Chương 2
Giăng mắc tơ bay
Vào niên khóa đầu, đường xe lửa còn an ninh không bị gài mìn nên ngày Tết đám sinh viên Nam Kỳ lên xe lửa về nhà, sau đó mang xe đạp trở ra Huế. Mấy năm sau đành ở lại ăn Tết tha hương. Có xe đạp tiện việc đi lại nên các đám nam nữ này thường rủ nhau đi chùa hay đi chơi cuối tuần với nhau. Có năm vào ngày mùng một Tết, Cẩm Vân, Hồng, và Minh Tuyết theo gia đình thầy Phó Giám Đốc đi chùa lạy Phật rồi ăn cơm chùa, hôm sau theo xe của Cha Thích đi nhà thờ La Vang quỳ lạy Chúa và ăn cơm Chúa. Chúa và Phật các nàng đều thành kính tôn thờ như nhau. Bởi vậy suốt mấy năm dài nhờ Các Đấng Tối Cao thương tình che chở nên không ai gặp tai nạn hay bệnh hoạn nặng, chỉ sụt sịt ho cảm sơ sơ thôi.
Mỗi năm nhà trường đều có tuyển thêm sinh viên cho khoá mới, do đó số nam nữ Miền Nam ra Huế càng ngày càng đông. Các anh chị em tập họp thành một nhóm dân Sài Gòn nơi đất Huế. Vào những ngày nghỉ Lễ và Tết, đám nam nữ sinh viên Sài Gòn càng cảm thấy cô đơn và nhớ nhà nên tự tổ chức tiệc tùng riêng cho mình đỡ buồn. Đám nữ, ai tham gia thì đóng tiền cho chị Hai Cẩm Vân, đám nam đóng tiền cho anh Hai Công Đức để tổ chức ăn uống, ca hát vui vẻ với nhau. Đó là dịp đám em ngang hông chọc ghẹo anh Hai chị Hai tơi bời. Lý do là anh Hai biết mình xài tiền tùy hứng nên gởi tiền cho chị Hai cất giùm với lời dặn: đừng đưa tiền cho anh ngoài ngày quy định, dù anh yêu cầu cũng vậy. Chị Hai chấp hành lời dặn rất nghiêm nhặt. Một lần anh cần tiền khẩn thiết ngoài ngày quy định. Anh xin chị đưa tiền lại cho anh nhưng chị nhất định không đưa. Chị bỏ ngoài tai lời giải thích và năn nỉ ỉ ôi gần gãy lưỡi của anh. Không được, anh đành bỏ cuộc, xoay cách khác. Vài hôm sau, anh đến gặp chị, trách:
- Tôi cần tiền cứu mạng(!) mà gặp phải ly nước chanh không đường, nhiều đá lạnh, uống không vô.
Chị lòng tuy mềm nhưng miệng cứng, đáp:
- Tôi chỉ chấp hành lời dặn của anh. Thôi thì đừng gởi tiền cho tôi nữa.
Thế mà anh không tởn, vẫn tiếp tục gởi tiền cho người đáng tin cậy nhất thế giới của anh giữ giùm. Chuyện này bị tiết lộ ra ngoài. Thế là đám nữ quái Nam Kỳ có màn chọc ghẹo cho vui cửa vui nhà. Gặp anh, mỗi người một câu:
-Anh Hai, đưa tiền cho chị Hai đi chợ.
-Anh Hai, chị Hai nhất định nhịn đói, chờ anh về ăn cơm kìa.
- Anh Hai, chị Hai hết tiền rồi, đang kiếm anh kìa ...
Mỗi lần như vậy anh Hai không nói gì cả, chỉ lườm bọn "thứ ba" một cái mà thôi. Những lúc không có ai, Hồng còn bị anh cú đầu, và nói gọn lỏn năm chữ: “Con nhỏ này thiệt là...” Bị chọc như vậy, nhưng anh vẫn cứ gởi tiền đều đều cho chị Hai.
Suốt mấy năm trời học chung, đi chơi lăng tẩm, đền đài, hẹn nhau đi xe đò, xe lửa Saigon - Huế, đi lạc quyên cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt... chung với nhau, tình cảm của nhóm nhỏ sinh viên xa nhà này trở nên thân tình thắm thiết. Hồng và Ngọc là hai kẻ chọc ghẹo anh nhiều nhất, không chọc chị vì biết trái tim chị đã có chủ, và cũng kín đáo theo dõi phản ứng của anh Hai kỹ nhất. Không thấy gì khác lạ, chỉ có một đôi lúc bất chợt bắt gặp ánh mắt anh có vẻ xa vắng dõi theo bước chân của nhóm mình. Cả hai thắc mắc nhưng để bụng. Hôm ấy đám nam nữ "vô gia cư" gốc Sài Gòn mở tiệc Tất Niên tại nhà trọ, ngôi nhà các thầy đã mướn giùm cho đám nữ sinh viên của trường. Như thường lệ, cả bọn tập hợp để ăn uống và ca hát với nhau cho quên sầu xa xứ. Anh Hai ngồi tựa cửa sổ nắn nót phím đàn guitar mắt nhìn xa xăm. Minh Tuyết đến bên Hồng bỏ nhỏ:
- Ê Hồng, hình như anh Hai đang sầu tình.
- Ai vậy? “Thừa Thiên đi dễ, khó về. Trai đi có vợ, gái về có con”. Chuyện không lạ. O nào (cô nào) lọt mắt xanh của anh vậy?
- Không phải gái Huế, người trong nhóm bọn mình.
Hồng nêu thắc mắc:
- Đúng không đó? Mày giàu tưởng tượng thôi. Anh biết chị Hai đã có “kép chánh”, "dzô" sao được mà "dzô". Trễ một bước rồi!
- Là mày đó, Hồng.
- Nói bậy. Bịa thì phải có căn có cơ chớ.
Minh Tuyết giải thích:
- Dạo sau này tao thấy anh buồn lắm và hay lặng lẽ nhìn bọn mình.
Hồng cãi:
- Không phải. Anh chấm mày đó, Minh Tuyết à. Anh đâu dám cú đầu mày, chỉ cú đầu tao thôi, vì coi tao như em gái ruột, dù là ruột dư cũng là ruột.
Đang cù cưa cù nhằn với nhau thì Thu Sầu đến bên Hồng nói:
- Chị ra ngoài, em có chuyện cần một chút.
Hồng xin lỗi, bước theo Thu Sầu ra sân trước. Thật ra tên khai sanh của cậu sinh viên này là Tâm, tên ở nhà là Thu. Theo chữ Hán, Thu và Tâm kết hợp thành chữ Sầu, nên cậu có biệt danh là Thu Sầu. Tâm với Hồng rất thân tình, có thể nói thân như chị em ruột tuy không cùng chung máu mủ với nhau. Cha mẹ Tâm và cha mẹ Hồng là đôi bạn thân với nhau từ trẻ, thường xuyên thăm viếng qua lại với nhau. Tâm học dưới Hồng một lớp. Cậu này đang lúc học trường Pháp Jean Jacques Rousseau thì theo bạn bè con nhà giàu ăn chơi, vác dao búa đánh lộn. Mẹ cậu là Giám Học trường Gia Long, một bà "Mạnh Mẫu thế kỷ thứ hai mươi", quyết định bỏ mộng cho con du học Pháp, đẩy đứa con đi xa khỏi môi trường băng đảng. Vào Viện Hán Học Huế là cách tốt nhất. Bà ca tụng Huế và con gái Huế đẹp, dịu dàng, nết na, ai cũng có mái tóc dài thật quyến rũ... Cậu ta mê "tóc thề thả gió lê thê, em ơi đợi anh về", thế là mắc mưu bà mẹ. Có lẽ nhờ bài Pháp Văn được điểm cao bù lại cho bài luận Việt nên cậu trúng tuyển. Cậu trọ tại cư xá dành riêng cho nam sinh viên ở Nam Giao nên có nhiều tin nội bộ nóng bỏng. Cậu nào thầm yêu trộm nhớ cô nào, cô nào đi chơi tay đôi với cậu nào, Thu Sầu đều biết.
Ra tới sân, không chờ Thu Sầu lên tiếng, Hồng vội hỏi:
- Sao? Bộ có tin tức gì quan trọng hả, Thu Sầu?
- Cho chị một tin vui đây. Anh Văn lớp B yêu chị đấy. Anh ấy tài lắm, vấp một cái... ra được một bài thơ tặng chị nè.
- Cho mày đấy, tao không thèm đâu.
- Thôi mà chị, "chiều mưa đi với em làm tim anh rạo rực" còn chối làm gì? Chung đường, không biết có chung cây dù hoặc chung áo mưa hay không?
- Thằng quỷ, mày nói bậy bạ làm tao mang tai tiếng, tao “dợt” mày bây giờ.
- Trời, chị dữ quá! Vậy mà cũng có người ngu đút đầu vô yêu. Ai biểu chị đi cặp kè với anh dưới mưa phùn lất phất, tình ơi là tình, làm tim anh không rụng rời sao được.
Tiếp theo hắn vừa cười cười vừa đọc mấy câu thơ sau:
"Chiều nay anh đi thơ thẩn,
Màn trời giăng mắc mây mưa,
Lá cây gào trong biển lệ,
Con đường - đây phải đường xưa?"
(Trần Văn)
Xong, Thu Sầu phê ngay một câu:
- Thơ thất tình của anh ta đó. Tội chưa tề!
Bữa đó, xe đạp của Hồng bị hư, đang bỏ cho thợ sửa. Trời mưa, đi một mình trên con đường vắng nàng sợ ma sống, nên đứng chờ tạnh mưa ở sân trường. Anh Văn tiến tới hỏi:
- Răng Hồng còn đứng đây, chưa về? Thiên hạ về hết rồi tề.
- Chờ tạnh mưa, đường sá đông đúc, đi về cho đỡ sợ.
- Hồng ngồi lên xe, tôi đèo về.
Ở Sài Gòn mà anh nói câu này, Hồng ừ liền. Ở Huế thì chết với miệng thế gian nên Hồng ngần ngừ không trả lời. Anh biết ý, liền đưa đề nghị khác:
- Hay là như ri, tôi dẫn bộ xe cùng đi với Hồng một đoạn đường.
Nàng nhìn quanh, sân trường vắng bóng người, ở lại cũng không tiện nên gật đầu đồng ý. Song hành với anh trên con đường vắng giống như một cặp tình nhân, Hồng đâm ra thẹn thùng, ngượng ngập, vừa đi vừa kéo mũ áo mưa xuống che mặt để tránh người quen bắt gặp. Tưởng không ai biết, bây giờ cậu Thu Sầu này biết là do anh ấy tiết lộ làm Hồng vừa mắc cỡ vừa nổi giận. Xứ Huế này nhỏ bằng nắm tay, chuyện nhỏ cỡ cây kim, cả thành phố đều hay biết. Kiểu này thì hỏng bét, nàng có phải là người yêu của anh ta đâu. Văn tiết lộ như vậy dù vô tình hay cố ý là anh ta đã lập "hàng rào ấp chiến lược" để cô lập nàng và giành độc quyền cho anh ta. Hồng nổi nóng, nghĩ Văn có gian ý và bỗng dưng nhớ câu truyền tụng trong dân gian ở Huế: "Sơn bất cao, thủy bất thâm, nam đa trá, nữ đa dâm". Nàng từng đả kích kịch liệt câu này và cho rằng mấy ông phong thủy nói bậy làm mất đi hình ảnh thơ mộng của Huế. Bây giờ nàng lại cho là đúng vì anh chàng Văn si tình "đa trá" dưới mắt nàng. Hồng không thấy cái tình cảm đậm chất lãng mạn của bài thơ mà chỉ thấy thật là vô duyên thôi. Thêm nữa, Hồng đã hứa với mẹ nàng chỉ tập trung học hành, không yêu đương lăng nhăng, và cũng đã cùng với năm "đồng bọn Nam Kỳ Quốc" móc ngoéo với nhau nhất định chứng tỏ cho mọi người thấy câu ca dao đầy tự hào của Huế: "Thừa Thiên đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về có con" là sai nên nàng đe dọa Thu Sầu:
- Đừng nói bậy nghe, chuyện không đâu mà tiếng dữ đồn xa, mày chết với tao.
- Chị có ngon thì bịt miệng ảnh, biểu đừng làm thơ nữa và... "anh ơi, đừng làm em ốt dột". Ha ha ha...Gieo nhân nào gặt quả đó nghe chị...
Nói xong, hắn bỏ đi miệng cười cười trông phát tức. Hồng nghĩ có lẽ do cái gốc ban Toán, cộng thêm cái "gien" khoa học kỹ thuật của gia đình, cho nên nàng học không khá về môn văn chương. Cha nàng là giáo sư trường Kỹ Thuật, các em trai gái của nàng sau này đều theo những môn Khoa Học làm thầy dạy Toán, Lý, Hóa, duy chỉ mình nàng lạc đường vào văn chương. Hồng vẫn nhớ mãi vào năm trước, thầy dạy sử Trung Quốc rất sính thơ Đường, một hôm thử tài đám môn sinh, ra đề mỗi người làm một bài thơ Đường bằng chữ Hán. Hồng kêu Trời như bộng, thơ lục bát tiếng Việt nàng làm còn không xong, bảo sao làm được thơ Đường mà lại bằng chữ Hán!
Sau mấy ngày vắt óc Hồng cũng ráng “nặn” ra một bài Đường thi ngũ ngôn tứ tuyệt. Nàng không biết thơ mình có đúng niêm, luật, đối, vần hay không và "hay ho" như thế nào, chỉ nhớ đời hai câu cuối vì tội làm đạo chích, chôm từ bài Xuân Tứ nổi tiếng của thi sĩ Lý Bạch bên Tàu, chỉ đổi hai chữ "minh nguyệt" thành "hỏa xa" mà thôi. Nàng bị thầy cười hì hì khi đọc lên hai câu đó: "Cử đầu vọng hỏa xa, đê đầu tư cố hương". Xe lửa chạy trên trời cho nên phải ngóc cổ mà ngóng trông. Mặc mọi người cười, Hồng ngụy biện: đây là lời tiên tri cho nền khoa học kỹ thuật nhân loại mai sau mà Hồng là nhà Tiên Tri đại tài, có thơ văn để lại làm bằng chứng. Từ đó nàng từ giã mộng làm thi sĩ, văn sĩ. Bởi thế cho nên, ai "cua" nàng mà làm thơ là nàng bị “dị ứng” dù rằng thơ có hay cách mấy cũng không tránh khỏi thất bại.
Nghĩ tới đây Hồng tủm tỉm cười một mình. Ủa, tại sao lại cười? Thích chí bởi có người lụy tình vì ta hay sao? Đang lòng tự hỏi lòng thì chị Hai réo gọi ơi ới làm nàng tỉnh giấc... mơ hoa. Chị cằn nhằn:
- Đi đâu mất biệt nãy giờ, không phụ một tay gì hết. Vào đi. Mọi người đang chờ kìa. Hôm nay có món đặc biệt. Lát nữa rồi biết.
Hồng ngồi đối diện với anh Hai. Bản tánh anh nghiêm trang, ít nói, nên tuy các bạn và nàng dò xét mà cũng không biết thực hư thế nào. Bên trái nàng, Ngọc cũng lặng lẽ, khác hẳn ngày thường. Bên phải là Ngân Trang nổi tiếng ít lời xưa nay. Bầu không khí kỳ kỳ là lạ, thật mất vui. Thu Sầu ngồi cuối bàn đang nheo mắt chọc nàng.
Chị Hai tuyên bố khai mạc, xong đề nghị toàn thể hát bài Ly Rượu Mừng. Có khi nào chị hát hò đâu, sao bây giờ nổi hứng bất tử vậy? Thật đúng là chuyện lạ bốn phương!!! Bài hát không đem lại bầu không khí Tết như ý muốn vì Hồng đang quạu đeo, mặt khó đăm đăm, Ngọc đang ủ dột vắng nụ cười. À, cô nàng có lẽ không được thư người hùng Sĩ Quan Đà Lạt chúc Tết đấy mà. Bà chị Hai hôm nay đang rộn ràng ồn ào, có lẽ được thư hay quà của anh Cả. Đám nữ Sài Gòn này có chị Hai, anh Hai, cho nên người yêu của chị được "phong chức" anh Cả. Các cô tự động coi anh Cả như ông anh rể của mình. Tết nào anh cũng lì xì tượng trưng một đồng lấy hên cho mấy đứa "em dzợ" hờ tương lai. Tiệc tùng xong, ban Văn nghệ Nam Kỳ làm việc. Anh Hai lên dây, so phím hát bài Tàu Đêm Năm Cũ. Chị Hai khui hộp bánh ngoại hiệu Biscuit làm tại Pháp. Mùi bánh thơm phức thật hấp dẫn. Mấy khi được ăn bánh ngoại quốc, Hồng giơ tay toan nhón lấy một cái thì Ngọc khều nàng nói nhỏ:
- Bánh này không phải của anh Cả đâu, của anh chàng kỹ sư đang nạp đơn tuyển phu của bà chị mình đó. Tao không ăn để phản đối bà chị mình đang rắp tâm làm kẻ bội bạc với mối tình sáu bảy năm dài. Tao ghét kẻ bạc tình lắm.
- Ờ hén, tao cũng không ăn để cho bà chị giựt mình mà hồi đầu.
Hồng xẵng giọng với chị:
- Không ăn, chị ăn hết một mình đi.
Ngọc tiếp lời cay đắng:
- Không ăn bánh của kẻ bạc tình.
Chị xụ mặt, đưa hộp bánh về phía khác. Tiếng nhạc tiếng ca át tiếng nói của hai người nên chẳng ai nghe biết gì cả. Ngọc cáo lỗi bảo là đang đau bụng, nên vào phòng trùm chăn nghỉ mệt. Thừa dịp, Hồng theo Ngọc vào phòng để ngầm tẩy chay bà chị. Ngọc có tật hễ có chuyện gì không vừa ý là vào phòng, nằm trùm mền kín mít khóc lẻ loi một mình. Nghe tiếng khóc nho nhỏ của bạn, Hồng hoảng hốt hỏi rối rít:
- Bộ đau bụng dữ lắm hả? Có tiêu chảy không? Coi chừng đau ruột dư đó. Úy Trời! Ngày tết ngày nhứt, bác sĩ, y tá nghỉ ở nhà ăn Tết gần hết rồi, chỉ còn vài người trực thôi. Xe xích lô cũng nghỉ ăn Tết, làm sao vô bệnh viện đây? Ngồi xe đạp nỗi không? Hay là tao cho anh Hai biết để cõng mày vô bệnh viện?
Hồng dợm đứng dậy, Ngọc chụp tay nàng kéo lại, khóc to tiếng hơn làm nàng càng bối rối, hỏi tới tấp:
- Chuyện gì? Đau lắm hả? Đau chỗ nào? Có đau ở phần bụng bên phải không? Dầu cù là đâu, tao xoa bụng cho.
Ngọc nức nở:
- Không, không, tao không đau bụng, tao đau lòng lắm mầy ơi. Anh ấy phản bội tao, bỏ tao rồi, đang cặp với con bạn tao ở quê nhà. Xa mặt cách lòng, cái thứ bạc tình, cái thứ vô lương tâm, cái thứ bất nhân, bất nghĩa, cái thứ...
- !!!...
Ngơ ngẩn một hồi Hồng mới bình tĩnh khuyên một câu thật vô duyên:
- Cái thứ bạc bẽo đó, hơi sức đâu mà thương mà tiếc. Bỏ cho chó gặm đi.
Để yên cho Ngọc khóc, Hồng ngẫm nghĩ: đâu phải chỉ con trai Huế đa trá, con trai Nam Kỳ cũng đa trá, miệng nói yêu người này mà lòng lại kết với người kia như anh chàng Võ Bị Đà Lạt của Ngọc. Còn bà chị mình nữa, yêu anh Cả sáu bảy năm trời, gia đình cản trở thì phải cương quyết tranh đấu cho tới cùng, cũng phải "tam tứ núi cũng trèo, thất bát giang cũng lội, cửu thập đèo cũng qua" mới phải chứ, sao bây giờ lại kết với anh chàng kỹ sư nào đó. Anh Cả có biết hay không? Mình có nên báo cho anh Cả biết không hè? Còn anh chàng Vũ lúc ở Vũng Tàu thì tuần nào cũng đem mắm về lấy lòng mẹ mình và mình, bây giờ bị mấy cô gái Đà Lạt hớp hồn rồi nên cả năm không gởi được một lá thư. Cũng may Vũ còn nhớ tới nàng nên gởi một Thiệp Xuân với hàng chữ chúc Tết ngắn ngủn theo thông lệ. Chán ơi là chán! Mình phải trách ảnh keo kiệt chữ viết và nghèo nàn ý tứ mới được.
Có tiếng gỏ cửa, chị Hai bước vô. Ngọc nín khóc, quay mặt vô vách nói vói:
- Chị ra ngoài đi. Tôi ghét kẻ bạc tình.
Chị Hai đứng tần ngần một chút rồi đi ra. Hồng ngồi yên lặng, mặc cho Ngọc khóc trôi gối trôi mền. Nàng lẩm nhẩm đọc hai câu thơ của anh Văn: "Lá cây gào trong biển lệ, Con đường... đây phải đưòng xưa" lòng dâng lên một tình cảm khó tả, vui không ra vui, buồn không ra buồn, một chút bâng khuâng, một chút hờn giận...
Viện Hán Học (Huế) ngày Khai Giảng niên khóa 1960-1961 tại Di Luân Đường