banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

nhấn vào để coi rõ hơn

nguyễn anh khiêmNguyễn Khiêm là bút hiệu của Nguyễn Anh Khiêm, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sàigòn, ban Việt Hán, niên khóa 1965-1969. Ông đã dạy học tại các trường: Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá), Trung học Nhơn Trạch (Biên Hòa), Văn Lang, Trần Quốc Tuấn (Sàigòn), Trung học Sư phạm và Cao đẳng Sư phạm Sàigòn.
Hiện nay, ông đang hưu trí tại Sàigòn.

Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn hân hạnh giới thiệu tập ký sự trung thực của Nguyễn Khiêm với những nhận định tinh tế và sâu sắc qua lối văn tự thuật vừa chân thành vừa dí dỏm của ông.

https://www.facebook.com/khiem.nguyenanh.3


    KÝ ỨC SƠ SÀI

KỲ MỘT

 

làng Non tiênLàng Non tiên, quê tôi, nằm ven con sông con chảy ra sông Vu gia tạo thành ngã ba sông, có đò ba bến nơi làng Hà tân - quê hương của danh hề Hoài Linh. Toàn vùng nằm trong một thung lũng phía tây huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng nam (Nơi diễn ra hai trận đánh đẫm máu, trận Thường đức và trận đồi 1062 vào những năm cuối cuộc nội chiến). Dòng sông trong veo trườn ngoằn ngoèo dưới chân núi, ngồi trên đò ngang có thể nhìn thấy con tôm bơi lững lờ trong lòng cát trắng.

Cho đến đầu thế kỷ trước, làng tôi hình như vẫn là làng giàu nhất xứ, nhờ thiên nhiên ưu đãi: Một con suối nhỏ chảy hiền hòa quanh năm ngang qua cánh đồng đủ cung cấp nước cho cư dân gieo cấy hai mùa trong khi các làng khác phải đợi mưa cho một mùa lúa duy nhất trong năm. Cách nay ngót trăm năm mà dân cư đã dựng được mấy chục ngôi nhà rường lợp ngói, vách tường. Trước năm 40, ông tôi đã sắm được xe đạp, súng săn hai nòng. Từ xa xưa, tổ tiên tôi đã “qui hoạch” một ngọn đồi trồng gỗ sao để dựng đình chùa, một triền núi trồng mít lấy gỗ tạc tượng Phật, mấy gò hoang rộng rãi trồng xoài hầu con cháu chia nhau ăn. Hằng năm, mỗi nhà đấu giá một cây lúc trái còn xanh, sở hữu cây đó cho đến hết mùa. Đó là giống xoài cơm nhỏ quả, chín cây, thơm nức và ngọt lịm. Những đồi xoài chín vàng đung đưa trong mưa giông tháng ba vẫn chập chờn theo tôi vào giấc ngủ mãi đến tuổi già và con suối róc rách ven bờ tre vẫn chảy mãi trong hồn tôi tận những ngày xế bóng.
Tất cả đình chùa đồ sộ và đẹp thần tiên ven sườn núi đã bị Việt Minh đốt phá trong tháng tám 1945, có lẽ cốt xóa dấu tích phong kiến hơn là tiêu thổ kháng chiến như họ vẫn thường bảo. Rồi lần cuối, một buổi chiều 1965, máy bay Mỹ hủy diệt ngôi làng bằng 50 quả bom 500 cân Anh. Thuốc khai quang cũng quét sạch mấy đồi xoài, không một cây sống sót.
Nay thỉnh thoảng tôi vẫn về lại thăm mồ mả tổ tiên. Về lại để thấy rong chìm, thấy đá nổi và không thể tin làng quê như một chốn địa đàng ấy đã từng có tại đây chỉ mấy mươi năm trước.

Ngày đó, tôi học Tiểu học cách nhà chừng ba cây số, đi bộ trên bờ ruộng, vượt mấy cây cầu khỉ, ngang qua gò gỗ sao vắng tanh rờn rợn, nghe con công “tố hộ” trong lũng xa. Mấy học trò lớn chuyên dọa cọp, nhác ma, chiều đi học về chạy rớt dép, mực đổ tèm lem khắp mình mẫy. Kỷ niệm “sâu sắc” nhất, năm lớp ba, tôi bị ông thầy, vốn người trong xã, xô mạnh, trán va vào bảng đen đau điếng chỉ vì tôi viết THÌ MÀ LÀ hơi nhiều trong bài văn miêu tả. (ông thầy, nếu còn sống đến nay, chắc ông đề nghị xử bắn hầu hết các biên tập viên đài truyền hình Vờ Tờ Vờ, họ nói một câu với hàng chục tiếng THÌ MÀ LÀ, nghe “bức xúc” tệ).
Về mấy nhân vật trong làng, tôi không quên được ông bác họ. Mọi người cứ nhắc mấy chuyện về ông sau 1975. Hồi đó công an thôn, cũng là con cháu trong làng, phát cho mỗi nhà mấy câu khẩu hiệu để dán lên vách. Bác tôi chừa lại, không treo lên câu “Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, bị hạch hỏi lý do, bác nói bác đã nghĩ kỹ, bác thấy sự nghiệp của bác tệ quá, chỉ có mỗi tấm phên rách, Bác Hồ sống ở đây chi cho cực khổ, Bác nên đi chỗ nhà giàu “sống mãi” khỏe hơn. Một lần ra thăm đồng, lúa vừa trổ bông, gió bấc bỗng tràn về, nhìn bông lúa xác xơ, bác lẩm bẩm: “gió kiểu này thì rồi ra chỉ còn Bác Hồ sống mãi thôi, ai cũng chết tiệt hết.” Coi bộ bác tôi “tâm đắc” câu sống mãi... đó dữ. Lại một đêm hội họp, học tập gì đó tại trụ sở thôn, về khuya ai cũng mỏi mệt, ngủ gà ngủ gật mà viên cán bộ xã lại cao hứng chỉ ra nguồn gốc tổ tiên loài người là khỉ, bác giơ tay xin phát biểu ý kiến: “Dạ, tôi thấy tổ tiên loài người là con khỉ hay con chi cũng được, xin cho chúng tôi về ngủ, mai đi mần sớm”. Nghe nói, nhưng không chắc, ông là tác giả câu nhận xét về “lưu thông phân phối”: Có cứt chi mà phân, có phân cũng như...cứt.

Năm 1956, vào học lớp Đệ thất tại trường Trần Quí Cáp, chúng tôi phải lội bộ rục giò 25 cây số từ quê nhà tới Ái Nghĩa mới có xe đò đi Hội An để qua một kỳ thi concours tương đối khó vào lớp Đệ thất. Từ đây bắt đầu bảy năm trung học ăn nhờ ở chực với nhiều nỗi đắng cay. Nghề nông không còn khá nữa, tiền khó kiếm, má tôi vất vả lắm mới chu cấp đủ cho tôi ăn học. Càng điêu đứng hơn khi mùa đông năm đó ba tôi qua đời vì bạo bệnh. Ông chỉ mới 37 tuổi. Tháng ngày tiếp sau, tôi chẳng thiết học hành, không nguôi đau đớn tiếc thương ba. Ba tôi đang làm công chức cho Pháp, chef gare Trà kiệu, Kỳ lam, năm 1945 bỏ về theo kháng chiến. Phải chi ông bớt yêu nước một chút hẳn cuộc đời chúng tôi đã khác.

Thị xã Hội an ngày ấy trong trí nhớ tôi với những cống nước thải lộ thiên bốc mùi tanh nồng dưới nắng hè gay gắt, những ngày mùa đông mưa dầm áo quần phong phanh đi học ngang qua ruộng rau muống gió thổi lồng lộng lạnh thấu xương, mặt mày tái mét. Hội an với những ngôi nhà cũ kỹ mái ngói rêu phong, thấp lè tè, rệu rã như muốn đổ nhào trong cơn lụt sóng vỗ bập bềnh, nước ngập gần tới nóc phố dọc sông Hoài. Hội an với cách phát âm rặt địa phương, “mắm” thành “múm”, “xuân” thành “xưng”, “cá lác” là “cá lóc”, lạ nhất là “phim” thành “phin” ( Tối nay rạp Hòa bình chiếu phin(!) “Cầu sông Kwai”). Hội an với món cao lầu đặc trưng nấu bằng thịt heo xa-xíu, ăn với cọng bánh giòn giòn cán từ bột mì ngâm nước tro nước vôi gì đó. Nghe nói phải dùng nước giếng Bá lễ mới được. (chắc là huyền thoại dành cho một món ăn đơn giản). Các bạn tôi, nhất là Mạc Phi Hoàng, con trai nhà buôn Phi yến nổi tiếng, hễ có tiền là đi ăn cao lầu, ăn hai ba bát. Như Lâm Ngữ Đường có nói "văn hóa là những món ăn mẹ ta cho ta ăn từ ngày bé dại".
Hội an ngày đó thu mình trong chiến tranh, buôn bán sơ sài, dân cư nghèo khó, hầu hết không có tiền sửa nhà. Đó là một bất hạnh đầy may mắn, nhờ thế nên tới thời CS cai trị, thị xã trở thành khu du lịch phố cổ nổi tiếng khắp thế giới. Đúng là thánh cho ăn lộc. Nếu không còn mấy ngôi nhà cổ và giả cổ, thành phố sẽ sống bằng gì?

Những năm đầu trung học, hễ có dịp là tôi đạp xe về quê, được nghỉ lễ vài ngày, tôi tự cho phép mình nghỉ thêm vài bữa nữa. Tôi hay bị phạt cấm túc vì trốn học. Mặc kệ, miễn được về quê tắm sông câu cá, lên đồi Sơn điều hái sim (Ôi, “ngọn Sơn điều đen nhánh một mùa sim” (thơ của ông chú tôi), vào suối nằm trên tảng đá dưới vòm cây râm mát nghe chim hót vang lừng trong hẻm núi là tôi quên hết mấy giờ cấm túc. Gần như lần nào trên đường về tôi cũng ghé vào quán chỗ Cầu chìm ăn bát mỳ Quảng nhưn thịt gà. Ngôi quán nhỏ lợp tranh dựa lưng vào núi, phía trước che rợp một giàn thiên lý thơm lừng. Mỗi lần nhớ tới, không hiểu sao tôi liên tưởng tới câu lục bát của Tô Thùy Yên:

Xót thay hoa đợi trên giàn
Quán xanh còn mở cho chàng về qua.

Đã nửa thế kỷ trôi qua, nay tôi đi ngang đó, quán xưa đâu còn dấu tích.
Năm 1963, tôi phải ra Huế thi tú tài 2, ban văn chương C. Lên đến đỉnh đèo Hải vân phải dừng lại đợi xe cộ bên kia đèo lên hết rồi mới được đổ dốc. Chúng tôi ngồi ăn bánh bèo, chè đậu ván nước, không thấy ngon vì mãi lo chuyện thi cử.Thi xong trở về quê rong chơi, đợi đài phát thanh Huế báo kết quả. Không lo nhiều vì nghĩ mình sẽ đậu. Sau đó tôi vào Sài gòn ghi danh đại học văn khoa với học bổng đủ sống của Hội Thánh Tin Lành Alliance. Tôi chịu ơn hội thánh. Mỗi lần nghĩ tới chuyện này tôi lại buồn buồn, ái ngại nữa, vì nay tôi không còn đi nhà thờ. Tôi không mấy thích nhà thờ, mặc dù thâm tâm vẫn còn tin có Chúa. Nhờ hát thánh ca từ bé, nhạc của Bach, Mendelssohn, Handel... Tôi quen với các giai điệu nhạc cổ điển tây phương đến nỗi riết rồi không muốn nghe nhạc nào khác, mặc dù tôi mù tịt nhạc lý... Không biết tôi vốn có máu vong bản hay sao, mỗi khi nghe mấy nhạc sĩ VN dựa vào làn điệu dân ca này nọ để viết ca khúc, tôi chán ngán quá lắm.

Khi tôi vào đến Sài gòn thì cuộc lật đổ chính quyền Ngô đình Diệm đã xong, chỉ còn vết tích bom đạn trên đường Thống nhất, dinh Gia long... Hai năm sau, thấy học Văn khoa phiêu quá, tôi nộp đơn thi vào Đại học Sư phạm, ban Việt – Hán, một phần cũng lo trốn lính.
Thi xong, thấy bài vở hơi bê bối, nghĩ mình không đậu, tôi bỏ lên Đà lạt chơi. Tôi sững sờ nhận thấy Đà lạt thông xanh, hồ trong vắt, dân chúng hiền hòa, thiên nhiên đẹp như trong chiêm bao, theo tôi, không có cây gì trên đời đẹp bằng cây thông Đà lạt. Việt nam, ở một khía cạnh nào đó hẳn phải biết ơn nước Pháp, họ khai hóa ta thật sự. Cứ nhìn đất nước từ ngày gọi là độc lập thì thấy ngay. (phải chi độc lập... trễ hơn chút!).
Về Sài gòn, tôi chạy đến trường xem kết quả, thấy thông báo viết bằng phấn cho riêng tôi: N.A.K liên lạc gấp với văn phòng trường để thi vấn đáp. Tôi hết hồn, vào ngay văn phòng, bị thầy nào mắng, tôi không còn nhớ “Anh đi đâu giờ này mới tới? Anh thi cử kiểu gì vậy? Có muốn học không?". Tôi ngồi đợi một lúc thì thầy Lê Hữu Mục đến. Dĩ nhiên tôi chỉ biết tên thầy sau này lúc thầy dạy chúng tôi chữ Nôm. Thầy hỏi tôi mấy câu, hơi qua loa, tôi nhớ một câu: “Theo anh, bầu cử hay bàu cử đúng?” Tôi nói “bầu”, thầy nói “sai” nhưng tôi cũng đậu. Bao nhiêu năm học, thú thật, tôi không có thiện cảm với thầy, tôi bực bội vì thầy dạy chúng tôi học chữ Nôm bằng cách chép tự điển Génibrel rồi học thuộc lòng. Về sau, hoàn cảnh buộc phải học thêm Anh ngữ, tôi mới thấy thầy đúng. Học thuộc lòng là “the best way”, tiếng Anh còn vậy, huống gì chữ Nôm. Tôi còn viết bài trong tờ nội san Việt - Hán có ý chê thầy. Tôi sai trái quá chừng, ước chi thầy còn sống để tôi được thốt lời xin lỗi. Tôi còn chưa quên có lần thầy nói với lớp tôi lời phê phán của thầy Trần Văn Tấn (tiến sĩ toán ở Pháp, Khoa trưởng Đại Học Sư Phạm, người Bến Tre) như sau: “Người Bắc mấy anh nói quá nhiều mà làm thì chẳng bao nhiêu, coi bộ, cái được nhứt của mấy anh là đem theo...phở vào Nam thôi.” Thầy Mục nói thêm: “Cũng đúng chứ, nói nhiều làm ít cũng chướng”.
Về thầy Tấn, thầy là Khoa trưởng, tôi chỉ là sinh viên quèn, chưa bao giờ gặp trực tiếp thầy. Mãi tới sau này, dưới thời cách mạng cai trị, đám sinh viên sư phạm cũ gọi tới gặp thầy bàn tính giúp thầy (mà họ bắt chước ngôn ngữ mới gọi là “hổ trợ” ) về chuyện thầy ra ứng cử quốc hội gì đó. Tôi không hiểu thầy ra ứng cử dưới áp lực nào hay tự thầy nghĩ có thể đóng góp chút gì cho giáo dục nước nhà. Dù với mục đích gì, tôi thấy chuyện thầy ra cũng thật đáng tiếc. Thầy có vẻ sợ rớt nữa mới lạ chứ (ngày xưa thi Tiến sĩ toán bên Pháp không biết thầy có sợ rớt như vậy không). May sao kỳ đó thầy “đậu”. Từ đó là xong, biệt vô âm tín. Không hề nghe thầy nói gì, không thấy hình ảnh thầy trên TV. Nghĩ cũng buồn.
Học cổ văn Tàu với thầy Giản Chi, nay không còn nhớ Đào hoa nguyên ký nội dung ra sao nữa. Học chữ Hán với thầy Lưu Khôn, nay chỉ còn nhớ cách giải nghĩa đơn giản dễ hiểu của thầy như độc lập là đứng một mình, tiến bộ, tiến là lên phía trước, bộ là bước, du kích là vừa đánh vừa... chạy, kích thích là đánh và đâm, thích khách là thằng cha chuyên đi đâm người ta, cảm là dám, tử là chết, cảm tử là dám chết, đầu là bỏ, đầu phiếu là bỏ phiếu vào thùng, đầu tư là bỏ tiền của vào... Thầy Khôn, ai nói chi thầy cũng “dạ”, sinh viên hỏi gì thầy nghe không rõ, thầy hỏi lại “dạ chi?”. Ngại quá.
Thầy Trần Trọng San hay ngượng, mỗi lần ngượng thì đỏ mặt tía tai (Không biết thầy có họ hàng chi với ông Trần T Đ Đ…, tác giả một quyển sách đồ sộ với tư liệu sai be bét, nhận định hàm hồ và đầy bạo lực về văn học miền Nam mà Nguyễn Thế Cường đọc xong phát hoảng, bảo “vô liêm sỉ viết bằng chữ vàng” !). Tôi nhớ ngày đi quân sự học đường về, mấy tay giỏi chữ Hán đọc cho thầy nghe bài “Bành Tổ Tòng Quân ký” cả lớp cùng góp ý viết để chọc ghẹo Lê Ngọc Thơ vì cái vẻ già nua của anh, dù anh không lớn tuổi hơn ai; thầy cười ha hà, mặt đỏ rần, thầy khen không ngớt, bảo hài hước lắm, các anh giỏi lắm. Mấy tay mang tiếng giỏi Hán văn trong lớp phải chịu trách nhiệm việc quên tác phầm sáng giá nhất của lớp này (nói theo kiểu Nguyễn Thế Cường thì “lấy quyền gì mà quên”).
Thầy Phạm Văn Diêu dạy Việt văn. Hai tác phẩm biên khảo của thầy (Văn Học Việt Nam và Việt Nam Văn Học Giảng Bình), nhất là cuốn sau, không kém gì cuốn của Hà Như Chi lại ít được biết tới trong khi sách của H.N.Chi nổi như cồn. Cả lớp cứ cười nhóm từ trên đầu môi của thầy mỗi lúc giảng văn: tươi tắn như rau vườn mới hái. Thầy hay mang theo bia lon trong cặp, nghỉ giữa giờ hay lôi ra mở lộp bộp để giải khát. Mập mạp, mặt thường đỏ gay, giải khát toàn bia, tôi nghĩ thầy dám bị tension lắm. Và quả vậy, thầy mất vì tai biến mạch máu não sau 1975, nhà thầy cách nhà tôi có cây cầu ngắn, tôi không hay biết để tiễn đưa lần cuối, nay muốn thắp nén nhang tưởng niệm thầy cũng không còn được nữa, nhà thầy dọn đi đâu mất (không biết tủ sách đồ sộ, toàn sách quí của thầy có còn tại VN không). Những ngày gian khó sau 1975, thầy hay đạp xe đến nhà tôi chơi, thầy trở nên dễ thương hẳn. Thầy đọc cho tôi nghe mấy bài Đường luật thầy mới viết, thấm đẫm nỗi đau đời trong cuộc biển dâu. Có năm tới Tết, thầy đạp xe tới cho tôi hai ký thịt heo, trong khi tiêu chuẩn của tôi ở trường chì được một ký. Thấy vợ con tôi ngủ nheo nhóc dưới nền gạch, thầy ái ngại bảo: “Hay là tôi cho anh mượn ít cây đi vượt biên, qua tới đi làm trả lại tôi, không sao đâu”. Tôi thực sự cảm động và bất ngờ được thầy tin và thương đến vậy. Tôi nói: “Tạ ơn thầy, cho em tính lại”. Nói vậy chứ tôi biết mình không làm vì bản tính sợ chịu ơn, lại nhát gan, ngại sóng gió và làm mồi cho cá.
Về thầy Giản Chi, tôi chưa quên một kỷ niệm vui. Khoảng thời gian trước ngày thầy qua đời đâu vài ba năm, anh Huỳnh Quang Vinh lớp Việt Hán đàn anh gọi đến rủ tôi đi thăm thầy, bữa đó có mấy chị lớp anh, cả Lê Trung Hoa nữa. Chúng tôi gởi xe, lên lầu ba chúng cư đường Hoàng Diệu, quận Tư. Thần sắc thầy tươi tắn, giọng nói vẫn rất khỏe nhưng thính giác thì đã kém nhiều, phải nói lớn thầy mới nghe. Thầy hỏi tên từng người, tới lượt tôi, tôi phải lôi tên mấy người giỏi chữ Hán năm đó như Lê văn Bảy, Lâm Hữu Tài, Quách Thị Trang... ra thì thầy mới ờ..ờ... ra vẻ nhớ. Thầy hỏi tôi nay sống ra sao, tôi có thưa rằng theo như ông Nguyễn Hiến Lê bảo, người ta, đời sống vật chất nên dưới trung bình, đời sống tinh thần nên trên trung bình. Phần đầu thì tôi không lo, vì tôi dưới trung bình chắc cú, còn phần tinh thần thì tôi không chắc. Nghe vậy thầy mỉm cười vô cùng khả ái. Nhắc tới ông Nguyễn Hiến Lê, ai đó trong nhóm có bảo ông đã được đặt tên đường, thầy bảo cũng phải, xứng đáng lắm. (đến nay tôi cũng không biết đường đó ở đâu). Mấy chị mời thầy dùng bánh mì thứ mềm mềm, tôi ngạc nhiên thấy thầy ăn được, thế thì ông cụ còn khỏe lắm. Chúng tôi làm thơ trêu để thầy vui, mỗi người làm một câu, sửa đi sửa lại một chút, tôi nhớ như sau:

Ô hay trăm tuổi vẫn còn... ngon
Giọng nói sang sảng, cười vẫn giòn
Quế Sơn bảy chục răng đà rụng
Giản Chi trăm tuổi răng cứ còn

Lúc đầu là “vẫn còn” tôi nói bị lặp quá, nên đổi “cứ còn” đỡ hơn. Nghe vậy thầy nói : “Thầy cho con một khuyên đỏ chữ “cứ” đấy nhé.”
Vui nhất là giờ Anh văn thực hành, học với thầy Trí, người Khánh Hòa (tôi không nhớ tên đầy đủ của thầy). Học nhẹ nhàng, dạy thì tếu, chuyên kể chuyện khôi hài bằng... tiếng Việt. Một chuyện thầy kể: Tay kép hát nọ đóng vai vua trong một tuồng cổ, buổi tối trước khi lên sân khấu, y làm sơ ly chè đậu đỏ bánh lọt, lúc sau, bụng bắt đầu sôi ục ục... Đang hò hét ba quân, bỗng tình thế nguy ngập, vua chạy lại ghế đặt đít xuống rồi ra lệnh nhanh gọn: “Quân bay! Khiêng trẩm vô buồng!”. Tôi cũng kể với thầy một chuyện ở quê tôi mà thầy cho là hay nhất thế giới: Một ông nọ say rượu, đi xiêu vẹo ngoài đường, té chổng gọng vào bụi tre gai, miệng lè nhè “Đ M, Tổ cha bay, tre mà trồng giữa đường”. (tôi mới thêm chữ ĐM vào cho đúng... nguyên văn chứ hồi đó tôi đâu dám nói chữ này với thầy).

Nguyễn Khiêm