KÝ ỨC SƠ SÀI
KỲ CHÍN
Sau ngày… đứt phim, lớp Việt-Hán chúng tôi còn lại ở Sài Gòn không mấy mống. Năm 69 ra trường mỗi người đi một tỉnh. Từ đó tới nay có người chưa gặp lại.
Nhớ ngày chọn nhiệm sở, ai cũng được xem trước danh sách các trường mình có quyền chọn. Tốt nghiệp đợt đầu trên 10 tên, tôi tuy cũng đậu đợt đầu nhưng kế áp chót nên trường gần nhất có thể nghĩ tới cũng phải cách Sài gòn trên hai trăm cây số. Thật công bình. Ba bốn năm trời cứ nhờ bạn bè ghi cours rồi trốn đi dạy trường tư kiếm tiền, chữ Hán chữ Nôm lộn tùng phèo, nay giã biệt trường tư buồn nẫu ruột, lại phải tính quãng cách Sài Gòn bằng đơn vị trăm cây số, chẳng còn mơ chuyện dạy thêm dạy bớt, cũng đáng đời, gieo chi gặt nấy, ăn trước nhịn sau. Cũng tự an ủi, thủ khoa, á khoa như Lê V Bảy, Lâm H Tài cũng phải đi tận Long An, Biên Hòa, ngày ngày cong lưng trên xe gắn máy… coi cũng không thọ mấy.
Xem ra không ai uất ức điều gì. Nhiệm sở công bố minh bạch, ai đậu cao thì được microphone xướng danh lên chọn trước theo danh sách từ cao xuống thấp với sự chứng kiến của các quan chức cao cấp Bộ Giáo Dục, Viện Trưởng Viện Đại Học Sàigòn kiêm Khoa Trường Đại Học Sư Phạm, Giám đốc Nha Nhân Viên, Giám Đốc Nha Trung Học v.v…
Sự Vụ Lệnh của mỗi tốt nghiệp sinh được viết sẵn đầy đủ chi tiết cá nhân cần thiết với tư cách là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp đến tham dự lễ chọn nhiệm sở.
Tất cả nhiệm sở có nhu cầu tiếp nhận giáo sư về dạy học được Bộ Giáo dục qua Nha Nhân viên và Nha Trung học gởi về trường trước ngày qui định khoảng 2 tháng để mỗi tốt nghiệp sinh có thời gian và cơ hội tìm hiểu nhiệm sở nơi mình sắp chọn. Thí dụ Ban X có 10 tốt nghiệp sinh ra trường thì danh sách dành cho Ban X có đến khoảng gấp đôi nhiệm sở được đề nghị để tạo sự thoải mái trong việc lựa chọn. Sau khi danh sách nhiệm sở được niêm yết, mọi người rủ nhau hợp lại để thảo luận, trao đổi ý kiến. Thủ khoa cho biết ý kiến trước và tuần tự từng người sau đó kế tiếp nhau lựa chọn, trao đổi, hoán đổi cho nhau theo mọi thỏa thuận riêng một cách công khai.
Thường có từ 2 đến 3 nhiệm sở có cự ly cách Sài Gòn khoảng trên dưới 30km dành ưu tiên cho những tốt nghiệp sinh đậu hạng cao. Ngoài ra các nhiệm sở khác được phân bổ khắp các tỉnh thành, nhất là các tỉnh thành phía nam có trường trung học đệ nhị cấp.
Trước khi dự lễ bổ nhiệm, các tốt nghiệp sinh đua nhau đi khảo sát trước một số nhiệm sở mình sắp nhắm tới, sau đó về trường cho các bạn biết quyết định mới của mình để cùng nhau điều chỉnh lại cho ăn khớp. Do đó mỗi người phải dự phóng trước 2 hoặc 3 nhiệm sở để tùy cơ ứng biến. Sau đây là một thí dụ dẫn chứng: Huỳnh Mạnh định chọn một ngôi trường ở Bạc Liêu, rủ Quang, Tài và Giáo cùng đi đến nơi xem trước thực hư thế nào. Cả bốn đi Honda đến tận nơi vào thăm trường. Vào văn phòng trường, ông Hiệu trưởng người cao to, lực lưỡng, tên Hồ V Trai. Ông ta tự giới thiệu là giáo sư ban Vạn vật (Về sau lên thanh tra trung học, sau 75, chắc có hoạt động hay cơ sở CM nên được giữ chức vụ gì đó cũng kha khá tại sở giáo dục TP HCM). Sau khi xem trường và tiên liệu cho tương lai của mình, trên đường về, Mạnh tâm sự: “ Tui thì nhỏ con, thấp bé, Hiệu trưởng người to đùng, thấy sợ quá. Cho kẹo cũng không dám sống chung với ông này.” Thế là Mạnh tiếp tục đi thăm dò vài trường khác trước ngày quyết định chính thức.
Địa điểm tổ chức lễ chọn nhiệm sở là trụ sở Viện Đại Học Sàigòn tại Hồ Con Rùa đường Duy Tân cũ, nay là Văn phòng 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo và tên đường được đổi là Phạm Ngọc Thạch. Danh sách gọi tên lên chọn nhiệm sở theo thứ tự các Ban. Bên Nhân văn chọn trước và bên Khoa học chọn sau. Bên nhân văn dẫn đầu là Ban Việt Hán, rồi đến Ban Sử Địa, Ban Anh văn, Ban Pháp Văn …, sau đó đến Ban Toán, ban Lý Hóa, Ban Vạn Vật… (Ghi chú: Trước 75 gọi tên là Ban, tương đương vói bây giờ gọi là Khoa. Thí dụ trước kia gọi Ban Anh Văn, sau 75 gọi Khoa Ngữ văn Anh, tương đương với thuật ngữ Department of English).
Trong sân Viện Đại học Sàigòn, tốt nghiệp sinh được phân bổ mỗi Ban đứng một hàng. Ban có số tốt nghiệp nhiều nhất là vài chục, thậm chí như Ban Toán hay Ban Pháp Văn chỉ có 5 hoặc 7 sinh viên đạt yêu cầu tốt nghiệp.
Tốt nghiệp sinh theo tuần tự được microphone gọi tên lên trước mặt Hội đồng phân bổ nhiệm sở và nói lên tên nhiệm sở mà mình quyết định chọn. Sau khi nghe tốt nghiệp sinh chọn xong, ông Chủ tịch Hội đồng yêu cầu cho (bỏ chữ này) người Thư ký Hội đồng viết tên nhiệm sở vào khoảng trống chừa sẵn của tờ Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm một cách công khai trước mặt mọi người. Hoàn tất công đoạn bổ nhiệm một vị Giáo sư Trung học Đệ Nhị Cấp, một công chức chánh ngạch hạng A, có bậc lương tương đương với Phó tỉnh trưởng phụ trách hành chính (Ghi chú: một số tốt nghiệp sinh QGHC được bổ nhiệm làm phó quận trưởng, theo thời gian thăng chức lên làm phó tỉnh trưởng. Trường hợp này ngạch trật của phó tỉnh trưởng không hơn gì ĐHSP. Những năm về sau mới đặt ra điều kiện Cao học hành chánh mới được bổ nhiệm làm phó tỉnh trưởng. Thậm chí có trường hợp như Lâm Tuấn Anh, tốt nghiệp Cao học hành chánh nhưng chỉ được bổ nhiệm làm phó quận trưởng. Phim cũ vừa đứt thì liền được làm Bí thư phường 5 Quận 10, và … chết rồi).
Đại diện Bộ Giáo dục sẽ ký tên chứng nhận sự bổ nhiệm và đóng dấu vào Sự Vụ Lệnh này. Ngày chọn nhiệm sở và được nhận Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm cũng chính là ngày được nhập ngạch Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp chính thức. Sự vụ Lệnh này sẽ được hợp thức hóa bởi một nghị định của chính phủ. Thời cụ Ngô Đình Diệm, không có qui chế Thủ tướng, nghị định bổ nhiệm thay thế Sự Vụ Lệnh này do Bộ Trưởng Phủ Tổng thống ký, những chính phủ sau cụ Ngô, đặt ra Phủ Thủ tướng, do đó nghị định nhập ngạch và thăng trật do Bộ Trưởng Phủ Thủ tướng ký. Có một điều hết sức công bằng và hợp lý là hai người bạn cùng tốt nghiệp chung một ban, sau khi nhận được sự vụ lệnh, được quyền công khai xin Hội đồng cho phép hoán đổi nhiệm sở. Ông Chủ tịch Hội đồng yêu cầu viên Thư ký Hội đồng, gạch ngang tên hai nhiệm sở cũ của 2 tờ Sự vụ lệnh, viết tên hai nhiệm sở xin hoán đổi lên phía trên dòng chữ cũ vào hai tờ Sự Vụ Lệnh của hai người cùng thỏa thuận xin phép hoán chuyển, ký tên xác nhận và đóng dấu vào dòng chữ được điều chỉnh. Tất cả Hội đồng tôn trọng ý kiến đồng thuận của cả hai đương sự, không thắc mắc, không gây khó khăn cho người nào, vì lúc bấy giờ tất cả tốt nghiệp sinh Đại học Sư phạm đều là công chức chánh ngạch hạng A với chỉ số lương 470, cao hơn chỉ số lương của tốt nghiệp sinh Quốc gia hành chánh là 430, và cao hơn chỉ số lương của cả Kỷ sư Bách khoa Phú Thọ.
Các giới chức Bộ Giáo Dục luôn công tâm, minh bạch trong hành sử, trong bao nhiêu năm trời chưa một lần bị điều tiếng xấu gì. Ra trường rồi thì cứ hai năm thăng trật một lần, vùng mất an ninh thì một năm rưỡi. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chậm trễ hoặc sai sót về hồ sơ thăng trật của giáo sư. Từ Bộ Giáo dục, hồ sơ này phải chuyển sang Phủ Tổng Thống hoặc Phũ Thủ Tướng để ký nghị định bổ nhiệm hoặc thăng trật. Bộ Giáo dục chỉ được ký nghị định bổ nhiệm và thăng trật cho giáo viên tiểu học và giáo sư trung học đệ nhất cấp.
Tôi được bổ nhiệm về Rạch giá một phần cũng do Đào Hiếu, bà chị anh lấy chồng công chức ở ngay phố chợ, sẵn sàng nhường tôi căn gác xếp - những năm đó không hiểu sao nhà cửa ở Rạch giá khó hết biết, hình như người ta chỉ xây nhà vừa đủ ở, không bao giờ kinh doanh cho thuê nhà thì phài. Chị làm dâu Rạch giá, cũng có chuyện cười ra nước mắt. Một hôm rửa rau xà lách, chị quen kiểu ăn ngoài Trung, cứ phứt nhỏ cộng rau ra chứ không để nguyên lá, bà mẹ chồng vốn là chủ đất giàu có hồi trước rất gay go, hỏi chị mày là người miệt ngoải sao không lấy chồng ở ngoải, lấy người…Việt Nam làm gì mà cái gì cũng khác. Nghe đâu chị có thưa lại là ảnh ra tận Bình Định cưới con chứ con có vào Rạch Giá kiếm ảnh đâu. Có vậy mà bà cụ cũng nói chị trả treo. Đúng là “ lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình” cũng tội thân gái lắm thay.
Thật ra tôi có thể chọn chỗ gần Saigon hơn, nhưng là trường quận hẻo lánh, thường ăn pháo kích hoặc trên đường từ Saigon đến trường, có bữa ngồi chao dao ven bờ cỏ đợi lính mở đường vừa bị đắp mô đêm trước, tương lai không có gì sáng sủa nên tôi đành nghe lời Đào huynh.
Số phận đưa đẩy làm sao, sau 75 tôi hằng năm chứng kiến cả mấy trăm giáo viên ra trường, cũng thi tốt nghiệp nghiêm túc, cũng treo bảng kết quả các thứ nhưng treo cho biết chơi chứ không có chuyện tự chọn lựa nhiệm sở, mọi sự đều do phòng tổ chức cán bộ quyết định. Tân giáo viên do vậy năm nào cũng chạy chọt tán loạn. Nhiều lần tôi nghe ông hiệu trưởng nói rằng quan điểm giai cấp không chấp nhận quyền chọn trường theo kết quả học tập, học giỏi cũng tốt nhưng để…tham khảo thôi. Tôi thật tình không hiểu tham khảo là gì và để làm gì và càng không hiểu quan điểm giai cấp trong trường hợp này là gì, coi bộ trừu tượng quá lắm. Có những điều mình thấy đơn giản, dễ hiểu theo lẽ công bằng bình thường nhưng thật ra lại bất công theo chuẩn mực mới, chắc tại mình kém trí năng, kém lý luận (theo lối ngang phè của ông Lénine) nên đâm ra cứ thắc mắc lấn cấn, bận lòng chuyện thiên hạ một cách vô duyên.
Chọn trường trại xong xuôi trong khuôn viên Viện Đại Học Sài Gòn, chiều đó không nhớ vì việc gì, chúng tôi kéo nhau vào trường tán dóc. Cả đám cười ngất đọc trên bảng treo dọc hành lang đông người qua lại, ai đó viết bằng phấn trắng rõ mồn một, chữ to đùng: “Người nào nhận sự vụ lệnh đi vùng mất an ninh nhớ ghé nhà Trần M Đức lấy giấy phép của MTGP”. Trần M Đức làm tỉnh cười mỉm chi nhưng coi bộ lo âu lung lắm, dòm dáo dác quanh sân trường, khều tôi nói nhỏ: “Ngài bôi lẹ giùm tui đi, cảnh sát chìm lềnh khênh, cha Tài chơi ác chớ không ai vô đây hết.” Đúng ra Lâm H Tài không ác nhưng cà rỡn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ấy vậy mà khoảng năm 67, 68 chắc do Trần M Đức hay Tô T Th thuyết phục hay xúi dại, anh bỗng dưng là Chủ tịch Ủy Ban Sinh viên ĐHSP chống đi quân trường hay chống đi quân sự học đường gì đó. Chính mắt tôi thấy Vũ Đ S Biển vịn thang cho anh treo câu khẩu hiệu dài thoòng căng ngang trong sân trường ĐHSP Saigon : “Cực lực phản đối quân sự học đường, từ ngày… sinh viên ĐHSP quyết tâm chỉ đến trường với thường phục”. Tôi khều nhẹ Tài hỏi nhỏ: “Hăng vậy?” Tài tỉnh bơ: “ Chơi trò này tao chủ yếu lo cho cái thân trốn lính của tao là chính, đấu tranh cái cóc khô gì. Tao cứ bị tụi nó gọi đi lính hoài nên phải la làng để tự cứu mình thôi. Đi lính lúc này là tan xương.” Đúng là Tàu lai bằng hai Tàu thiệt.
Thấy phong trào chống quân sự học đường “lên” quá, Huỳnh Mạnh tưởng bở, đến báo với trường tư chỗ y dạy thêm trong dịp hè cứ xếp thời khóa biểu như bình thường để kiếm tí tiền bỏ túi cho sướng, xong rồi về trường hoan hỉ hỏi lại LH Tài một lần nữa cho chắc ăn: “Bộ khỏi đi quân sự học đường thiệt hả anh Tài?” Tài tròn xoe mắt: “Treo khẩu hiệu thì cứ treo, la làng thì cứ la, nhưng làm quá, chơi thiệt chống lại nó, nó cúp chuyện Quân sự học đường mà bắt đi Thủ đức luôn thì chết mẹ!” Nghe xong, ngay lập tức, Huỳnh Mạnh bỗng trở nên Huỳnh Yếu …xìu, hắn ta hoãng lên phóng xe chạy thục mạng về trường tư trả lại thời khóa biểu, từ chối giờ dạy. Tôi hỏi Tài: “Tên nào viết khẩu hiệu mà chữ nghĩa bay bướm vậy?” Tài kể: “Nguyễn Thế Cường đó, tao đến nhà nó dụ nó đi uống cà phê, xong kè nó vào Đại học xá nhờ nó viết cho mấy chữ vì chữ viết của nó đẹp. Nó bảo bố tiên nhân, tao có dây dưa gì tới chuyện tranh đấu của bọn bay đâu mà bắt tao viết khẩu hiệu các thứ, tao được hoãn dịch mà, đâu cần đấu tranh làm cái chó gì. Thằng anh tao (đang làm ở Nha Động viên) nó mà biết chuyện, nó giết tao ngay. Nói vậy nhưng rồi cũng cặm cụi ngồi viết cho xong để làm vui lòng bạn bè.”
Phải công nhận những năm học sư phạm là quãng đời vui đáng nhớ nhất, học bổng ba tháng đủ mua xe Vélosolex (thứ xe gắn máy mà đèn xanh không chịu chạy, đèn đỏ không chịu dừng nhưng là mode lúc đó). Phần lớn đứa nào củng dạy giờ trường tư, tiền xu rủng rỉnh, chẳng muốn ra trường xa Sài Gòn. Gặp nhau đùa nghịch chòng ghẹo, có khi chọc cả các thầy nữa. Có một lần thầy Lê Xuân Khoa vắng mặt bất ngờ vì công vụ, cả lớp nhao nhao mừng rỡ được nghỉ học, đứng ngoài hành lang trên lầu tán gẫu. Người nào đó rủ đi ăn bún bò chỗ đường Nguyễn Huệ gần toà Đô chánh (thuở đó cả Saigon chỉ có vài tiệm bún bò Huế chứ không tràn hê bún bò Huế, mì Quảng, đè bẹp hủ tíu Nam kỳ thấy rõ như ngày nay). Chị Quách Thị Trang, thủ quỹ lớp, mở hầu bao kiểm tra xong, ra lệnh: “Được rồi, đi thì đi”. Ngay lúc đó, Lâm H Tài thoáng thấy thầy Nguyễn Ngọc Cư, giáo sư dạy ban Sử Địa xách cặp ra về ngang qua sân trường. Anh ta nhớ “thù” xưa, lúc thi tuyển vào ĐHSP, thầy Cư làm giám thị, gần hết giờ mà Lâm H Tài vẫn ra hiệu xin thêm giấy viết lia lịa, ông thầy bực mình quát: “Anh kia, nhanh lên, thi làm thầy dạy học chớ làm Tổng thống đâu mà viết dữ vậy! Hết giờ rồi, coi lại bài, nộp lẹ đi!” Tài mất hứng, quằm rằm, ghim chuyện này trong bụng. Xong cử nhơn Văn khoa, đã có chứng chỉ hành nghề giáo sư tư thục anh vẫn thi vào ĐHSP để… trốn lính chớ có định làm tổng thống tổng khậu (đầu bếp) gì đâu. Cả khối tên trong lớp cũng trong tình trạng đó: Ng V Hai có bằng Cử nhơn giáo khoa triết, Lê V Bảy có bằng Cử nhơn Việt Hán, Ng Đ Tiến, Ng V Quang, Lê B Nam cũng đậu cử nhơn, đang là giáo chức dạy trường công, tốt nghiệp Quốc gia sư phạm, cũng thi vào đây vì lý do lính tráng. Vẫn không quên mối hận xưa, Lâm H Tài bụm tay hét lớn xuống sân trường: “ Ông già đầu bạc” rồi mau lẹ thụp đầu xuống vọt nhanh đến cầu thang. Cả lớp bỗng tán loạn ngồi thụt xuống để lánh mặt, mấy chị chạy nhanh vào trốn trong phòng học, Trí quýnh quáng bò theo Tài trông chẳng ra làm sao. Thầy Cư từ dưới sân nhìn lên hành lang không một bóng người,có vẻ muốn quay vào tìm thủ phạm nhưng một thoáng ngập ngừng rồi quay trở lại nhà xe, mặt có sắc giận. Tình hình êm, cả lớp bu vào lên án Lâm H Tài…vô trách nhiệm, chơi mà để ai chịu thì chịu. Chán nhất là mấy chị không nói gì tới chuyện bún bò nữa.
Bọn tôi khác xa tuổi trẻ thời nay ở chỗ hầu như không ai biết nhậu, thậm chí café cũng chỉ vài người, chỉ chuyên trị… soda chanh mà có lần Trần M Đức bảo dở nhất thế giới (ý anh soda... khó uống hơn nước nấu chín bình thường chắc). Giải trí bằng cinéma, mua máy thu băng nghe nhạc cổ điển, cứ nửa tháng một lần chờ báo VĂN phát hành để đọc thơ Tô Thuỳ Yên, thật sự “đỉnh cao muôn trượng” của thi ca VN hiện đại; đọc “Ung thư” của Thanh Tâm Tuyền, thưởng thức một thứ văn xuôi Việt ngữ tân kỳ, đột phá, độc đáo không cùng. Chúa nhật hay kéo nhau ra vùng quê đi picnic, thích nhất là đi chơi vườn trái cây Lái Thiêu lúc bấy giờ còn xanh mịt ngút ngàn. Con đường nhựa nho nhỏ từ thị trấn Lái thiêu đi Búng vắng tanh, lọc cọc mấy chiếc xe bò chở củi và nông sản lăn chầm chậm theo nhịp đời thong thả. Hai bên đường trải rộng những vườn cây yên ả, thấp thoáng bên giếng nước những thiếu nữ rửa rau, vo gạo cạnh gốc khế cổ thụ đung đưa quả xanh quả đỏ. Nhan nhản trên bờ đầm nước trong veo, cong cong theo đường nhựa, nở rạng rỡ những chùm hoa trắng lớn cánh la đà trên mặt nước. Bên kia sông mới thật sự xanh rì vườn cây trái sum sê, nhiều nhất là măng cụt và dâu dây, cây trên trăm tuổi vẫn xanh mướt um tùm, thân gốc đầy những khối u quái dị. Trời chưa tắt nắng vườn đã líu lo tiếng chim chào mào gọi chiều về, chẳng mấy chốc lặng chìm trong âm u tịch mịch, nhàn nhã lạ thường. Tô Thùy Yên hẳn đã viết về xứ này trong mấy câu thơ tình lừng lẫy:
Ve kêu như biển lâng lâng dậy
Xô giạt hồn anh mộng chập chờn
Ngủ chín giấc chiều trên xác lá
Tàn măng âu yếm đắp thân đơn
…………………………………
Cây cỗi càng sưng vết chặt lồi
Chờ nhau cho đáng kiếp chờ thôi
Tuổi già gom lại bao thương tưởng
Như cuối vườn chiều mót củi rơi.
(Vườn hạ-Thơ tuyển)
Và đẹp biết bao hình ảnh:
Mùa hè, em bới tóc lên cao,
Môi ửng son và má chớm đào
Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại,
Lòng như con sáo trong ca dao.
…………………………………..
Em mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương nào,
Đến nay, lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng nhau.
(Mùa hạn- Thơ tuyển)
Không biết vì mê cảnh vật đó từ thời thanh xuân hay sao mà đến lúc về hưu, Lê V Bảy mua cuộc đất bên bờ sông lập vườn trồng hoa lan để bán. May cho anh hoa lan chỉ hút dưỡng chất trong gió và sương, không lệ thuộc gì đất và nước nên mảnh vườn đó vẫn còn tồn tại. Tôi ghé thăm anh , chẳng còn thấy hoa trắng đung đưa bên dòng nước, mùi tanh tanh phảng phất khắp mặt đầm đục lềnh bập bềnh rác rưởi, sầu riêng xác xơ ủ rũ, măng cụt còn lá nhưng không trái, chỉ vài cây mận dễ tính trổ bông trắng loe hoe. Con đường nhỏ năm xưa nay là đại lộ phẳng lì, nơi đua tốc độ của mấy yên hùng xe gắn máy đêm đêm đem tuổi trẻ đầy sinh lực đùa vui với thần chết. Cứ lao vào cơn điên công nghiệp hoá mù quáng, tự huỷ, chẳng cần phải thông minh gì, người nào cũng có thể hình dung được năm mười năm nữa dòng nước đó sẽ “ Tanh nồng như máu chết”(TTY)và vườn tược cây trái là huyền thoại của một thuở xa xưa.
Bọn chúng tôi hồi đó hầu như biết rõ tư tưởng, khuynh hướng chính trị của nhau nhưng mặc kệ hết. Ai ưng làm gì thì cứ làm. Một bữa, Nguyễn T Cường (Bắc kỳ di cư) chở Trần M Đức (là VC, ai cũng biết) trên xe gắn máy, bất ngờ, Cường ngoái cổ hỏi: “Ê, Đức, mày có phải chính hiệu VC không đó?” Chẳng lẽ người bị hỏi thẳng thừng công nhận, thấy hơi kỳ nên hỏi lại: “Mà VC thì sao?” Cường cười: “Chẳng sao, mai mốt tao sẽ kể với con tao là đã từng chở một tên VC thứ thiệt sau xe”. Họ cư xử với nhau trên tình bạn và bạn bè là trên hết. Ai làm gì thì chịu trách nhiệm lấy hành vi của mình.
Phải chăng nền văn hóa nào thì tạo ra con người đó?
Điều này liệu đúng chăng khi có người kể chuyện LDH, lúc còn sinh viên, buổi chiều đi lơ ngơ trên đường phố Qui nhơn thì được người bạn học cũ, lúc bấy giờ đang là phó ty cảnh sát, đang lái xe jeep, gọi lại bảo: “Ê, H, mày đi đâu lơn tơn đó? Tụi nó đang lùng bắt mày dữ lắm, dọt lẹ lên đây tao nói cho nghe.” Anh ta chở LDH đến tận mấy chục cây số phía nam Qui nhơn rồi bảo: “Mày cứ đi chừng cây số đến chỗ chân núi, đồng chí của mày đầy nhóc trong đó, chắc mày dư biết rồi, dọt lẹ đi, lò mò trở lại Qui nhơn là tàn đời mày nghe”. Sau 75 không lâu, LDH lên làm quan lớn, người bạn cảnh sát đi cải tạo mút mùa, có người biết chuyện nhắc lại, ông quan cách mạng bảo: “Nó là bạn cũ nhưng có tội với nhân dân thì phải trả nợ thôi”.
Lâm H Tài còn kể một chuyện liên quan tới Trương V Kh, nghe xong đố mà không buồn đời. Khoảng 68, 69, phong trào sinh viên bị khủng bố. Bên Văn khoa được thầy Nguyễn Văn Trung bảo bọc, bên Sư phạm thầy Trần Văn Tấn cũng ra sức bảo vệ, nhưng không an toàn bằng. Nhưng vin vào luật tự trị đại học, các sinh viên hoạt động chính trị vẫn trốn được trong khuôn viên trường, cảnh sát không được quyền vào bắt bớ. Họ dường như biết rõ ai đang trốn nên chặn các lối ra vào, theo dõi quyết liệt, ra khỏi cổng trường là bị tóm ngay. Trương V Kh không thể trốn mãi vì càng lâu càng bất tiện và nguy hiểm nên người ta phải tổ chức đưa anh ra bưng. Trần M Đức tới tìm Lâm H Tài lúc anh ta đang ngủ trưa, cậy anh này làm một việc khó. Đức nói: “Kh. đang hết sức khó khăn, không dám ra khỏi khuôn viên trường.” Tài hỏi tại sao vậy? Đức nói “Kh bị vây nhiều ngày rồi, bây giờ chỉ có anh làm được việc này, vì bấy lâu nay anh chẳng làm gì nên chẳng ai để ý đến anh. Anh giả bộ đến thăm ai đó ngoài vòng rào trường, đi theo ngõ Trần Bình Trọng chạy dọc theo sân banh, thẳng vô con hẻm rồi quay đầu xe lại chờ sẵn, Kh sẽ leo lên nóc nhà của ông lao công trường ở phía sau nhà gởi xe, anh không bị để ý đâu mà sợ, nên rất dễ thực hiện việc này cứu Kh. Khi anh vừa quay đầu xe lại, Kh sẽ từ trên mái nhà thấp sẽ nhảy xuống, anh chở Kh thẳng về khu Cây da sà thì có người đến đón”. Không phải người hoạt động hay cảm tình viên gì nhưng nghĩ chút tình bạn với Đức và bạn cùng trường với Khuê, Tài đã hoàn thành “nhiệm vụ” một cách xuất sắc! Không nói quá, anh đã cứu mạng Kh. Sau năm 75, lúc Tài vừa ra trại cải tạo, phải làm đơn trình Ban Chỉ huy công an phường:“…nay tôi xin được tạm trú tại…nhà tôi” trong thời gian chờ được bố trí đi kinh tế mới theo chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước. Tình cờ, cháu anh làm tài xế cho cơ quan xếp Kh, đưa Kh đi công tác bên Campuchia, hỏi Kh có biết Lâm H Tài không thì ông này nhíu mày suy nghĩ một hồi mới hơi gật đầu rồi làm thinh luôn như không muốn đá động gì tới nhân vật mang tên Tài đó nữa.
Đôi lúc nghĩ vơ vẩn không hiểu nổi chúng tôi có phải là “the lost generation” như người ta thường nói về lứa tuổi mình không. Giống như người già cả lãnh đạm trước chuyện đời, bọn chúng tôi cứ vất vơ vất vưởng, kiểu như người ta nói mất phương hướng. Chủ nghĩa Hiện sinh của Jean Paul Sartre nhiều ít cũng ảnh hưởng lên tuổi trẻ có học. Chủ nghĩa Marx được giáo sư Nguyễn Văn Trung và Trần Văn Toàn giảng dạy công khai ở Đại học Văn khoa tác động không nhỏ đến khuynh hướng thiên tả trong đám sinh viên. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất dường như ai cũng chỉ lo thân, mặc kệ chuyện đời tới đâu cứ tới và ước gì ta có thể “đứng ngoài những giọt máu rơi”. Nói phần đông sinh viên đều thiên tả thì cũng không đúng. Mỗi lớp chừng một vài người thật sự theo MTGP, một số ít có thiện cảm nhưng kính nhi viễn chi. Đa phần còn lại thì không quan tâm tới chính trị, chỉ mong ra trường đi dạy yên thân; ít ai công khai bày tỏ “lập trường” thân Mỹ bao giờ, nhưng cảm phục và chịu ảnh hưởng văn hóa Mỹ, nhất là mê phim Mỹ thì có. Rạp Lê Lợi cạnh trường Văn Khoa chiếu đi chiếu lại những phim kinh điển, là nơi ăn dầm nằm dề của đám sinh viên Văn khoa, có người xem đi xem lại phim Vacance Romaine, Les Dimanches de la ville d’Avray, Tant qu’il y aura des hommes… hàng chục lần. Phim của David Lean, Arthur Penn, John Boorman được hâm mộ vô kể. Cho tới giờ này tôi nghĩ chưa ai làm phim littéraire qua nổi David Lean và cũng chưa ai làm phim suspense hay hơn Arthur Penn hoặc John Boorman. Phim ảnh ngày nay quá lạm dụng xảo thuật vi tính, càng lúc càng bạo lực và dữ dội nhưng tinh ý chút sẽ thấy ngay vẻ giả tạo.
Nguyễn Khiêm