banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Chương 1

Sáu nhịp Trường tiền

1.

Với một tâm trạng vừa lo âu vừa hi vọng, Hồng khóa xe đạp rồi bước lên cầu thang tìm đến Phòng Giáo Vụ của Bộ Quốc Gia Giáo Dục tọa lạc tại đường Lê Thánh Tôn để xem kết quả cuộc thi tuyển vừa qua. Trước cửa phòng, danh sách 60 thí sinh trúng tuyển đã được niêm yết. Danh sách không dài nên sự lo âu của nàng cũng được cắt ngắn, thay vào đó là niềm vui vỡ òa. Ngay khi thấy tên mình, Hồng vỗ tay reo lên vui sướng theo phản xạ tự nhiên. Một vài nhân viên trong văn phòng ngừng tay, nhìn ra, mỉm cười chia xẻ niềm vui với nàng. Hồng chợt thấy mình đang quấy rối sự yên tĩnh của mọi người, nên bẽn lẽn ngưng tay và ngậm miệng, nhưng niềm vui vẫn còn tràn ngập trên mắt môi. Nàng đang sung sướng với viễn ảnh huy hoàng sau khi tốt nghiệp. Cúi đầu chào mọi người nàng dời bước, tìm một gốc cây, một mình ngồi “ nhấm nháp” niềm vui riêng.

Nhưng niềm vui chưa trọn thì nỗi lo lắng đã xâm chiếm. Tháng trước khi nạp đơn dự thi vào khóa II/1960 của Viện Hán Học, nàng giấu cha mẹ vì thấy ngôi trường này ở mãi tận Huế, một nơi vừa xa vừa lạ với mình và cả gia đình. Thêm vào đó, thời gian học lại năm năm dài đăng đẳng, chắc gì cha mẹ nàng chịu cho đi. Nàng hăm hở nộp đơn đi thi chỉ vì bị nghề nghiệp sau khi ra trường quyến rũ. Đây là một ngôi trường do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ thị đặc biệt thành lập cho riêng Đại Học Huế vào năm 1959, và cũng là một thí điểm đào tạo giởi trẻ để tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, chống lại văn hóa ngoại lai đang xâm nhập nước ta. Viện Trưởng Đại Học Huế, Linh Mục Cao Văn Luận, kiêm nhiệm luôn Giám Đốc Viện Hán Học. Khi tốt nghiệp các sinh viên được bổ nhiệm vào một trong ba chức vụ sau:
1. Tùy Viên Các Sứ Quán Vùng Đông Nam Á.
2. Chuyên Viên Viện Khảo Cổ.
3. Giáo Sư Việt Hán các trường Trung Học.

Hồng đang là học sinh ban Toán của trường Nữ Trung Học Gia Long vì mê xuất ngoại và chức vụ Tùy Viên, tuy không biết Tùy Viên là chức vụ gì và làm những công việc gì, nên hăm hở dự thi vào một trường nghe đến tên là biết thuộc loại Văn Chương cổ. Thật là trái ngược nhau! Hồng không cần biết có hợp với khả năng của mình hay không, nàng tự trấn an bằng câu nói của ông Nguyễn Bá Học: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." Nàng không ngại núi e sông, nhưng bây giờ thì sợ bơ vơ nơi xứ lạ quê người! Sau giây phút vui mừng nàng đối diện với khó khăn: không có thân nhân ngoài đó thì ở đâu? Không có mẹ đi chợ nấu cơm thì lấy gì ăn mà học? Tiền sách vở, bút mực, và những món chi tiêu khác nữa. Trong thông báo có ghi rõ một số tuyển sinh đậu cao sẽ được học bổng toàn phần 500 đồng một tháng, còn lại chỉ được bán phần 250 đồng thôi. Nàng đậu khoảng giữa, được bán phần là chắc. Vậy thì làm sao đủ chi phí ăn ở học hành. Số tiền học bổng này so với học bổng của sinh viên Đại Học Sư Phạm thời đó thì thấp hơn nhiều, kiểu này phải nhờ đến cha mẹ trợ giúp thôi. Một gánh nặng cho gia đình đây!

Hồng thẫn thờ phân vân, "bỏ thì thương vương thì tội," tội cho cha mẹ và tội cho mình. Nàng đứng lên toan về rồi lại do dự ngồi xuống. Nàng tự nhủ "phải vượt khó," tìm gặp những người trúng tuyển kết hợp lại cùng mướn nhà, cùng nấu ăn chung, và đi dạy kèm trẻ tại tư gia để bổ sung vào số tiền ít ỏi đó. Hài lòng với suy nghĩ của mình, Hồng cương quyết đứng lên đi trở lại Phòng Giáo Vụ. Tới cửa rồi thì nàng lại thập thò, ngập ngừng, e ngại vì đây là lần đầu tiên trong đời nàng bước vào một công sở nên có hơi khớp. "Sợ gì chứ? Mình có phạm tội gì đâu, chỉ xin giúp đỡ thôi mà." Sau khi tự nhủ Hồng mạnh dạn bước vào, đúng lúc một ông to lớn bước ra. Nàng giật mình, khựng lại, nhìn lên. May quá gặp "người quen!" Nàng cho là quen là vì Ông này làm Giám Thị phòng thi của nàng cách nay hơn tháng, và đã từng "xin Thầy cho thêm giấy nháp." Hồng reo lên như gặp người thầy thân thương xa cách lâu ngày:
- Chào Thầy.
Ông thân mật hỏi:
- Đậu rồi phải không cô bé? Cần gì giúp đỡ không? Vô đây.
- Thưa Thầy, em cần địa chỉ của các bạn nữ trúng tuyển để liên lạc đi chung ra Huế.

Thế rồi nàng có được địa chỉ năm bạn nữ trong tay, cám ơn rối rít ra về. Ngọc ở Bình Dương, bỏ qua, Minh Tuyết ở Mỹ Tho, không dám ngó tới, còn hai người: Cẩm Vân ở Hòa Hưng, và Ngân Trang ở Vườn Chuối. Thế là Hồng lò dò đạp xe tới nhà Cẩm Vân trước, sau đó là Ngân Trang để kết "Đồng Minh." Còn một người nữ trúng tuyển nữa là Kim học cùng trường Gia Long và cùng lớp với nàng từ Đệ Thất đến Đệ Nhị B3. Nhưng người bạn này đã nói trước dù có thi đậu cũng không thể đi học xa được nên nàng không quan tâm tới.

Cẩm Vân có người quen ở Huế. Thế là: "Hi vọng đã vươn lên,” nàng hăm hở về nhà và tối đó trình cho hai "Đấng Tối Cao" việc vui này. Cha nàng có vẻ trầm ngâm, không dứt khoát, nhưng người mẹ vui với niềm vui của con. Bà khuyến khích:
- Má ủng hộ con đi học xa, nhưng con phải hứa với má trong suốt thời gian học xa nhà phải giữ mình cẩn thận, không nên có bồ bịch, và không được lơ là việc học. Má muốn con gái của má có một nghề vững chắc sau này để không lệ thuộc vào người chồng và lỡ có chuyện không may xảy ra thì có khả năng nuôi con một mình.
- Con hứa với má, làm theo lời má không sai sót điều nào cả.
- Có con gái lớn trong nhà như treo hũ mắm ở đầu giường, đầu giường nghe con chứ không phải đầu giàn như người ta đâu. Đừng để hũ mắm rơi, bể, đổ tùm lum, thúi cả nhà, má ngủ không được con à.
Mẹ Hồng ngừng một lúc, nhìn chăm chăm nàng rồi tiếp:
-Nói tới mắm má mới nhớ, thằng Vũ, con của bác Mười, đem tặng cho nhà mình kỳ này ba hũ mắm: một ruốc, một thái, một lóc của Bà Giáo Thảo. Nó nói để dành ăn dần, mai mốt không có mắm Bà Giáo Thảo nữa đâu, vì nó đã xong Tú Tài, không còn học trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu nữa. Mai nó đi Đà Lạt vô trường Võ Bị học, ít có dịp về thăm nhà. Bấy lâu nay tuần nào về, nó cũng mua tặng nhà mình không mắm này cũng mắm nọ, thấy thương hết sức! Nó tới từ giã gia đình mình, ở chơi chờ con lâu lắm mới chịu về.
- Má à, má ăn mắm một mình đi, con không ăn nữa đâu. Ăn riết rồi da mình toát ra mùi mắm, hôi rình!
- Nói bậy không hà. Nó rất lễ phép. Cả Xóm Gà của mình có mỗi thằng Vũ đàng hoàng, má coi được nhứt.
Hồng phản đối:
- Má không biết đó thôi. Ảnh đóng kịch đấy. Trước mặt má ảnh làm bộ nhu mì, hiền hậu chứ thực ra ảnh mèo chuột tùm lum. Có một lần con bắt gặp anh Vũ chở con Hoa bán sinh tố ở Ngã Tư Bình Hòa đi xem xi nê rạp Cao Đồng Hưng. Biết đâu còn nhiều lần với những người khác nữa mà con không gặp.
- Ai biểu con đỏng đảnh làm chi, thằng nào dám nhào vô? Con ra Huế cẩn thận nghen. Mấy đứa ngoài đó, mình đâu biết gốc gác, gia đình người ta như thế nào. Đừng dây dưa mà mọc rể ngoài đó.
- Má an tâm. Con lớn rồi(!) Con biết mà.

Cha của Hồng liên lạc được với một người đồng nghiệp gốc Huế, trước dạy cùng trường với ông, bấy giờ đã trở về Huế. Người này hứa giúp đỡ nàng bước đầu. Thế là mọi việc xuôi chèo mát mái. Sau đó Ngọc ở Bình Dương liên lạc với Hồng. Ba cô Cẩm Vân, Ngọc, và Hồng ráp lại thành bộ "Tam Sên" khắng khít từ đó.

Gia đình của năm cô gái này sau khi qua giai đoạn nhức đầu vì lo lắng cho năm "cái hũ mắm" xa gia đình để "lập công danh", cũng đành gồng mình cho con đi "du học". Năm cô gái "Xứ Nam Kỳ Quốc" tuổi trăng tròn lẻ khăn gói ra tận "Xứ Trung Kỳ"... "du học". Phải nói là vào thời điểm đó, con gái ở Sàigon xa gia đình đi học tận đất Thần Kinh xa xôi thì có lẽ năm cô này là những người tiên phong.

2.

Trước ngày nhập học một tuần, ba cô Cẩm Vân, Ngọc, và Hồng hành trang lên đường chung với nhau, còn Ngân Trang đi máy bay, Minh Tuyết nhập học sau. Tại nhà Ga Sài Gòn, sau khi nước mắt ngắn nước mắt dài chảy ướt cả khăn tay, ba cô đành tiến đến xe lửa. Đang quyến luyến với gia đình, chưa muốn bước lên cửa toa thì một bà mẹ miền Nam tiến tới hỏi thăm:
-Chào các cháu. Các cháu đi đâu vậy?
Chị Cẩm Vân, người lớn tuổi nhất trong năm đứa, được các cô "phong chức" Chị Hai, trả lời:
-Thưa bác, chúng cháu đi Huế học.
- Có phải các cháu học Viện Hán Học không?
- Thưa phải.
- Các cháu có ai quen ở Huế không?
Hồng mau mắn trả lời:
- Thưa bác, chị Hai Cẩm Vân của chúng cháu đây có người quen ở Huế.
- Vậy thì tốt quá!... Con trai bác cũng ra Huế học Viện Hán Học. Cháu Cẩm Vân cho bác gởi gấm con trai bác cho cháu nghen. Có gì cháu giúp đỡ nó. Nó tên Công Đức, đứng đằng kia.
Chị Hai sau một lúc “ngậm hột thị,” cũng trả lời, giọng yếu xìu:
- Dạ được.
Ngọc thúc nhẹ vào hông Hồng, cười hí hí và nói nhỏ:
- Chị Hai đùm bọc hai "em gái ngang hông", giờ có thêm một "em trai người dưng khác họ" để đùm bọc nữa.
Hồng hóm hỉnh thì thầm:
- Trông anh cũng lớn, cỡ tuổi chị Hai, chắc phải gọi là anh Hai. Chị Hai "đùm bọc" anh Hai! Gà mái thắng thế. Biết đâu chẳng là duyên trời dung rủi!

Còi tàu rúc vang, ba cô lên xe lửa ngồi chung một băng ghế dài. Sau khi khóc đã đời vì lần đầu tiên xa nhà, Ngọc và Hồng bắt đầu rù rì chuyện bà má miền Nam chân chất, thật thà gởi gấm con trai cho một đứa con gái cũng lần đầu tiên xa nhà đến xứ lạ quê người như con bà, và cười hi hí với nhau. Bà thương con quá mà quên mất nam nhi tính trong con người của anh Hai. Quay lại không thấy chị Hai đâu, hai nàng đứng dậy dáo dác tìm. Thì... ô kìa, ở cuối toa xe lửa chị đang nói chuyện với một anh khá bảnh trai, thỉnh thoảng chị cầm khăn tay chùi mắt.

-Ê Ngọc, ai vậy mậy?
-Làm sao tao biết được. Kiểu này có lẽ "kép chánh" rồi đây, trông có vẻ "xa chàng lòng dặc dặc buồn."
Chợt Hồng thấy anh Hai đang thả hồn ra ngoài toa xe ở băng ghế đâu lưng với các cô có lẽ cũng đang “mơ về quê cũ xa mờ" liền khều Ngọc ra dấu. Hai cô nín lặng ngồi xuống.

Tới ga Thủ Đức, chị Hai về lại chỗ ngồi, mắt đỏ hoe. Nhìn lại, “chàng” biến đâu mất. À thì ra anh đưa em một đoạn đường tình. Hồng và Ngọc đưa mắt nhìn nhau, miệng mỉm cười "lơ lửng con cá vàng"... Cẩm Vân nhìn thấy, xụ mặt. Hai cô biết mình bậy bèn im lặng. Một lúc sau Ngọc cười cầu tài và lấy điểm bằng cách mời Cẩm Vân và Hồng mỗi nguời một cái bánh ú đem theo ăn dọc đường, và... bỏ rơi anh Hai.

Suốt đường dài, cả ba cô không nói chuyện với Đức mà Đức cũng không làm quen với các cô. Tối hôm sau tới ga Huế, xuống xe lửa, chị Hai Cẩm Vân quên mất lời hứa miễn cưỡng chiều hôm trước. Cả ba theo người quen về nhà, bỏ anh Hai “tự mưu sinh thoát hiểm.”

Sáng hôm sau được người quen chỉ đường, từ Đập Đá ba cô lò mò đi dọc bờ Sông Hương, qua cầu Trường Tiền để vào Viện Hán Học đang đặt tạm tại Di Luân Đường (Thành Nội). Sông Hương và cầu Trường Tiền là hai địa danh đi vào thi ca dân tộc. Lần đầu tiên trong đời các cô rất sung sướng được nhìn ngắm tận mắt dòng sông thơ mộng và đặt chân lên cây cầu lãng mạn này.
"Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Anh theo không kịp, tội lắm o ơi..,"
Câu ca dao nghe sao mà tình tứ vô cùng, bảo sao các cô không mê Huế và quyết tâm ra Huế học?

Ngược hướng với các cô là các nàng nữ sinh Đồng Khánh, kẻ đi bộ, người đi xe đạp đến trường. Gió sông Hương mát lạnh thổi bay tà áo dài phất phơ trong gió như những cánh bướm trắng bay lượn ngợp Cầu Trường Tiền. Các anh học sinh Quốc Học chìm lỉm trong rừng tà áo trắng. Nữ sinh coi bộ thắng thế, hèn chi trong thơ văn chỉ ca ngợi các nàng với tà áo dài và mái tóc thề thả bay theo gió để cho mái tóc ngắn phải lò dò len lén chạy theo sau. Hồng tò mò đếm nhịp và vài của cầu, nêu thắc mắc:
- Này chị Hai, cầu có sáu nhịp, mười hai vài. Chị đếm lại đi, sao ca dao nói gì lạ vậy?
- Ừ nhỉ, sao lạ vậy? Mười hai nhịp thì phải có 24 vài mới đúng chứ?
Ngọc xen vào:
- Có mấy câu ca dao này có lẽ đúng hơn:
Chợ Đông Ba đem ra góc thành,
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bến đò Ghềnh bắc ngang.
Hay:
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua,
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khúc âu ca thái bình.
- Ừ nhỉ, sao có sự khác biệt như vậy. Có lẽ do vần điệu mà thay đổi cho thích hợp chăng? Thôi, gấp gáp làm chi. Mai mốt hỏi thầy.

Di Luân Đường là nơi thờ Đức Khổng Phu Tử được ngăn làm ba phòng làm thành ba lớp học bằng những tấm bình phong. Một phòng cho khóa I lớp đàn anh, khóa II vì sĩ số gấp hai nên chia ra hai lớp. Tất cả nữ sinh viên chọn sinh ngữ Pháp Văn hay Anh Văn cùng nam sinh viên chọn Pháp Văn vào lớp A; còn lớp B toàn nam sinh viên chọn sinh ngữ Anh Văn. Các cô chọn Anh Ngữ chỉ học vài giờ tiếng Anh một tuần chung với sinh viên lớp B mà thôi. Có hơi bất tiện, nhưng các thầy sắp xếp lớp kiểu này mục đích hạn chế tình yêu phát sinh giữa nam nữ mà quên lo học hành(!) Sinh viên lớp B than phiền nhà trường bất công, "lớp toàn lá không có một đóa hoa làm vốn khiến mấy chàng lớp A kênh kênh thấy ghét". Một tấm trướng to tướng giăng ngang với bốn đại tự bằng chữ Hán: Vạn Thế Sư Biểu. Các cột được treo câu đối sơn son thếp vàng. Nhìn chung quanh không khí cổ bao trùm. Hồng than thầm: Than ôi, chúng ta từ Sài Gòn hoa lệ đi vào thế giới Lều Chõng của Ngô Tất Tố rồi! Thầy của chúng ta là các cụ đồ nho vận khăn đóng áo dài đen. Ôi chao! Cổ thế này ư? Vậy thì đâu cần ra tận Hà Nội mới thấy được:
"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".
(Thăng Long Thành Hoài Cổ - Bà Huyện Thanh Quan)

Ba nàng rụt rè ngơ ngác bước vào. Một sư huynh khóa đàn anh nhân dịp tới trường có việc riêng thấy ba "con nai" miền Nam đang ngơ ngác liền bước tới làm quen, xưng tên. Lần đầu tiên nghe giọng Huế, chữ nào các nàng cũng nghe có dấu nặng và cứ ngớ ra tưởng như mình đang nghe tiếng ngoại quốc, Chàm có lẽ(!. Đúng là "du học xứ Huế" mà! Anh phải chậm rãi đánh vần các nàng mới biết tên anh là Lữ. Anh dẫn ba cô vào gặp thầy Phó Giám Đốc, người điều hành thật sự của trường. Thoạt nhìn thầy bệ vệ oai nghiêm trong bộ Âu Phục trắng làm các cô càng lúng túng. Nhưng khác với bề ngoài, Thầy niềm nở vui vẻ hỏi nơi ăn chốn ở của các cô. Sau khi biết các cô đang ở tạm nhà người quen và cần một chỗ trọ thì Thầy cho biết gần trường có một nhà dư phòng. Chủ nhà vì nễ nang Cha Nguyễn Văn Thích nên cho các cô gái xa nhà tạm trú ăn ở. Các thầy chu đáo quá "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu" (lo trước cái lo của thiên hạ). Các cô an tâm thu xếp tới nhà trọ.

Ngày đầu tiên nhập môn, Hồng mới biết trình độ chữ Hán của sinh viên không đồng đều. Cùng một lớp có nhiều người rất giỏi, có cả anh là người Việt gốc Hoa, còn đa số một chữ nhất cũng không biết. Tuổi tác cũng không đồng đều, có người vợ con đùm đề, ngồi học chung với đám nhóc trung học mới lên. Các sinh viên trong Nam ra nằm trong đám i tờ chữ Hán đó, nhưng không mặc cảm thua sút và lấy câu nói của Nguyễn Bá Học làm châm ngôn khuyến khích nhau. Những ngày đầu cầm bút lông tập viết vỡ lòng từng nét ngang, sổ, móc, mác..., Hồng thường ngắm quang cảnh các "cậu đồ, cô đồ" tân tiến ngồi trong ghế cá nhân của mình, chứ không phải khòm lưng trên chiếc chiếu mà viết "chi, hồ, dã, giả" để tự hào mình là một trong những người trẻ của thế hệ mới đang làm nhiệm vụ gìn giữ văn hóa dân tộc. Về trang phục của các thầy, chỉ có một vài cụ cử nhân, tiến sĩ nho học mặc áo dài đen, còn đa số đều vận Âu phục. Nơi đây, sinh viên được học đủ thứ môn thuộc về thơ, văn, lịch sử, địa lý, xã hội, triết học, sinh ngữ… từ Đông sang Tây, từ Cổ chí Kim. Chương trình học hình như quá bao la, muốn đào tạo đám sinh viên còn ham chơi này thành các nhà bác học thông kim bác cổ, quán triệt Đông Tây.

3.

Trước cửa Di Luân Đường, Hồng đang tần ngần cầm quyển thơ Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị chép tay ngắm nghía, ngắm nghía thôi chứ trình độ chữ Hán mới ABC đọc gì nỗi, thì đám nữ nhân "Nam Kỳ Quốc" đi tới. Ngọc hỏi:
- Ê Hồng, quyển gì đó, đưa tao coi với.
Không chờ Hồng trả lời, Ngọc chụp lấy sách trên tay nàng lật xem sơ sơ rồi phán:
- Sách viết tay bằng bút lông bản chữ Hán, có dịch âm, dịch thơ, và chú thích thật đầy đủ. Ở đâu mày có quyển sách quý như vậy?
- Ơ... ơ... ơ…
Minh Tuyết chen vào vừa chặn họng vừa vói tay lấy xem:
- Ơ a cái gì? Khó nói lắm hả? Chôm chỉa ở đâu đó. Chèn ơi, chữ viết chân phương đẹp ơi là đẹp. Mới học có hai tháng thôi, còn lâu mới đọc nỗi... em ơi!
Chị Hai Cẩm Vân điềm đạm, lúc nào cũng đáng mặt đàn chị, ngắt lời Minh Tuyết:
- Để nó trả lời cái đã, chưa chi kết tội người ta ăn cắp.
Được sự hỗ trợ của chị, Hồng đáp:
- Sư huynh Lữ mới tặng đó.
Chị Hai vói lấy xem . Cả bọn xúm nhau lật qua lật lại, rồi mỗi người một câu:
- Công phu dữ!
- Có sách cho tao không?
- Mất công như thế này, rỗi hơi đâu mà viết cho cả đám.
Ngân Trang từ nãy giờ im lặng đứng nghe cuộc đối thọai, lên tiếng:
- Sư muội lọt mắt xanh của sư huynh rồi...
Cuối cùng chị Hai cảnh cáo:
- Sư huynh đó lớn tuổi, đã có vợ con. Liệu hồn đó nghe... "cưng". Thôi, sắp tới giờ rồi, chúng ta vào lớp.

Đi ngang phòng học của sư huynh, Hồng liếc thấy anh đang ngồi lặng lẽ một góc. Thường thường bộ "Tam Sên" ngồi bàn đầu. Đây là giờ Pháp Văn của giáo sư Phạm. Thầy người Miền Nam lập gia đình với một cô người Huế. Xa quê hương ngộ đồng hương nên đám Nam Kỳ coi thầy như người cha, nhưng Thầy nổi tiếng khó khăn trong giảng dạy, cho nên các cậu các cô chỉ dám "kính nhi viễn chi". Quy định hình thức một bài luận của thầy là: Nhập đề và Kết luận, mỗi phần dài 20% chiều dài của toàn bài. Phần thân bài 60% còn lại, ít nhất phải có hai đoạn tương đương bằng nhau. Ai không theo đúng, thầy tặng cặp trứng ngỗng to tướng, no cành hông, khỏi ăn cơm trọn ngày. Tất cả sinh viên đều biết thầy khe khắt như vậy để tránh tình trạng viết luông tuồng từ đầu chí cuối chỉ một đoạn dài thòng, hoặc thiếu nhập đề, thiếu kết luận, nên thi hành rất đàng hoàng.

Hôm đó Thầy hoàn trả bài luận Pháp Văn. Hồng đang hồi hộp chờ giờ vào học, Ngọc đến bên cạnh thì thầm:
- Mánh của mầy chắc không qua khỏi mắt thầy đâu. Bị vạch mặt là cái chắc.
- Tao thực hành đúng quy định của thầy. Tao đếm từng hàng theo tỉ lệ đàng hoàng.
- Đừng ngụy biện. Bộ thầy không thấy chữ viết chỗ nhỏ xíu, khít rịt, chỗ to kềnh, thưa rỉnh thưa rảng hay sao?
Hồng cãi bướng:
- Thầy không quy định chữ viết phải đồng một cỡ, tao viết sao mặc kệ tao miễn đúng tỉ lệ thôi chứ.
Nói cứng như thế nhưng tim cô nàng đập thình thịch khi thầy bước vào lớp. Lúc tới bài của Hồng, thầy không nói gì cả, thoáng hiện một nụ cười kín đáo chỉ có hai người Hồng và Ngọc nhận ra. À thì ra thầy có dành ưu đãi cho đám môn sinh đồng hương của thầy.

Thầy giảng, sinh viên lấy tập vở ra ghi chép. Ghi tiếng Việt còn không xong, tiếng Tây chỉ có nước chào thua. Vốn từ ngữ tiếng Pháp của đám Nam Kỳ học trường Việt thuộc loại ‘ăn đong’, làm sao ghi chép cho nỗi! Ngồi gióng tai giương mắt nghe thầy giảng mà hiểu được lỏm bỏm là phước lắm rồi. Hồng liếc nhìn quanh xem các bạn gốc Huế có hơn không. Nàng thấy ai ai cũng giương mắt mà... nghe. Cùng trình độ!
Đây là lần đầu tiên trong đời xa tổ ấm, năm cô sinh viên gốc Nam Kỳ cảm thấy mình cô đơn và buồn ray rứt vì nhớ ngôi nhà thân yêu, nhớ Cha, nhớ Mẹ, nhớ anh em, nhớ trường cũ bạn xưa, lại gặp giọng trầm và ấm của thầy giảng về tác phẩm Les Misérables làm các cô xúc động. Hồng rơi lệ. Tưởng chỉ mình yếu lòng, nàng liếc nhìn các bạn đồng hương, bắt gặp người len lén quẹt nước mắt, người cúi gầm mặt giấu mấy giọt lệ ngọc ngà. Hành động của các học trò nữ này không lọt khỏi mắt thầy. Thầy chớp mắt, giọng ngập ngừng, và nhỏ lại. Cuối cùng thầy chấm dứt đột ngột bài giảng, bắt qua việc khác. Từ đó khi thầy giảng bài, Hồng nhận thấy thầy thường đưa mắt nhìn đám nữ sinh viên xa nhà, hễ có biểu hiện xúc động thẩy liền chuyển đề tài. Bên cạnh bề ngoài khe khắt, trái tim thầy nồng nàn tình cảm.

Mang cái "mác" sinh viên nhưng thực chất đám nam nữ này vẫn là những đứa trẻ con, vui đó buồn đó. Mỗi lần nhận được thư nhà thì nhảy cẩng lên reo hò, lúc không có lại buồn thỉu buồn thiu. Trước khi rời trường Gia Long, Hồng chỉ được mấy hũ mắm của anh chàng Vũ Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, chứ nàng chưa được hân hạnh "em tan trường về, anh theo Ngọ về!” Bây giờ anh chàng gặp gái Đà Lạt má đỏ môi hồng nên quên mất “cô hàng xóm” này rồi, không thèm gởi cho Hồng một lá thư an ủi để nàng lên tinh thần nơi xứ lạ quê người như chị Hai Cẩm Vân và người bạn tên Ngọc này. Giờ đây, mỗi khi ra về Hồng được một ánh mắt buồn buồn dõi theo mà ánh mắt ấy có một vài "cái đuôi" bám chặt. Hồng than thầm: "Ôi chao! Số tôi sao xui xẻo vậy!" Từ ngày tặng sách sư huynh Lữ không tới thăm hỏi chuyện trò với đám Hồng nữa và thường hay đến trường sớm về muộn để "ngắm dáng em thướt tha với tà áo bay bay phất phơ trong gió" theo lời nhận xét đầy chất cải lương của chị Hai Cẩm Vân. Tự dưng nơi đây Hồng có một người chị người dưng khác họ nhưng thân thiết như ruột rà. Chị đã theo dõi để kềm kẹp các "em nuôi" không cho vượt hàng rào lễ giáo. Do Hồng chưa có người yêu nên được coi như con nít, làm đứa em út trong nhóm. Vốn lý tưởng cuộc đời, xem tình yêu là một tình cảm tuyệt đối nên Hồng nghĩ rằng bạn bè nhận xét lầm về anh. Nghĩ rằng anh đã có mái ấm gia đình thì làm sao còn yêu người khác được nữa nên Hồng không để vướng bận vào lòng. Mọi người thấy anh không tìm cách liên lạc, hay thư từ với Hồng nên một thời gian ngắn sau cũng bỏ qua, không chọc ghẹo nữa. Đối với Hồng, anh có yêu hay không, nàng không cần biết. Dưới mắt nàng anh là một "ông già" có vợ con mà còn đi học là để lấy thêm kiến thức. Nàng coi anh là một sư huynh như mọi sư huynh khác. Bóng anh mờ nhạt, không có chỗ đứng trong trái tim nàng.

Các thầy của trường chẳng những quan tâm tới tinh thần lẫn tình cảm của đám sinh viên xa gia đình mà còn săn sóc sức khỏe nữa. Có lần Minh Tuyết đau bụng lăn lộn, thầy Phó Giám Đốc, còn là một người nghiên cứu về Đông Y, đã đến nhà chẩn mạch và kê toa. Sinh viên cần gì, kêu cứu là các thầy đáp ứng ngay. Để tạo bầu không khí ấm cúng cho môn sinh cuối tuần, các thầy thường hay gọi cả bọn nam nữ sinh viên xa nhà đến ăn uống, vui chơi cho đỡ nhớ nhà. Nhóm miền Nam được đặc biệt đối xử này. Một hôm ở nhà thầy Kháng, đám nữ Sài Gòn tới nhà thầy ăn trưa. Nhà thầy có ao nuôi cá, một bầy vịt đang bơi lội ung dung. Thầy hỏi:
- Con gì đó, các con?
Hồng láu táu trả lời giọng đặc sệt Miền Nam:
- Thưa thầy, con "dzịch."
Anh Đài, con trai của thầy, cũng là bạn học cùng lớp với Hồng, cười khúc khích. Từ đó hễ anh thấy con vịt là nhớ tới Hồng, thấy Hồng là nhớ "con dzịch". Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên anh nghe giọng miền Nam rặt nên cũng là việc lạ lẫm đáng chú ý chăng?

Đám sinh viên Nam Kỳ Quốc mượn tạm gia đình các thầy để giải sầu xa xứ. Các Thầy đã dang tay đón lấy những đứa con sớm rời tổ ấm này. Do đó người Thầy ở đây không chỉ là Sư mà còn là Phụ nữa và tình thầy trò khắng khít hơn ở những ngôi trường khác.