ở đây thiếu bông điên điển, thiếu đi hương vị của quê anh... Anh lặt giùm em mớ rau này, em làm nhân bánh... Ờ... không, anh không cần làm gì hết... anh lên nhà trên ngồi chơi.
Quang chợt nắm lấy bàn tay đang run rẩy của nàng, nhẹ xoay người, nhìn đắm đuối vào đôi mắt bối rối của Hồng. Nàng muốn bước đi để thoát khỏi đôi tay của anh, nhưng dường như nền nhà có nam châm hút cứng đôi chân làm nàng không nhúc nhích được. Quang đặt những nụ hôn tới tấp trên mắt, trên môi nàng. Toàn thân nàng tê dại, mềm nhũn trong vòng tay và những nụ hôn nóng bỏng của anh... Tuy nhiên trí óc nàng chưa u mê đến nỗi quên thực tại. Hai đứa con của nàng cần đi Mỹ và chúng không biết rằng cha chúng nó đã có người đàn bà khác. Nếu bắt gặp cảnh này, chúng sẽ trách nàng và sẽ cảm thấy xấu hỗ vì có một người mẹ không được... đoan chính. Nàng thầm thì trong hơi thở đứt đoạn:
- Anh... anh… đủ rồi... đủ rồi...
Quang chừng như cũng vừa qua cơn mê, vội buông nàng ra, ấp úng nói:
- Anh ... anh xin lỗi em. Anh ... anh không sao kềm chế được... Anh yêu em… mãi mãi.
Thế rồi Quang vội vã cáo từ ra về, Hồng cũng không giữ anh ở lại. Cả hai đều biết rằng nếu tiếp tục gần bên nhau họ sẽ không tự thắng được. Nàng nhìn theo bước chân anh càng lúc càng xa mà cay đắng thương thân tủi phận, tự hỏi tại sao nàng phải thủ tiết với người chồng phản bội? Vài ngày sau, Hồng nhận được thư Quang. Anh xin lỗi Hồng, vì quyết định năm xưa của anh mà di hận đến ngày nay. Anh bắt buộc anh phải xa Hồng mãi mãi kể từ đây, vì anh sợ nếu cứ đến thăm nàng e có ngày anh sẽ phạm sai lầm thêm một lần nữa. Anh yêu Hồng nên không muốn làm cho nàng rơi vào hoàn cảnh oan trái, không tháo gỡ nỗi. Anh chúc nàng đem được con qua Mỹ, sống hạnh phúc bên chồng con, và quên anh đi. Lá thư không ghi địa chỉ người gởi. Hồng biết tìm anh nơi nao? Hồng sống trong sự mâu thuẫn, vừa cám ơn vừa giận anh. Cám ơn anh đã dừng đúng lúc để nàng còn là một bà mẹ đáng kính của các con, vừa giận anh sao đành bỏ nàng bơ vơ không ngó ngàng tới.
Đã rõ sòng đời thua trắng tay,
Sao trăn trở mãi áng mây bay!
Sao hồn hoài tưởng duyên và nợ!
Sao để ngọt ngào trộn đắng cay!
Sao đem mơ ước đi vào mộng!
Vàng đá phai rồi sao cứ say!"
(Trích Những Vần Thơ Gởi Cố Nhân vhp. Hải Vân)
4.
Cuối cùng hai bên Mỹ - Việt cũng đi đến thỏa thuận chương trình Ra Đi Trật Tự, gọi là HO cho những người tù cải tạo ba năm trở lên, chương trình Đoàn Tụ cho vợ con và cha mẹ của những người vượt biển đơn lẻ, và những chương trình nhân đạo khác. Hồ sơ của Hồng được nhà nước hai bên chấp thuận. Xuân vẫn còn tốt bụng, lo giấy tờ và mua vé máy bay cho ba mẹ con nàng lên đường.
Của cải tiền bạc của Hồng là con số không nên hành lý ra đi của nàng rất gọn nhẹ. Nhưng những vật kỷ niệm mang theo làm nàng rơi nước mắt nhiều đêm. Những tấm ảnh kỷ niệm của nàng và gia đình, Hồng mang theo không sót. Còn thư từ thì đốt hay mang theo? Nàng nhủ lòng: đốt đi, đốt quá khứ đi, để không còn vương vấn mà làm lại mới cuộc đời mình. Nàng vẫn còn thời gian cho một tương lai tươi đẹp trước mắt. Hằng đêm Hồng đem thư ra đọc lần cuối trước khi đốt. Nàng đã khóc cười theo từng kỷ niệm của quá khứ. Đầu tiên nàng đốt những lá thư của Xuân, tiếp theo là thư bạn bè, thư của Hưng, Đông, Vũ. Đợt cuối cùng là thư của Quang. Mất mấy đêm để đọc và khóc với mấy lá thư của Quang mà nàng vẫn không nỡ xuống tay.
Hồng giận Quang sao anh không quay lại thăm nàng dù một lần, để giờ đây nàng ra đi mà không thể nói một lời từ biệt với anh. Rồi đây ở nước Mỹ rộng lớn, làm sao có một lần gặp mặt hay vuốt mắt cho nhau lúc cuối đời? Thật xa nhau vĩnh viễn rồi sao! Hồng tần ngần cầm lá thư cuối cùng anh viết từ biệt và cay đắng với lời chúc nàng đoàn tụ, sống hạnh phúc trọn đời với chồng con. Nàng đã nhiều lần phân vân tự hỏi không biết mình làm đúng hay sai khi giấu anh chuyện bất hạnh trong hôn nhân của nàng. Từ khi có chương trình HO cho những tù nhân chính trị qua Mỹ, nàng thật sự tự giận mình. Nàng ân hận lúc trước đã không cho anh biết để anh khỏi phải chạy trốn nàng, trốn chính anh thì biết đâu khi sang Mỹ nàng và anh sẽ có cơ hội cùng nhau làm lại cuộc đời.
Trách người trách mình cho lắm để rồi nhận thấy mình không thể xoay ngược lại tình thế, nàng quay sang trách Ông Trời, trách Số Phận, trách mình kiếp trước vụng tu... Cuối cùng Hồng cương quyết dứt khoát không vướng bận quá khứ, mạnh dạn bước vào một tương lai đầy hi vọng tốt đẹp nơi xứ người. Nàng xuống bếp, mang chồng thư của Quang ra đốt. Tự nhủ lòng không khóc, nhưng sao khi đưa mỗi lá thư vào lửa nàng cảm thấy nhói đau và nước mắt cứ ứa ra. Cuối cùng là vật kỷ niệm của Quang trao cho nàng lúc chia tay ở Huế. Đó là quyển Chỉ Dẫn Cấp Cứu (Medic First Aid - Wallet Skill Guide) mà ngày xưa nàng đã đọc đi đọc lại, ngắm tới ngắm lui mỗi khi nhớ anh đến độ sờn nơi nếp gấp. Ngắm nghía quyển sách nhỏ này một lúc nàng cất nó vào hồ sơ cá nhân của mình để mang đi. Đó là hành trang nàng mang theo qua xứ người. Nó quá mỏng mảnh nhưng sao có một uy lực rất lớn, rất mạnh để đủ sức kéo tay nàng lại?
5.
Ngày Hồng rời xứ, nàng hoan hỉ từ giã Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng đau lòng vì bỏ lại những vùng trời kỷ niệm, bỏ lại cha mẹ già sẽ mỏi mắt trông chờ tin nàng từng ngày từng tháng, bỏ lại những bạn bè, người thân kẻ thuộc, xóm giềng tối lửa tắt đèn có nhau... Lúc phi cơ cất cánh nàng không kềm được dòng lệ khi nhìn qua cửa sổ thấy Thủ Đô Sài Gòn yêu dấu xa dần... xa dần... và mất hút. Suốt thời gian dài trên máy bay, nàng vừa buồn vì nỗi mất mát lớn trong đời, vừa hoang mang thắc mắc không biết cuộc đời nàng nơi xứ lạ quê người như thế nào? Nàng sẽ làm gì để sinh tồn trong xã hội xa lạ đó mà không có một người thân dẫn dắt bước đầu? Nàng vạch sẵn cách đối xử khi đứng trước người đàn bà trẻ của chồng nàng. Nàng tự nhủ thầm mình là kẻ thua cuộc, hãy an phận chấp nhận thực tế không đẹp này. Nhưng liệu bà ta có đối xử lịch sự với mẹ con nàng hay không? Bao nhiêu là câu hỏi lởn vởn trong đầu làm nàng không thể chợp mắt. Xen kẽ với những lo âu là hình ảnh đẹp của chuyến bay định mệnh năm xưa làm nàng xao xuyến, buồn vui lẫn lộn. Cuối cùng nàng lòng nhủ lòng: "Ta hãy vất hết mọi sự, tới đâu thì tới, đừng bận tâm nữa."
Sau những giờ mệt mỏi trên máy bay, Hồng và hai con đến phi trường Los Angeles. Đón tiếp ở cửa ra là Xuân và một cháu bé khoảng sáu bảy tuổi. Sao không thấy người mẹ? Hồng thầm nghĩ, có lẽ cô ta lánh mặt, không muốn chạm trán với hoàn cảnh bẽ bàng này. Hai đứa con của Hồng chạy tới ôm cha, mừng ríu rít. Nàng làm kẻ ngoại cuộc quan sát cảnh đoàn tụ mà rưng rức trong lòng. Xuân đến bên cạnh giơ tay toan quàng lấy vai nàng, Hồng vội né tránh. Còn tình chi nữa, không hận là may lắm rồi! Xuân giới thiệu cháu bé với hai con, nói nó là con nuôi của anh, và bảo bé gọi Hồng bằng mẹ. Ôi chao ơi! Anh đang đóng một màn kịch với hai con lớn của anh. Hồng im lặng để xem vở kịch đến bao giờ hạ màn. Thấy đứa bé dễ thương, con gái nàng nắm tay lăng xăng thăm hỏi. Suốt đoạn đường về nhà, ba đứa trẻ líu lo thân ái. Hồng và chồng im lặng, một sự im lặng khó thở.
Bước vào căn chung cư hai cha con Xuân đang sinh sống, Hồng tưởng chừng như bước vào một căn nhà sau khi kẻ trộm vào lục tung đồ đạc tìm kiếm tiền vàng cất giấu. Không có người đàn bà nào khác ngoài chồng nàng và đứa bé. Thoáng một chút ân hận len vào lòng. Nàng đã sai lầm và kẻ cho tin cũng sai lầm bấy lâu nay? Quả thật anh đã nhận nuôi đứa bé này? Trong trường hợp nào? Hồng lấy lại bình tĩnh, cùng con thu dọn nhà cửa cho ngăn nắp, chờ Xuân giải thích sau. Xong việc, ba mẹ con nàng vì quá mỏi mệt và mất ngủ suốt chặng đường dài nên lăn ra ngủ, không biết trời trăng mây nước gì cả. Đến đêm Hồng lại lục đục thức và lau chùi dọn dẹp. Xuân cũng không ngủ được, đến bên tâm sự với nàng, thú nhận cháu bé chính là con của anh. Mẹ nó là một cô gái trẻ vượt biển cùng chung một chuyến ghe với anh. Cô ta bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp. Nhục nhã và bi phẫn, cô ấy đã vài lần tự tử nhưng lần nào anh cũng hay kịp nên ngăn chận được. Anh đã an ủi, cứu giúp cô ấy vượt qua được nỗi đau thể xác và tinh thần. Khi qua đến Mỹ, hai kẻ cô đơn nhưng lại có mối quan hệ thân tình, nương tựa với nhau để sinh tồn. Lâu ngày nảy sinh tình cảm, anh và cô ấy sống với nhau như vợ chồng và có một đứa con với nhau. Đó là thằng bé anh đặt tên là Đông để kỷ niệm trại tị nạn ở Pulau Bidông, nơi anh và cô ấy đến tạm cư. Cách đây ba năm, cô ấy bị ung thư tử cung và đã qua đời. Xuân xin lỗi Hồng và mong nàng tha thứ. Hồng bàng hoàng, nghe Xuân kể xong nàng mới trải tâm tư mình:
- Em biết anh sống chung với người phụ nữ này từ lâu nhưng vì anh không nói nên em không hỏi. Người đàn ông sống xa vợ thời gian dài nên có người đàn bà khác là điều không lạ. Người đàn bà vượt biên bỏ chồng trong tù cũng không hiếm. Chuyện vợ chồng xa nhau rồi bỏ nhau đầy dẫy ra đó. Em đã chết nhát, không dám mang con vượt biên, cũng góp phần vào việc đổ vỡ này. Thật lòng mà nói em thông cảm với anh và không trách anh, nhưng bảo em coi như không có chuyện gì là việc không thể. Thằng Đông còn quá nhỏ, nó cần một người mẹ. Em sẽ làm người mẹ ruột thịt của nó, em hứa với anh như vậy. Nó không có tội gì cả, chỉ là một đứa trẻ đáng tội nghiệp. Các con chúng ta cần có một mái ấm gia đình, cần một người cha dẫn dắt bước đầu vào đời. Với tất cả lý do đó, bước đầu này chúng ta hi sinh “sống như” không phải “sống là” một gia đình hạnh phúc. Nếu có một người đàn bà nào khác đi vào đời anh, anh cứ việc tiến hành, nhưng xin anh thương mà giấu kỹ các con, đừng làm chúng nó bị "sốc" khi còn nhỏ. Sau khi thằng Đông đến tuổi trưởng thành, anh có thể công khai hóa, và ra đi bất cứ lúc nào anh muốn.
- Em nói như vậy là em không tha thứ cho anh.
Hồng cương quyết:
- Anh à, tha thứ khác với quên. Anh cũng nên thật lòng mà nhìn nhận rằng tấm gương đã vỡ dù có khéo hàn gắn cách mấy cũng không làm sao xóa được vết hàn. Chừng nào em quên được thì tính sau. Bây giờ còn mới quá.
Với sự cương quyết của Hồng, Xuân đành chịu thua. Hồng và hai con vừa đi học, vừa làm việc bán thời gian để sống và hòa nhập vào xã hội mới này. Nàng thật sự không còn tâm trí và thì giờ để quay nhìn quá khứ. Cuộc sống càng ngày càng được ổn định. Nàng vui với những thành công lớn lẫn nhỏ của hai con, của cả Đông. Hình bóng Quang cũng nhạt phai theo năm tháng...
Chương Cuối
Sợi vắn Sợi dài
1.
Năm tháng trôi qua, Đông tốt nghiệp Đại Học ngành Vi Tính với điểm cao nên được một đại công ty mướn làm việc từ trước khi cậu ra trường. Hai anh chị của cậu đã lập gia đình, đi làm xa, chỉ còn cậu sống chung với cha mẹ trong một căn nhà xinh xắn. Vợ chồng Hồng tậu được tổ ấm này sau một thời gian làm việc bù đầu cực khổ. Để tránh cảnh "đấu khẩu" không cần thiết của cha mẹ, Đông lập ở vườn sau nhà hai khu vực: một cho cha trồng hoa kiểng, một cho mẹ trồng rau trái. Sau đó thấy hai ông bà vẫn còn dư nhiều thì giờ, cậu mang thêm về hai máy vi tính để "Mom và Dad có thú vui giải trí, không phải ‘khắc khẩu’ con đau đầu lắm!" Đông rất chu đáo, cậu dành thì giờ chỉ dẫn cách sử dụng cho hai "học viên già" vào những buổi tối riêng biệt. Trong khi bố cậu có thú vui chơi game, đọc báo online, mẹ cậu trở về thời xưa, viết văn làm thơ, và tán gẩu với bạn bè khắp năm châu bốn bể. Đông cảm thấy hài lòng lắm vì từ đó ông bà ít có thời giờ ngồi chung với nhau nên ít cãi cọ những chuyện cậu cho là lẩm cẩm nhưng hai ông bà lại bảo cần phải thảo luận “ra ngô ra khoai.”
Hôm ấy Đông đi làm về, tay ôm bó hoa, tay cầm hộp quà trang sức. Cậu bước vào nhà, thấy mẹ đang ngồi chăm chú ở bàn computer, định nói ngay câu chúc mừng Mother’s Day cùng mẹ nhưng Hồng đã nói trước, mắt vẫn chăm chú nhìn màn ảnh máy vi tính:
- Này con, cô Ngọc bạn học chung trường ngày xưa của mẹ vừa viết email cho mẹ…
Nói tới đây Hồng ngước mắt lên, ngưng lại, nhìn cậu con trai của mình và mắng yêu:
-Lần nào cũng hoa với trang sức. Mẹ có nhiều lắm rồi, đừng mua nữa. Mẹ cất đây, để dành cho con tặng bạn gái của con.
- Đây là quà của Mom. Happy Mother’s Day, Mommy.
Hồng xúc động, ôm lấy con:
- Cám ơn con, đứa con hiếu thảo của mẹ.
- Bạn của Mom gởi tin tức vui cho Mom, phải không?
- Đúng rồi. Bạn mẹ cho biết bên Việt Nam tổ chức kỷ niệm 50 năm Ngày Thành Lập Viện Hán Học Huế, rủ mẹ về tham dự, sẵn dịp thăm ông bà ngoại luôn thể.
- Hay quá! Vậy Mom và Dad dùng một mũi tên giết ba con chim: thăm ông bà ngoại, gặp bạn bè, rồi đi chơi luôn để làm Lễ Vàng, Lễ Bạc, Lễ Kim Cương gì đó ... hay là kỷ niệm Wedding Day.
- Tối ngày cứ chọc mẹ hoài, cái thằng...
- Cái Thằng Quỷ Nhỏ đáng... “ghét” của mẹ, phải không? Đông cướp lời, lập lại câu mắng yêu của Hồng mỗi khi cậu ta làm điều gì khiến nàng xúc động. Hồng trìu mến nhìn con trai và nói:
- Bố con đã thề khi nào còn Việt Cộng cai trị Việt Nam, ổng không về. Chắc Mẹ phải về một mình.
- No problem, con biết Mom khỏe mạnh lắm, không cần người giúp đỡ đâu. Mom muốn đi ngày nào con mua vé máy bay cho Mom. Còn Daddy ở lại một mình, tối tối con dẫn đi Café... mát mẻ.
Nghe con nói đùa như vậy, Hồng phì cười, đáp:
- Bố con mi muốn làm gì thì làm, chỉ e bố mi hết xí quách thôi.
- Chưa chắc đâu Mom, Daddy đóng kịch đó.
Hồng cảm thấy mình hạnh phúc, có nhiều niềm vui với đứa con này vì nó có tính hài hước và hay chuyện trò cùng nàng, chỉ có mỗi cái tội là tiếng Việt nó chỉ biết lõm bõm mà thôi. Do đó không mấy khi Đông dòm ngó tới những "tác phẩm" thơ văn của nàng. Đó là lỗi của nàng vì lúc Đông còn nhỏ nàng phải vất vả trăm đường để ổn định đời sống và lo ăn học cho ba đứa con, không có thì giờ nghỉ ngơi làm sao mà dạy nó học Tiếng Việt. Đến khi nàng rảnh rổi nó lại bù đầu ở Đại Học nên không có thì giờ cho Tiếng Việt. Bây giờ nó bận làm việc và tán gái nên... thôi thì tùy nó. Đông là một đứa con hiếu thảo, Hồng cảm thấy mình thật có phước, chắc nhờ nàng nuôi nấng nó bằng tình thương và không bao giờ nghĩ mình "xúc tép nuôi cò."
2.
Thế rồi Hồng trở về quê hương nơi có “chùm khế ngọt lẫn khế chua.” Đầu tiên Hồng liên lạc với Ngọc ở Bình Dương. Hai người hẹn cùng nhau đến nơi họp mặt. Có lẽ Ngọc nôn nóng hơn Hồng nên trời còn sớm Ngọc đã có mặt ở nhà Hồng rồi. Ngồi vào taxi, Ngọc nói ngay:
- Mấy bạn trong Ban Tổ Chức cho biết có anh Hai Công Đức đi dự nữa.
- Ủa, mình nghe tin đồn ảnh bị pháo kích chết hồi Tết Mậu Thân rồi mà.
- Ừ, mình cũng nghe như vậy, không biết tại sao có tin đồn ác ôn quá. Chút nữa gặp ảnh hỏi cho biết. Chị Hai sao không về?
- Chỉ bị lãng trí rồi, làm sao các con chị dám cho đi?
Hai người bắt qua hỏi thăm gia cảnh của nhau, rồi liên miên kể những chuyện của ngày xưa thân ái. Lúc xuống xe, bạn bè túa ra tay bắt mặt mừng, nói cười rôm rả. Nước mắt hội ngộ còn đọng trên mi của một vài bạn nữ đa cảm, anh Hai chợt bước tới siết chặt tay Ngọc và Hồng. Nhìn dáo dác, anh hỏi:
- Chị Hai các em đâu, có về họp kỳ này không?
Hồng dí dỏm đáp:
-Chị Hai Lớn kẹt, không về họp được. Có Chị Hai Nhỏ ở đây không, cho em chào chị một tiếng.
Anh cú nhẹ đầu nàng, thân mật nói:
- Con nhỏ này thiệt là... Ngày xưa mỗi lần gặp mặt các em, anh sợ lắm, biết không? Bây giờ các em vẫn làm anh tiếp tục sợ. Bà xã anh hôm nay kẹt việc gia đình, không đi với anh được.
Ngọc trêu:
- Chứ không phải anh buộc chị Hai Nhỏ ở nhà để anh đi gặp chị Hai Lớn?
- Lại nói tầm bậy nữa...
Hồng tiếp:
- "Tầm phải" chứ tầm bậy gì mà bậy. Anh nè, anh còn sống nhăn răng mà có tin đồn ác độc là anh đã "đoàn tụ với tổ tiên" vào Tết Mậu Thân.
- Tin đồn cũng khá chính xác đó em. Anh bị thương suýt chết. Nhờ bác sĩ người Mỹ cao tay nghề, thuốc men dồi dào mới còn đứng nói chuyện hôm nay. Nếu không, anh tiêu diêu miền cực lạc từ năm đó rồi.
Thấy các bạn còn đang tay bắt mặt mừng ồn ào nhộn nhịp, anh khều Hồng ra góc vườn hỏi:
- Chị Hai của em lúc này ra sao? Sao không về họp mặt vậy?
Hồng nhìn anh ngập ngừng, xuống giọng;
- Chuyện không được vui lắm. Để sau buổi họp em kể cho anh biết. Nói ra bây giờ mất vui của ngày Họp Mặt đi.
- Em không nói ra càng làm anh hồi hộp, càng làm anh mất vui. Anh năn nỉ em, nói đi.
Nghe anh nói vậy, Hồng mới kể:
-Tháng 3 năm 1975, chị theo đoàn người di tản bằng đường bộ từ Cao Nguyên về Nha Trang, cận kề cái chết nhiều lần, và mất hết của cải, tài sản. Chị khủng hoảng tinh thần, ngơ ngơ ngẩn ngẩn trong một thời gian. Tiếp theo đó chồng đi tù cải tạo. Không hiểu sao, chắc nhờ phước đức Ông Bà, chị đứng lên, vượt qua được cơn khủng hoảng đó. Một mình chị bươn chải nuôi sáu đứa con và chồng trong tù, sau đó chị còn lo cho chồng vượt biên. Em gặp chị trong giai đoạn này và "phe phẩy" chung với chị. Chị giỏi lắm, em không bằng một góc. Chị là hình ảnh bà Tú Xương tân thời. Chị chạy giấy tờ và được đi đoàn tụ trước em hai năm. Mấy năm gần đây chị bị Alzheimer, trí nhớ mất lần lần. Bây giờ chị không còn nhận ra em nữa, nhưng chị vẫn nhớ một điều...
Hồng ngưng lại, hít một hơi dài để đè nén cảm xúc mình, rồi nàng kể tiếp:
-Anh à, thỉnh thoảng chị dặn con cái: “Nhắc má đầu tháng đưa tiền cho anh Hai, đừng để má đưa sớm hơn.” Chị là người con lớn nhất trong gia đình. Các em của chị gọi vợ chồng chị là Anh Hai, Chị Hai nên các con chị tưởng mẹ dặn đưa tiền cho cha của chúng, chỉ có mình em là hiểu đúng ý chị thôi.
Nghe đến đây anh từ từ ngồi xuống bên gốc cây, gương mặt buồn rười rượi, mắt nhìn xa xăm. Tiếng reo vui rôm rả của bạn bè bên tai Hồng, đột nhiên xa vắng như vọng lại từ một quá khứ thân yêu của một thời hoa mộng. Nàng nhìn anh, im lặng... Trong lúc này lời an ủi nào cũng thừa thải mà thôi!
Hồng còn đang tư lự bỗng thấy anh Văn tiến lại phía hai người, nàng liền bước về hướng Văn, để yên cho anh Hai sống lại với quá khứ của mình.
Khi đối diện Hồng, Văn thoáng chút lúng túng song anh trấn tỉnh lại ngay. Hồng bắt tay Văn, anh siết chặt bàn tay nàng lâu hơn bình thường khiến nàng cảm thấy anh dành cho nàng một tình cảm đặc biệt. Anh mỉm cười lên tiếng:
- Chào Hồng, gần nửa thế kỷ qua mà mình còn có cơ duyên gặp lại hôm nay. Đúng là ơn Trời Phật.
Hồng đon đả nói đùa:
- Dân Huế mà mần răng trôi dạt vào Nam như ri? Ngày xưa tôi ăn gạo của Huế chỉ có 5 năm thôi mà khi ra về nhớ ơi là nhớ, nhớ những cơn mưa Huế dai dẳng tối trời thúi đất, nhớ những lâu đài, lăng tẩm, nhớ ngôi trường của chúng ta soi bóng bên dòng sông Bến Ngự, nhớ Cầu Trường Tiền "sáu vài mười hai nhịp, anh theo không kịp tội lắm o ơi," nhớ cơm Âm Phủ, bánh bèo Vĩ Dạ, bánh khoái Đông Ba, nhớ núi...
Nghe đến đây, Văn ngắt lời nàng:
- Hồng còn nhớ con đường với hai hàng cây to rậm từ ngôi trường của chúng ta lúc còn tọa lạc tại Đại Nội dẫn tới nhà trọ của Hồng gần cửa Đông Ba không? Mùa hè cây cho bóng râm mát rượi, lúc mưa ôi chao âm u dễ sợ! Tôi thì không thể quên con đường đó. Nhờ nó mà tôi lấy hứng làm bài thơ Chiều Mưa đem tặng người mình yêu mà bị "người ta" chê không nhận. Bây giờ bài thơ này đã được phổ nhạc, chốc nữa tôi tặng Hồng một CD nhạc có bài thơ này. Hi vọng nó không quá vô duyên để bị từ chối một lần nữa.
Hồng mỉm cười nói đùa:
- Mưa trong Nam khác mưa ngoài Huế. Mưa Sài Gòn đến đột ngột, đổ xuống ào ào, rồi vụt tắt bất ngờ cho nên người trong Nam giận hờn đùng đùng nhưng không lâu, buồn khóc ào ào nhưng không kéo dài. Kỳ này thơ nhạc của anh sẽ được nồng nhiệt đón nhận nhưng e không được giữ lâu trong tâm trí người nghe.
Văn đáp lại không kém bóng gió:
- Mưa xứ Huể rả rích dai dẳng kéo dài ngày này qua ngày nọ không dứt, nên tình người xứ Huế cũng tha thiết dai dẳng không ngừng.
- Lại nói "linh tinh" nữa rồi!
- Thật mà. Hình ảnh của Hồng e ấp đi bên cạnh làm tôi nhớ mãi mỗi khi mưa rơi.
Hồng nói chận:
- Cô Hồng đó đã chết rồi, bây giờ chỉ còn bà Hồng chằn lửa thôi, khó ưa lắm.
- Với tôi, Hồng nào cũng chỉ là Hồng e ấp đi bên cạnh một chiều mưa mà thôi.
- Anh ơi, già rồi lại sống trong Nam mà vẫn giữ cái ướt át của mưa Huế, không sợ con cháu cười cho hay sao.
- Chúng nó không cười tôi mô. Chính con trai tôi đọc mấy vần thơ tình của tôi, hiểu và thông cảm cha nó nên đã thúc giục tôi tham gia cùng các bạn tổ chức buổi Họp Mặt này.
Ngừng một lúc, Văn nói tiếp:
- Vì Hồng đó.
- Ui chao, coi bộ cha con anh giống nhau chi lạ! Nó cũng ướt át như mưa Huế. Nó mà gặp con gái tôi chỉ có từ chết tới bị thương mà thôi.
Cuộc đối thoại của hai người đến đây thì bị cắt ngang bởi anh Trưởng Ban Tổ Chức mời mọi người vào phòng hội. Văn vội lấy dĩa CD thơ phổ nhạc của mình trao cho Hồng rồi cả hai đi vào. Đến cửa, Hồng được các bạn gái xúm lại lôi đi ngồi chung một đám để tiện "đấu láo" cho vui. Văn tần ngần nhìn theo một lúc, thở dài, lẳng lặng lên sân khấu cùng Ban Tổ Chức làm lễ khai mạc và điều hành buổi lễ.
Sau màn diễn văn khai mạc, lễ truy điệu thầy và bạn quá vãng, là màn ca hát và kể chuyện ngày xưa thân ái. Mọi người đua nhau lên sân khấu nhắc những việc mà ngày xưa họ giấu kín bây giờ mới dám hé môi. Trong không khí rộn ràng tiếng cười nói của mọi người có hai chàng "vui là vui gượng kẻo mà…" Đó là Văn và anh Hai Công Đức. Buồn và Vui là hai mặt không rời của tình yêu!
Hồng đang cảm thương hai người đồng môn lỡ ôm mối tình câm để bây giờ ngồi... tiếc và nhớ thì Hoàng đến bên nàng chào hỏi. Hoàng học cùng lớp với Hồng được bốn năm, anh bỏ ngang vì thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Hoàng có tư tưởng khuynh tả, gặp Kim và tham gia trong phong trào sinh viên chống Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Anh được Kim kết nạp vào Đảng Cộng Sản và hoạt động trong giới sinh viên học sinh của Sài Gòn năm xưa.
- Chào cô Hồng, mấy mươi năm mới gặp lại, vẫn nhìn ra được cô Hồng ngày trước. Cám ơn các bạn không chê tôi là người "bán đồ nhi phế" (nửa đường bỏ cuộc) đã cho tôi tham dự buổi Đoàn Viên này.
Hồng nói đùa nhưng giọng nàng vẫn đượm mỉa mai:
- Không dám, ai dám không cho "quan nhớn Cách Mạng” tham dự?
- Thôi mà, đừng mỉa mai tôi nữa. Tôi bị “vắt chanh bỏ vỏ” và đã sáng mắt sáng lòng lâu rồi. Có người muốn gặp cô Hồng, nhờ tôi chuyển lời xin phép nếu cô không chê.
- Tôi thuộc loại mà "công dân hạng hai" cũng không được xếp vào, làm sao dám chê ai.
- Chắc cô Hồng không quên cô Kim. Cô Kim tìm cô lâu lắm rồi, biết tôi đi dự buổi Hội Ngộ đồng môn này nên nhờ tôi xin số điện thoại của cô giùm.
Nghe tin bạn tìm kiếm mình từ lâu, cơn giận năm xưa theo thời gian đã giảm, giờ giảm thêm, Hồng không ngần ngại cho số điện thoại và địa chỉ nhà cha mẹ nàng.
Tiệc nào mà không tàn, cuộc vui nào không kết thúc, nhưng nó mở ra một hứa hẹn gắn bó. Mọi người ra về vui vẻ, nắm trong tay một danh sách của bạn bè cũ với địa chỉ, số điện thoại, và tíu tít hẹn gặp lại nhau.
3.
Hồng những tưởng khi gặp lại Kim nàng sẽ tiếp bạn với thái độ khách sáo như một người lạ, nhưng khi nhìn thấy mặt bạn, nàng lại mừng rối rít. Sau khi thăm hỏi nhau về sức khỏe, con cái, cuộc sống hiện tại, Hồng châm ngòi:
- Sau 30 - 4 - 75, mình chờ bạn mãi mà bạn bặt vô âm tín. Bạn ngại có người bạn là vợ của "ngụy quân" sẽ mất uy tín, ngăn trở con đường công danh của bạn chứ gì?
- Hồng đừng nói vậy. Đứa em trai của mình là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa hi sinh tại Đà Nẵng. Đứa em gái kế nghe lời mình đi vào bưng và chết trận. Má của mình buồn, trách mình dữ lắm. Riêng mình sau ngày Giải Phóng bị làm kiểm điểm suốt gần nửa năm vì “tội địa chủ." Chúng nó muốn loại trừ mình.
Không hiểu sao Hồng lại châm thêm:
- Ngày nào chửi Tổng Thống Thiệu làm tay sai bán nước, nhưng Việt Nam chưa mất một centimeter vuông đất nào cả. Bây giờ mất Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Cao Nguyên Trung Phần, rừng dọc 6 tỉnh biên giới Miền Bắc cho anh em Bốn Tốt Mười Sáu Chữ Vàng. Có “công” của bạn góp vào đó, dù là gián tiếp.
Thấy bạn ngồi im lặng không trả lời, mặt đượm buồn, Hồng chạnh lòng nói tiếp:
- Thôi bỏ qua chuyện chính trị đi, mất thì giờ của bọn mình mà không giải quyết được gì cả. Nói chuyện tình cảm chơi. Bây giờ mình kể chuyện tình của mình trước nghen.
Hồng kể sơ qua chuyện chồng con của mình xong kết luận: “Trời cho thêm một đứa con không phải mang nặng đẻ đau mà có hiếu. Thế là được lắm rồi. Ông Trời không cho ai trọn vẹn cả, được cái này thì mất cái kia. Đòi hỏi một sự tuyệt đối chỉ làm mình thêm khổ mà thôi.”
Trầm ngâm một lúc, Kim tâm sự:
- Kể cho Hồng nghe chuyện tình mình giấu kỹ bấy lâu để Hồng thông cảm mình hơn nữa. Hồi mới chân ướt chân ráo bước vào đại học Văn Khoa Sài Gòn, mình quen anh Ân, được anh hướng dẫn giúp đỡ bước đầu. Lâu ngày hai đứa yêu nhau. Mình giấu chuyện hoạt động chính trị của mình nhưng anh rất tinh tế. Qua những lần nói chuyện và những hoạt động nổi của mình trong phong trào sinh viên, anh biết mình là ai, làm gì nhưng anh không hề hỏi mình.
Anh là một người trẻ có tinh thần yêu nước cao, nhưng khác quan điểm chính trị với mình. Sau đó, anh tình nguyện vào trường Võ Bị Đà Lạt làm mình rất thất vọng vì với tình yêu mà không lôi kéo anh theo mình được. Thời gian đó mình đau khổ vì biết sẽ mất nhau. Thư từ viết cho anh cũng tự mình hạn chế vì muốn giữ an toàn cho nhau. Yêu mà không nói được, không gần được, ngay cả gặp mặt cũng không dám, đau khổ biết chừng nào! Các anh chị trong Tổ Chức của mình lúc đó khuyên nên dứt khoát chọn một trong hai: tình yêu hay lý tưởng. Mình đã mê muội vì lý thuyết Mác vạch ra một xã hội đẹp tuyệt vời. Mình chọn lý tưởng, vứt bỏ tình yêu vì muốn xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, người người hạnh phúc, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Hồng chận bạn lại, hỏi:
- Xin lỗi, bạn cho hỏi một câu trước khi kể tiếp. Các đồng chí của bạn không khuyến khích bạn nằm vùng trong lòng địch để làm điệp viên thu lượm tin tức hay sao?
- Phải nói công bằng là không ai đưa ý kiến như vậy. Riêng mình quan niệm tình yêu phải tuyệt đối chân thành, không nên gian dối. Thà mất người mình yêu mà trong lòng người ấy vẫn còn có mình. Thế là mình chia tay và tìm cách lánh mặt ảnh. Anh ấy tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt xong, đi hành quân nơi xa liên miên. Chúng mình bặt tin nhau mất mấy năm.
Sau đó có lần Tổ Chức bị động ổ nên mình phải vào chiến khu lánh nạn. Nơi đây, mọi người phải tham gia lao động tay chân để có rau, gạo, mắm muối mà ăn. Thời gian này thật khổ cho thân xác mình. Mình gầy giơ xương, đen đúa thảm hại. Một hôm Tổ Chức cho về thành để công tác. Đang đi ngang Học Viện Quốc Gia Âm Nhạc thì gặp anh Ân, mình lật đật chạy trốn. Anh thấy và đuổi theo. Không thoát được, đành phải đối diện với nhau. Anh Ân nhìn mình bằng ánh mắt xót xa, và chắc lưỡi không ngừng làm tim mình nhói đau.
Kim ngưng nói, nén xúc động, rồi tiếp tục kể:
- Anh khuyên mình, trong đó có một câu làm mình nhớ hoài, nhớ suốt đời. Mỗi lần nhớ tới mình lại khóc. Anh bảo: "Em có lý tưởng của em. Em cứ theo, anh không khuyên em bỏ. Có một điều anh cần khuyên em là: Em nên thương thân mình một chút."
Kim nói xong khóc thút thít và than thở:
-Một người yêu mình như thế mà mình không lấy, đi lấy một người làm chồng bây giờ cặp với một người con gái khác trẻ hơn, đẹp hơn. Không biết mình có ngu lắm không?
Nghĩ tới hoàn cảnh mình, Hồng cay đắng trả lời:
-"Tóc mai sợi vắn sợi dài,
Kết duyên không đặng, thương hoài ngàn năm," (Ca dao)
Và nàng thêm hai câu:
-Kết duyên rồi, anh Bắc em Nam,
Anh ngang em ngược, càm ràm lẫn nhau.
Thói đời là vậy, bạn ơi! Bây giờ anh Ân đâu rồi? Anh có bị "Em" cho vào Trại Cải Tạo không?
- Có, "học tập" cũng bảy tám năm. Mình có đến nhà của cha mẹ anh, được hàng xóm cho biết cả nhà vượt biên lâu rồi. Nhà đó bị tịch thâu, cấp cho cán bộ người Bắc. Còn anh ra tù, cũng vượt biên, không biết sống chết ra sao. Mình biết anh vượt biên vì trước khi đi, anh có gởi một lá thư cho mình chỉ vỏn vẹn bài thơ Dặn Dò của tác giả Hải Vân, thay cho lời từ giã. Mình đã đọc đi đọc lại đến thuộc lòng và cũng chảy nhiều nước mắt:
Dặn Dò
Chim trời giờ cánh gãy,
Mộng ước theo gió mây,
Tàn đời trong ngục tối.
Ai chặt anh chân tay?
Ai tước anh tuổi trẻ?
Ai đoạt tương lai này?
Anh còn làm gì được,
Sự nghiệp một đời trai!!!
*
Ra đi chín phần chết,
Ở lại bị đọa đày.
"Hà chính mãnh ư hổ"
Lời xưa em có hay?
May ra anh thoát được,
Hẹn ngày về đẹp tươi.
Nếu không may biển gọi,
Xin đừng khóc em ơi!
*
Quê hương ta còn đó,
Anh cầu mong ngày mai
Có cơ duyên thay đổi,
Em góp sức dựng xây.
Khi không còn bóng tối
Ngự trị đất nước này,
Hồn anh sẽ thanh thản,
Nhìn em mỉm miệng cười,
Em yêu ơi!
Kim ngừng kể, cố nén xúc động. Cảm thương bạn, bao nhiêu hờn giận trong lòng Hồng tiêu tan hết. Trong chiến tranh, tuổi trẻ Việt Nam chịu nhiều cay đắng chẳng những trong đời sống mà trong cả tình yêu. Đó là chưa kể đến sinh mạng con người. Nếu không có chiến tranh, cuộc đời của Ân và Kim, Quang và Hồng chắc chắn đã khác, chắc chắn không có nước mắt như bây giờ.
Ngập ngừng một lúc, Kim hỏi:
- Khi về Mỹ, Hồng tìm tin tức anh Ân giùm mình được không?
- Được chứ nhưng tìm được tin tức hay không là chuyện khác. Kim cho tên tuổi, khóa mấy Võ Bị Đà Lạt, mình sẽ ráng tìm giúp cho nhưng không hứa chắc là thành công nghen.
- Tận sức là được, thành công hay không còn tùy thuộc số Trời. Mình muốn biết tin anh ấy để yên ổn tâm hồn. Nếu anh ấy an lành thì mừng cho ảnh và nhẹ lòng cho mình. Ngược lại, Hồng hỏi ngày tháng mất để mình thắp nhang cho ảnh.
Nghe bạn nói vậy lòng Hồng chùng xuống, nàng đùa để cho không khí đỡ buồn bã:
- Chu choa ơi, Cộng sản mà cũng tin số Trời và thắp nhang nữa. “ Đồng chí” có tư tưởng lệch lạc, cho “đồng chí” đi cải tạo tư tường bây giờ.
- Mình là người Việt Nam mà, nên phải theo tín ngưỡng, văn hóa nước Việt chứ.
Cầm mảnh giấy ghi tên họ Ân do Kim trao, Hồng nói thầm: Tại sao mình tìm tin tức của Ân cho Kim mà không tìm tin tức của Quang cho chính mình nhỉ. Mò kim đáy biển cũng phải mò!
4.
Về lại Mỹ, Hồng vào các mạng lưới thông tin, hội Ái Hữu của Không Quân và Võ Bị Đà Lạt để kiếm tin tức của Quang và Ân mà loay hoay hoài vẫn không thành công. Nàng nhờ Đông:
- Này con, giúp mẹ một chút. Mẹ theo lời chỉ dẫn của con mà không làm cách nào đăng lời nhắn tìm người.
- Bạn bè của Mom có nhiều bác lấy chồng lính. Mom hỏi xem, có thể Mom sẽ được tin mau hơn.
Hồng cười thầm: ừ nhỉ, chuyện đơn giản như vậy mà mình làm chi rắc rối mấy ngày nay. Già lẩm cẩm thật! Nàng lật sổ tìm số điện thoại bạn bè kể sơ sự tình của Kim và nhờ tìm giúp. Ngày hôm sau nàng có được hai nguồn tin đều giống nhau, một nguồn kể chi tiết hơn. Người bạn cùng khóa với Ân cho biết vợ con của anh vượt biên trước và định cư ở Úc. Khi anh ra tù, vợ anh gởi tiền cho anh vượt biên cùng với đứa cháu gái. Trên biển, ghe gặp hải tặc. Anh không chịu nỗi khi nghe tiếng la khóc hãi hùng của đứa cháu nên kháng cự lại bọn chúng. Anh bị chúng đánh vỡ đầu và quăng xuống biển. Đứa cháu đó cũng bị quăng xuống biển cùng với các cô gái khác, sau khi bọn hải tặc thỏa mãn thú tính. Cướp bóc xong, chúng phá hỏng ghe, rồi bỏ đi. Chuyến đi ấy, chỉ có vài người may mắn sống sót nhờ một tàu hàng hải Na Uy vớt.
Hồng được tin mà nghe nhói trong tim. Ai gây ra cảnh thảm khốc này cho dân tộc Việt Nam? Cô bạn Kim “nằm vùng” của nàng cũng phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết thảm khốc của người yêu mình, ắt hẳn khi nghe tin sẽ đau lòng gấp bội. Nàng không đành xoáy sâu nỗi đau của bạn, nên chỉ thông báo rằng Ân chết vì ghe bị bão đánh chìm, chỉ một vài người may mắn bám vào mảnh vụn của ghe mới sống còn. Nghe tiếng khóc tức tưởi của bạn trong điện thoại Hồng không khỏi ứa nước mắt.
Hồng tiếp tục lên mạng để cầu may tìm được tin tức của Quang, hoặc hình ảnh của Quang trong những buổi Đại Hội của các Hội Đoàn Không Quân. Trong khi tìm kiếm, nàng bắt gặp một trang mạng của tỉnh Châu Đốc đang kêu gọi đồng hương đóng góp bài vở cho mùa Xuân sắp tới. Nàng nghĩ tới Phương và thầm nghĩ không biết bây giờ bạn đang ở nơi nào trên xứ Úc, liền viết một tin nhắn tìm Phương gởi đến Ban Biên Tập nhờ đưa lên mạng, hi vọng mong manh rằng Phương tìm đọc và cho tin. Khoảng mười ngày sau...
- Reng... reng... reng...
Nhấc điện thoại lên vừa trả lời "Hello tôi là Hồng đang nghe phôn," Hồng nghe đầu dây bên kia giới thiệu:
- Em là học trò cũ của cô. Em biết số phôn và địa chỉ của cô nhờ cô nhắn tin tìm cô Phương trên web Châu Đốc. Em may mắn gặp lại cô Phương khoảng nửa năm nay. Nếu cô đang rảnh rang, em sẽ tới nhà cô trong vòng mười lăm phút nữa.
- Mừng quá, mời em tới, cô chờ.
Mười lăm phút sau, một người đàn ông tròm trèm lục tuần, tóc lốm đốm bạc đến. Ông ta nhìn nàng một lúc rồi nói:
- Chắc cô không nhớ em. Em là Điền...
- Ồ, cô nhớ rồi. Nguyễn Phúc Điền Trưởng Lớp ngày xưa đây mà. Em bây giờ khác quá cô nhìn không ra. Xin lỗi em nghen.
Hồng nắm tay Điền dẫn vào nhà, miệng hỏi huyên thiên:
- Hiện giờ em ở đâu? Làm nghề gì? Vợ con thế nào? Gặp cô Phương ở đâu, trong trường hợp nào?
- Em sẽ từ từ kể hết cho cô nghe. Hiện em ở Florida, nhân tiện qua đây dự đám cưới con của một người bạn, em tìm thăm cô luôn thể. Cách đây nửa năm em có về thăm quê, tình cờ gặp cô Phương đi dự Lễ Vía Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc. Hai thầy trò gặp nhau mừng vui lắm. Cô Phương hỏi về cô nhưng em nào có biết cô ở đâu. Em có mang theo địa chỉ và số điện thoại của cô Phương đây. Hiện cô Phương ở Mỹ Tho.
Hồng nói:
- Vậy mà cô cứ tưởng cô Phương định cư bên Úc chứ!
- Cô Phương có kể cô ấy đi du lịch Úc châu, ở chơi sáu tháng, rồi về. Tới bây giờ cô Phương vẫn không chồng con gì cả. Không biết vì sao, em đâu dám hỏi. Ngày xưa cô Phương có nhiều người đeo đuổi lắm mà!
- Nguyệt Lão không xe sợi tơ hồng với người mình yêu thì cũng không thành. Cô Phương yêu một anh sĩ quan xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nhưng gia đình hai bên không hài lòng, làm khó dễ cuộc hôn nhân. Tin cuối cùng mà cô được biết là ông sĩ quan đó ngồi tù cải tạo ngoài Bắc, bao nhiêu năm cô không biết, có toàn mạng cho đến khi được thả ra hay bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc Miền Bắc, cô cũng không biết. Tội nghiệp cô Phương, lỡ dở một đời!
Điền ngồi yên một lúc, tiếp:
- Em cấp bực thấp nên ngồi tù trong Nam. Mới Thiếu Úy thôi mà cũng mất 5 năm.
- Em đi binh chủng nào?
- Em là "Giặc Lái" cô ơi! Sau khi xong Tú Tài II em gia nhập Không Quân. Hồi em học đệ nhất, em yêu Thúy Hải. Cổ đâu có chịu, nhưng khi em vào Không Quân thì "mê" em liền. Hi hi hi! Sau khi ra tù cải tạo chúng em mới làm đám cưới. Vợ em cũng là học trò của cô, học sau em hai lớp, làm Phó Trưởng Lớp mấy năm liền, cô còn nhớ không?
- Nhớ rồi. Thúy Hải có mái tóc giống cô.
- Hồi đó, cô để tóc ngắn, úp vào gáy, mái tóc hai bên cong cong ôm lấy hai má, giống như tóc ca sĩ Phương Hoài Tâm. Cô và cô Phương là thần tượng của một số nữ sinh nên nhiều nàng để tóc giống cô hoặc để tóc dài cột đuôi cao lên như cô Phương. Em chạy theo "cua" Thúy Hải không chỉ vì mái tóc giống cô, mà nàng còn có cặp mắt và nụ cười y như cô. Bây giờ cô không giữ kiểu tóc cũ nữa, nhưng vợ em vẫn còn giữ vì cả hai đứa chúng em thích như vậy.
Hồng cười nói:
- Giống ai không giống, giống cô làm chi, không khá được. Mấy bài trích giảng từ quyển Đời Phi Công có tác dụng mạnh dữ! Hèn chi bọn Việt Công gọi mấy nhà văn nhà thơ là lính "Biệt Kích Văn Hóa." Em mê binh chủng này cũng vì mấy bài đó, phải không? Em không theo học các ngành khác mà gia nhập Không Quân rồi vì thế mà bị ở tù. Em có ân hận gì không?
Điền ngập ngừng một lúc, rồi trả lời:
- Cô cho phép em mới dám nói thật lòng mình.
- Nói đi. Giờ đâu còn là thầy trò nữa. Chúng ta cứ coi nhau như hai người bạn vong niên, nói chuyện chân thật với nhau cho vui. Em cũng già rồi, tóc bạc thấy rõ còn gì.
- Em vào Không Quân không phải vì những bài cô trích trong quyển Đời Phi Công đâu, mà vì cô yêu phi công nên em yêu luôn binh chủng này. Em không ân hận vì sự chọn lựa này của em. Khi ra trường, em được điều đến đơn vị của Trung Tá Phi Đoàn Trưởng Bùi Thanh Quang…
Nói tới đây, Điền ngưng lại nhìn vào mắt Hồng xem phản ứng. Nàng xúc động hỏi:
- Em có biết ông ấy bây giờ ra sao không?
- Em về Phi Đoàn của ông Thầy Quang không bao lâu thì mất nước, mỗi người bị nhốt tù hai nơi khác nhau. Em không gặp lại ông Thầy em, mãi đến mấy năm sau này, binh chủng Không Quân tổ chức những lần Đại Hội em mới gặp lại. Được biết vợ ông vượt biên, bỏ lại hai đứa con, và chết trên biển trong khi ông còn đếm lịch ở Miền Bắc. Sau này ông đi Mỹ theo chương trình HO, mang hai đứa con qua đây, làm gà trống nuôi con.
Hiện giờ các con của ông có chồng vợ, ra riêng hết. Ông Thầy em cô đơn nên sống "già nhân ngãi, non vợ chồng" với một bà cũng góa bụa. Khi biết em là dân Châu Đốc, ông thường liên lạc với em và hỏi thăm cô. Lúc bấy giờ em mới biết ông Thầy mình là người yêu cũ của cô mình, biết vì sao cô có cặp mắt buồn vời vợi, bây giờ vẫn vời vợi buồn, và biết động lực nào khiến cô giảng rất truyền cảm những bài trích trong Đời Phi Công. Em đã nhờ mấy đứa bạn còn ở lại quê nhà tìm cô. Thất bại. Hỏi mấy đứa bên này. Không ai biết. Em những tưởng suốt đời này không được gặp lại cô!
Điền ngưng lại khi thấy mắt Hồng rướm lệ. Hồng nuốt ngược nước mắt, hỏi:
- Bây giờ ông ấy ở đâu? Có gần em không?
- Ông Thầy ở xa em mà gần cô. Ông hay mắng đùa em mỗi khi em báo tin không tìm được tông tích của cô: "Học trò vô tình vô nghĩa, không quan tâm thường xuyên tới cô giáo của mình để đến nỗi bặt vô âm tín. Nếu còn như ngày xưa là tao cho mi đi bay mệt... không được nghỉ." Mới đây em vào mạng lưới quê nhà, thấy cô đăng tin tìm cô Phương. Em vội vàng cho ông biết. Ông đốc thúc em đi thăm cô, về kể lại cho ông nghe. Ông nhờ em mang đến cho cô một CD nhạc làm quà đây.
Nghe Điền nói, Hồng ngồi lặng im, mắt thẩn thờ ngó mông lung. Một cuộc hội ngộ bất ngờ, vui ít buồn nhiều! Nhìn thấy Hồng như vậy, Điền ngần ngại một lúc rồi đứng lên từ giã ra về. Anh đưa ra ba gói quà cho Hồng, nói tiếp:
- Một kí lô khô là quà của vợ em biếu cô. CD này là quà của ông Thầy em, bảo phải đưa tận tay cô. Còn đây quà của em: chiếc máy bay bằng gỗ do chính tay em làm trong lúc ngồi tù. Em đã tận dụng thì giờ nghỉ ngơi để làm ra nó với hi vọng mong manh một ngày nào đó gặp lại cô mà trao tặng, chắc cô sẽ thích lắm.
Cầm ba món quà ân tình, Hồng nghẹn ngào cám ơn. Điền vội vã cáo từ, bước nhanh ra cửa. Hồng ngắm nghía chiếc máy bay gỗ vừa nhỏ gọn vừa tinh xảo được chùi mài bóng loáng. Trên thân máy bay có hàng chữ "Để nhớ mãi ngôi trường Thủ Khoa Nghĩa. Điền”
Hồng vào phòng đóng cửa, cho dĩa CD vào máy. Tiếng đàn đệm guitar và giọng trầm buồn của Quang vang lên làm nàng đau nhói theo từng câu ca lời nhạc:
"Anh còn nợ em công viên ghế đá, lá đổ chiều êm.
"Anh còn nợ em dòng xưa bến cũ, con sông êm đềm.
"Anh còn nợ em chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm.
"Anh còn nợ em nụ hôn vội vàng, nắng chói qua thềm.
"Anh còn nợ em con tim bối rối, con tim bối rối.
"Anh còn nợ em và còn nợ em cuộc tình đã lỡ.
"Anh còn nợ em, Anh còn nợ em...
(Nhạc và lời: Anh Bằng)
Anh trải lòng mình qua tiếng nhạc lời ca và nàng lệ đẫm ướt mi theo tiếng lòng của anh.
(Cali, Mùa Thu 2013)
Sân trường Trung Học Gia Long
Phụ Lục
Tóc Mai
Tặng vhp.Hạ Vũ
Tóc mai thuở ấy chưa dài
Tóc thề ngày đó chưa ai để thề.
Tuổi mộng cất giấu cơn mê
Trong trang sách cũ đi về bỏ quên.
Tiếng lòng trở giấc nửa đêm
Vô thanh oà vỡ ngoài thềm mưa rơi.
Tưởng đâu hiện hữu với đời
Lại như chiếc bóng đơn côi lạc loài.
Người đi quên kẻ thiệt thòi
Ngây ngô khờ dại miệt mài dệt thơ.
Rượu say ru kiếp mơ hồ
Tình say phá vỡ cơ đồ mộng du.
Cho ta kiếp sống ngục tù
Cân đo đong đếm cộng trừ nhân chia.
Ngày dài chờ đợi đêm khuya
Canh thâu chờ sáng chia lìa kiếp mai.
nvs.Vũ Thuy
(31-10-2013)
Cảm nghĩ sau khi đọc Tóc Mai
Ở tuổi đời chồng chất, từng đi qua bao thăng trầm của cuộc đời, thời gian cứ đẩy mình đi tới, tôi có bao giờ nhìn lại đằng sau... Vậy mà khi đọc Tóc Mai của bạn tự nhiên tôi như sống lại những kỷ niêm êm đềm có thầy xưa bạn cũ đồng môn ở một nơi mang tên là Viện Hán Học của đất Thần Kinh. Bắt chước Đinh Hùng, tôi tự nhủ: "Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước." Vâng, câu chuyện Tóc Mai đã gợi lại khung trời cũ, có mái trường xưa tôi đã học và... có cô Hồng nhân vật chính ở trong truyện.
Bây giờ theo dấu chân cô Hồng tôi vào lớp. Tôi được học gì ở trường? Có thể nói, ngoài những môn học khác, tôi học một chương trình hình như... nửa Đạo (đạo lý Thánh Hiền) và nửa Đời qua thi văn. Tôi nhớ ngoài những bài học trích trong Tứ Thư Ngũ Kinh rất khô khan, tôi còn được nghe các vị thầy dạy cho những bài học đầy tính chất lãng mạn, trữ tình trong thi ca văn học. Tôi mê nhất giờ thầy Nguyễn Văn Dương, thầy Phan Văn Dật, và những lời bình giảng rất thú vị của quý thầy. Tôi nhớ mãi những câu thơ trong Kinh Thi mà thầy Dương đọc:
"Quan quan thư cưu
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Cầu chi bất đắc,
Ngụ mị tư bặc.
Du tai du tai,
Triển chuyển phản trắc."
Dịch thơ của thầy Nguyễn Văn Dương
Quan quan thư cưu,
Trên bãi sông Hà
Gái hiền yểu điệu.
Quân tử ước mong,
Ước mong chẳng đặng.
Mê mẫn nhớ người,
Lòng sầu ảm đạm
Thao thức không nguôi."
Và bài thơ Tương Tư Chiều của Xuân Diệu:
"Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em..."
Với thầy Phan Văn Dật, tôi nhớ hoài mấy câu thơ trích từ Nhặt Lá Vàng Rơi:
"Sớm vin cành liễu so màu tóc,
Chiều ngắt hoa lê đọ nụ cười.
Người đẹp bên sông sầu chẳng biết,
Bên sông ngày lượm lá vàng rơi."
(Quên tên tác giả)
Những giờ học này như làn gió mơ mộng thổi qua bao trái tim non trẻ...
Trước khi đến Huế học, nhân vật Hồng được mẹ dặn dò rất kỹ sợ nàng trẻ người non dạ mà hư thân. Rồi khi được học một chương trình như thế Hồng ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng. Nhờ vậy Hồng vừa thấm nhuần tinh thần Khổng Manh vừà sống rất đời thường chứ không phải "khổ hạnh" như nhà tu. Lúc yêu ai cô Hồng cũng yêu hết mình, sống thực với lòng mình, nhưng biết tự chủ chứ không buông thả. Cô Hồng đã biết "tri chỉ" dừng lại ở chỗ phải dừng như một câu trong sách Đại Học đã dạy ("Tri chỉ nhi hậu hữu định").
Tác giả đặt tựa truyện Tóc Mai là đã cho người đọc biết trước kết cuộc, nhưng với cách diễn đạt hấp dẫn, tình tiết éo le, truyện vẫn lôi cuốn người đọc cho đến cuối. Tác giả đã cho ta một câu chuyên tình xoay quanh hai nhân vật chính là cô Hồng và chàng Quang sĩ quan VNCH rất cảm động. Vì sợ thời chiến tranh người ra đi không có ngày về nên anh chàng Quang tránh né hôn nhân với cô Hồng để rồi sau lúc "đổi đời"1975 chàng bị vào "trại tù cải tạo," cô Hồng tìm kiếm địa chỉ trại tù và gởi quà cho anh, dù nàng nghèo túng. Bát cơm "Phiếu Mẫu" này đã khiến cho anh Quang suốt đời hát mãi bài nhạc Anh Còn Nợ Em của Anh Bằng làm người đọc vừa thương cảm vừa trân trọng mối tình này.
Bên cạnh mối tình của Quang và Hồng, còn mối tình của Lưu với Phương, Ân với Kim, và những mối tình một chiều của Vũ Thiếu Sinh Quân, Lữ sư huynh, Văn đồng môn, Điền học trò v. v... Những nhân vật này hiện ra rất dễ thương, có tư cách đáng khâm phuc. Tôi còn nhớ thời gian này những tiểu thuyết trữ tình lãng mạn như Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng, Yêu của Chu Tử... rất được giới trẻ hâm mộ nhưng tác giả đã xây dựng những nhân vật trong truyện biết dừng lại đúng lúc, không phá vỡ hàng rào luân lý của dân tộc.
Tác giả đã dựng lại một giai đoạn đau thương của dân tộc mà tuổi trẻ Việt Nam bị cuốn hút vào. Biết bao người đã nằm xuống cho Chính Nghĩa Tự Do của Quốc Gia Dân Tộc vẫn không làm sờn lòng thanh niên Việt Nam. Điều này đã làm nổi bật tinh thần Yêu Nước, Yêu Tự Do, Anh Dũng, Kiên Cường chiến đấu, và sẵn sàng Hi Sinh cho Tổ Quốc của người trai Nước Việt. Tôi thật cảm phục trước cái chết vinh quang của những quân nhân trong Quân Lực VNCH như Hưng, Đông, Sang, Vũ... và vô cùng xúc động trước thảm cảnh tù đày, gia đình khốn khổ, tan nát của chiến sĩ "Bên Thua Cuộc."
Nhìn chung chuyện có nhiều mối tình. Mỗi mối tình mang một sắc thái khác nhau nhưng tất cả đều là cuộc tình không trọn trong thời chiến, phù hợp với tựa đề Tóc Mai và làm người đọc nhớ đến mấy câu thơ của Hồ Dzếnh:
"Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở,
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa."
Cám ơn bạn rất nhiều đã cho tôi cảm giác lâng lâng mơ màng về một khoảng không gian, thời gian tưởng chừng đã mất hút.
Ngọc Khuê
Cựu SV Viện Hán Học Huế khóa II (1960 - 1965)
Cám Ơn Tác Giả
"Tóc mai sợi ngắn sợi dài,
Lấy nhau không đặng, thương hoài ngàn năm."
(ca dao)
Đọc Tóc Mai tôi vô cùng xúc động vì nó nhắc nhở tôi một thời tuổi trẻ mộng mơ với những con người có thật, với những chuyện tình buồn có thật... Tôi thấy tâm trạng, tình cảm, nỗi khắc khoải, đau khổ của nhân vật Hồng như là của chính tôi. Những cái chết đau thương của bao "cánh bướm" bên cạnh nhân vật chính nhắc nhở ta một Thời Chiến Tranh Cốt Nhục Tương Tàn đầy nước mắt khổ đau trên quê hương Miền Nam yêu dấu.... Đoạn nhạc cuối cùng Anh Còn Nợ Em của Anh Bằng kết thúc Tóc Mai một cách tuyệt diệu vì còn gì nữa đâu khi các nhân vật của chúng ta đều gần đất xa trời... Những gì Anh Nợ Em chính là những diễn biến, những cốt lõi của truyện tình trong tác phẩm của Hạ Vũ.
Cám ơn tác giả đã cho tôi sống lại những ngày thơ mộng đầy kỷ niệm ở Thành Nội và Bến Ngự của Cố Đô Huế năm nào, nhắc nhở tôi những người bạn đáng yêu thời Hán Học Huế (1961 -1963).
Triệu
(Cựu SV Viện Hán Học Huế khóa III)
Cảm Tưởng Khi Đọc Tóc Mai
Tóc Mai là thiên truyện tình "trăm lần vui vạn lần buồn" được vhp.Hạ Vũ viết theo thể loại bút ký phần lớn tôn trọng sự thật. Tôi hân hạnh đọc khá nhiều về thơ và truyện ngắn Viết Về Nước Mỹ rất đặc sắc của Hạ Vũ. Hôm nay thêm một lần nữa được đọc tập bản thảo Tóc Mai, thấy tác giả khéo minh họa các nhân vật trong truyện bằng những nét chấm phá, những cảnh xuất hiện khá đột ngột nhưng lại rất hợp tình hợp lý.
Cốt truyện có nhiều hồi được xâu thành một chuổi chuyển mạch tài tình. Lời đối thoại vừa thông minh vừa dí dỏm thật tuyệt vời và dễ thương. Với sự sàng lọc, tác giả đã miêu tả bằng những nét đậm nhạt, có cân nhắc, quý trọng những con người mang "bản sắc Liễu Hạ Huệ" rất chí tình nhưng vẫn thủ lễ, giữ tư cách.
Để kết luận xin mượn bốn câu thơ của Tô Đông Pha mong giải được những ẩn ức trong lòng người:
"Lôi sơn yên vụ Triết Giang triều,
Vị đáo thiên ban hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,
Lôi sơn yên vụ Triết Giang triều."
(Mây khói trên núi Lôi tuyệt đẹp, sóng triều trên sông Triết Giang hùng vĩ.
Người đời đều ước ao được một lần đến nơi chiêm ngưỡng.
Nhưng khi đến được rồi thì cũng chỉ là mây khói trên Lôi Sơn và sóng triều trên Triết Giang mà thôi.)
Mai Uyển
Cảm Tưởng Của Một Cựu Thiếu Sinh Quân
Tôi rất vinh hạnh được tác giả vhp.Hạ Vũ gửi cho tác phẩm TÓC MAI trước khi xuất bản. Đọc truyện dài Tóc Mai tôi có cảm tưởng như đang được tác giả chính miệng kể chuyện cho riêng mình tôi nghe. Nó gần gũi lắm. Tôi nói gần gũi vì bóng dáng của một đồng môn Thiếu Sinh Quân tên Vũ. Nhân vật Vũ lúc ẩn lúc hiện có khi chỉ trong vài dòng, có khi vài trang, cuối cùng rồi máu Vũ đã tô thắm màu cờ sắc áo của binh chủng Thiếu Sinh Quân.
Tất cả các nhân vật trong Tóc Mai đều có một cuộc tình éo le trong thời chiến loạn và cũng kết thúc éo le như cuôc chiến. Truyện dài Tóc Mai đã được tác giả bố cục một cách khéo léo, móc nối nhau thật hay. Càng đọc Tóc Mai tôi càng thấy bị lôi cuốn. Xin mời các bạn cùng vhp.Hạ Vũ vào truyện.
nvs.Vũ Thụy
(Cựu Thiếu Sinh Quân 1046)
Chúc Mừng Tác Giả
"Truyện viết lôi cuốn sự tò mò của người đọc. Nhân vật chính của truyện là Hồng, một cô gái xa gia đình - có thể nói - dặm trường, xuất thân từ một gia đình nền nếp bước vào đời rối rắm lắm tình yêu.
Đối diện với tình yêu, Hồng không cao ngạo. Nàng chia xẻ tình yêu với tất cả mọi người quan tâm. Tuy nhiên, Hồng không phải là người "dễ tính, ba phải" để rồi về sau có thể bị đánh giá là "lừa gạt", không thật lòng. Cách xử sự của Hồng rất khôn ngoan. Nàng dùng lý trí, tình cảm và "kiến thức" về tình yêu tiếp thu được từ những bậc làm mẹ, làm dì, những bậc làm cô, làm chị mà đáp lại mỗi người tỏ tình (dù chỉ là tỏ tình thầm kín) bằng tình cảm, thái độ, cử chỉ khác nhau, người thì được đáp lại ít (sợi ngắn), người thì được đáp lại nhiều (sợi dài). Nhờ thế, không ai phải thất vọng ê chề, không ai phải cảm thấy mình bị "hạ thấp giá trị," không ai phải mang mặc cảm rồi tránh mặt nàng ở giai đoạn sau của cuộc đời. Cái khéo xử sự của Hồng là chỗ ấy.
Truyện còn viết về tình nghĩa giữa người và người. Cái quan niệm "ăn xổi ở thì," "tắm buổi nào buột mặt buổi ấy" hoàn toàn xa lạ với Hồng. Bằng chứng là nàng gặp Quang trong lúc Quang đang "huy hoàng" thì nàng không thể quên Quang trong lúc Quang khốn khổ. Nàng lo lắng, thông cảm cho Xuân, vì Xuân và nàng có cái nghĩa vợ chồng với hai mặt con. Nàng nhận và nuôi dạy Đông - con riêng của Xuân - với tình từ mẫu và nàng cũng được Đông đáp trả với tình cảm trìu mến như mẹ đẻ.
Truyện viết, đối với người ra đời sau, sẽ còn có giá trị về mặt thời sự, về mặt xã hội. Độc giả không những theo dõi những chuyện tình éo le mà còn nắm bắt được thời cuộc, tình hình đất nước, tình hình xã hội, thân phận "đáng thương" của một thế hệ thanh niên dù nam hay nữ trong một giai đoạn lịch sử.
Truyện kể vừa cay đắng, vừa ngọt ngào, vừa xót xa, vừa thân ái. Xét trong từng trường hợp, các nhân vật đã sống đúng theo cách tốt nhất có thể chọn được. Trong yêu đương, không ai đi quá đà, như thường thấy trong những truyện tình thời nay. Điều đó có thể suy đoán như sau: Về mặt khách quan, cô Hồng may mắn chỉ gặp những trải nghiệm "chừng mực," về mặt chủ quan, nhân vật chính này thấm nhuần luân thường đạo lý tiếp thu từ gia đình và trường học - Viện Hán Học Huế. Vì vậy, truyện mặc nhiên mang tham vọng "văn dĩ tải đạo".
Chúc mừng tác giả đã có một truyện đầu tay hay ...
Hoàng Đằng
Cảm Nghĩ Sau Khi Đọc Tóc Mai
Của Nhạc Sĩ Huỳnh Trọng Tâm
TÓC MAI đã đưa tôi về khung trời quá khứ, với tâm tư muôn lối ngỡ ngàng, với tình cảm bàng hoàng quay quắt không nguôi của một thời tao loạn, với tiếng máy bay trực thăng, tiếng pháo kích, với hình ảnh nhà xác, poncho còn rõ nét tưởng chừng như mới hôm qua.
Là một người lính quân y, tôi ra đơn vị vào những tháng ngày dầu sôi lửa bỏng : Mùa Hè Đỏ Lửa.
Đã từng với đồng đội khiêng poncho gói xác các anh hùng hy sinh vì Tổ Quốc chuyễn xuống từ phi cơ. Đã từng nghe tiếng khóc nức nở, nhìn những giọt nước mắt tuôn rơi trên quan tài phủ kín màu cờ. Đã đêm từng đêm ôm súng dưới giao thông hào, ngước mặt nhìn trời để rồi :
Bâng khuâng lòng rỗng tay sờ tóc
Đạn nổ lưng trời, vai ướt trăng.
Tôi cũng có cùng chung ý nghĩ như anh Quang, anh Đông, anh Hưng :
Chúng mình đi mang theo trời dĩ vãng
Cả quê hương sầu hận chất trên đầu
Xa hết bà con, chỉ cỏn bè bạn
Từng thương đau nên biết mến thương nhau.
Từ buổi quê hương chiến trường réo gọi
Chúng mình đi là hiến cả tuổi xuân
Khi bếp ấm máu hồng rơi tắt lửa
Vạn hồn oan nhớ Tết khóc vang rừng.
Trích từ nhạc phẩm : GỌI XUÂN VỀ
của Huỳnh Trọng Tâm
Và cũng như sư huynh Lữ, yêu mà không dám nói, chỉ lặng lẽ nhìn theo tà áo em bay dưới nắng sân trường:
Vạt áo em dài bên cửa lớp
Mắt nai chưa nhuốm bụi xanh hồng
Guốc khua chợt vấp làm tim mẻ
Dù nắng sân trường trong rất trong.
Trích từ nhạc phẩm: NẮNG HẠ TRƯỜNG XƯA
của Huỳnh Trọng Tâm
Là một trong những cô gái thời chinh chiến , Hồng đã ôm trọn mối tình thầm kín lớn dần trong tim, ngày tháng nhìn quê hương nhỏ lệ, thay nụ cười bắng ánh mắt sầu thương; Để rồi :
Người ta yêu không về như ước hẹn
Trái sầu đau trùm kín cả hồn hoang.
Người ta yêu chôn đời trong lửa đạn
Một chiều Thu tan tác giấc mơ vàng.
(Trích từ nhạc phẩm HOANG LỘ MÙA THU
của Huỳnh Trọng Tâm)
TÓC MAI không quá 200 trang nhưng đã diễn tả trọn vẹn nỗi niềm của tuổi trẻ Miền Nam thời chinh chiến., như một cuốn phim với những tâm tư tình cảm của người Việt tha hương.
Cùng với hơn 2 triệu người dân Việt đang lạc loài khắp nơi trên thế giới, TÓC MAI đã có chung một niềm đau, cái đau của người mất nước, cùng chung một nỗi buồn, cái buồn của kẻ tha hương. 38 năm qua, cái hận quốc phá gia vong vẫn còn chồng chất trong ta với niềm đau ngập hồn. Đọc TÓC MAI làm sao khỏi thấy lòng mình quặn đau mỗi khi nghĩ đến quê hương điêu tàn, một quê hương còn bỏ lại.
Huỳnh Trọng Tâm